Trong làng kịch nói Việt Nam, có lẽ ai cũng biết đến Lưu Quang Vũ - một hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch trường những năm tám mươi của thế kỉ XX. Tuy có tài ở nhiều lĩnh vực như viết truyện ngắn, soạn kịch, làm thơ, vẽ tranh... nhưng ông được xem là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại. Trong các vở kịch của Lưu Quang Vũ, đáng chú ý nhất là vở "Hồn Trương Ba, da hàng thịt". Bằng nghệ thuật xây dựng nội tâm độc đáo, cảnh VII, đoạn cuối vở kịch đem đến cho người đọc nhiều vấn đề tư tưởng sâu sắc qua nhân vật Trương Ba trong thân xác anh hàng thịt. Mời các bạn tham khảo một số bài văn phân tích nhan đề của tác phẩm đã được Toplist tổng hợp trong bài viết dưới đây.
Bài văn phân tích nhan đề tác phẩm "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" số 3
Hồn Trương Ba, da hàng thịt là vở kịch nổi tiếng của Lưu Quang Vũ, cũng là một trong những vở kịch đặc sắc nhất của kịch hiện đại Việt Nam. Nhan đề Hồn Trương ba, da hàng thịt là một nhan đề giàu ý nghĩa, không chỉ dẫn dắt người đọc đến với câu chuyện mà còn khơi dậy được trí tò mò, khám phá của tác giả đối với vở kịch.
Hồn Trương Ba, da hàng thịt được xây dựng dựa trên một câu chuyện dân gian cổ kể về Trương Ba, một người trồng vườn có tài đánh cờ, tuy nhiên vì sự tắc trách của Nam Tào mà bị chết oan, để sửa sai Trương Ba đã được sống lại nhưng không phải trong thân xác của mình mà trong xác của người hàng thịt mới chết trước đó.
Từ khi sống trong thân xác của người hàng thịt, Trương Ba đã trải qua rất nhiều đau khổ, bi kịch khi dần thay đổi theo những thói quen, nhu cầu của người hàng thịt. Câu chuyện dân gian kết thúc ở chi tiết Trương Ba được trở về với thân xác của mình, sống cuộc sống hạnh phúc bên người thân. Vở kịch của Lưu Quang Vũ lại được phát triển từ chính phần kết thúc của câu chuyện để truyền tải những thông điệp sâu sắc về nhân sinh, về mối quan hệ giữa phần hồn và phần xác bên trong con người.
Nhan đề Hồn Trương Ba, da hàng thịt trước hết thể hiện tình trạng của Trương Ba khi được sống lại trong thân xác người hàng thịt, thể hiện sự tương phản, khác biệt giữa phần thể xác bên ngoài và linh hồn bên trong con người. Hồn Trương Ba, da hàng thịt không chỉ là những nhân vật trong câu chuyện, phản ánh bi kịch được đề cập đến trong vở kịch mà còn mang những ý nghĩa biểu tượng sâu sắc.
Hồn Trương Ba biểu tượng cho tâm hồn trong sạch, đẹp đẽ còn xác người hàng thịt lại là biểu tượng cho phần thể xác với những nhu cầu về vật chất thiết thực của con người. Trong vở kịch, hồn Trương Ba biểu tượng cho vẻ đẹp trong sáng, thanh cao còn da hàng thịt lại là biểu tượng cho cái xấu xa, dung tục, tầm thường. Tuy mang tính đối lập nhưng lại là những phần cùng tồn tại bên trong con người.
Nhan đề “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” là một đặc sắc nghệ thuật khi phản ánh được thực trạng cuộc sống của con người với mâu thuẫn giữa nhu cầu về vật chất và tinh thần. Nhan đề còn phản ánh được bi kịch của con người khi phải sống bên ngoài một đằng, bên trong một nẻo, khi những lí tưởng sống đẹp đẽ bị chi phối bởi những nhu cầu vật chất tầm thường nhưng thiết thực.
Thông qua nhan đề “Hồn Trương ba, da hàng thịt” còn thể hiện được những thông điệp sâu sắc của nhà văn Lưu Quang Vũ, đó là sự cảnh tỉnh con người khi không làm chủ được hoàn cảnh, làm chủ bản thân mà bị hoàn cảnh ấy chi phối dẫn đến sự tha hóa, biến đổi bản chất bên trong. Nhu cầu vật chất không xấu, nó là những nhu cầu thành thực, cần thiết nhất của con người nhưng không được để những bản năng xấu xa, tầm thường làm cho nhân cách tốt đẹp trở nên lệch lạc, nhòa mờ.
Được sống và làm người là cơ hội quý giá nhưng được sống với những lí tưởng của bản thân còn quý giá hơn. Sự sống chỉ thực sự có ý nghĩa nghi con người sống tự nhiên với sự hài hòa giữa các nhu cầu vật chất, tinh thần, giữa bên trong và bên ngoài của con người.
Nhan đề Hồn Trương Ba, da hàng thịt là nhan đề ý nghĩa vừa góp phần định hướng nội dung vừa chứa đựng những nội dung sâu sắc mà tác giả muốn truyền tải.
Bài văn phân tích nhan đề tác phẩm "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" số 6
Lưu Quang Vũ là một người vô cùng tài năng, những sáng tác của ông đã để lại cho hậu thế những bài học về cuộc sống về con người về mối quan hệ giữa người với người. Trong đó, Hồn Trương Ba da hàng thịt là tác phẩm kịch nổi tiếng. Chính nhan đề của kịch cũng tạo ra những hấp dẫn không tưởng cho độc giả. Ngoài ra nó còn gợi mở những ý nghĩa ẩn ý trong đó.Một nhan đề không chỉ tạo sức hấp dẫn khi khơi lên được sự tò mò nơi độc giả.
Khi nhận ra nhan đề của kịch ta có thể để ý một điều lạ mà có thể có thể thấy ngay đó là “ hồn ở một nơi” mà “ thể xác lại ở một nơi” . nó được xây dựng nhằm tạo ra nghệ thuật tương phản giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt, có ý nghĩa tương phản giữa thể xác bên ngoài và linh hồn bên trong. Chính vì vậy hồn Trương Ba và da hàng thịt chính là những hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Hồn và thể xác vốn dĩ gắn liền với nhau, hòa hợp với nhau nhưng khi hồn một nơi xác một nơi thì chuyện gì sẽ xảy ra? Đấy là một trong những điểm thắt nút mà chính ngay tại kịch, Lưu Quang Vũ đã giải quyết một cách thỏa đáng.
Có thể thấy rằng da hàng thịt là biểu tượng cho vẻ bề ngoài thể xác con người thì hồn Trương Ba là biểu tượng cho tâm hồn, cho thế giới nội tâm sâu kín bên trong. Sự mâu mâu thuẫn giữa hình thức và bản chất trong một con người. Thông qua kịch thì nó còn nhằm thể hiện một ý nghĩa sâu xa,hồn Trương Ba còn là biểu tượng cho vẻ đẹp trong sáng thanh cao, còn da hàng thịt lại là biểu tượng cho cái xấu xa, cái dung tục tầm thường, cái bản chất thấp kém trong một con người. Một con người không thể sống trong vỏ bọc của một người khác.hơn nữa một tâm hồn thanh cao không thể sống không thể ẩn náu trong một thể xác dung tục. Sống như thế thì còn khổ hơn chết, thế thì thà chết còn thỏa.
Ngay từ ban đầu của kịch những nét gợi mở của nhan đề cũng góp phần tạo ra những cái hay của kịch này. Lưu Quang Vũ quả thật là tài ba trong cách lôi kéo người đọc vào các tác phẩm của ông cũng như từ đó thể hiện ngụ ý mà ẩn trong tầng kịch.
Bài văn phân tích nhan đề tác phẩm "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" số 5
Lưu Quang Vũ (1948-1988) là một nhà soạn kịch, nhà thơ và nhà văn hiện đại của Việt Nam. Bằng tài năng thiên phú của mình, ông đã để lại rất nhiều các tác phẩm nổi bật trong lòng công chúng Việt nam. Tiêu biểu trong hàng loạt tác phẩm đã làm sôi động sân khấu Việt nam thời kỳ đó là vở kịch "Hồn trương ba da hàng thịt”. Đây là một tác phẩm đặc sắc không chỉ về nội dung mà ngay nhan đề của nó đã khơi gợi lên được sự tò mò về ý nghĩa của câu chuyện.”
Nhan đề Hồn trương ba, da hàng thịt gợi ngay cho độc giả về hai hình ảnh của “hồn” và “da”, cũng như đó chính là hai yếu tố quan trọng của một con người. Trong khi da thịt là phần thân xác cụ thể, là những điều có thực thì hồn là điều rất trừu tượng. Chẳng ai nhìn thấy linh hồn bao giờ, nhưng người ta tin rằng thân xác có chứa đựng linh hồn. Hồn nào thân xác đó, nhưng mâu thuẫn trong vở kịch này lại là hồn một nơi người một nẻo.
Nếu như da hàng thịt là biểu tượng cho vẻ bề ngoài, thì hồn trương ba là đại điện cho thế giới tâm hồn. Người xưa đã hay nói rằng: “đừng trông mặt mà bắt hình dong” vì chẳng thể nhìn vẻ bề ngoài mà đánh giá được phẩm chất, nhân cách của một người nào đó. Trong khi hồn trương ba là biểu tượng cho vẻ đẹp thanh tao, thì trái ngược với nó là bộ mặt bặm trợn, xấu xa của thân xác anh hàng thịt. Hai thứ tưởng chừng như chẳng thể hòa hợp nào với nhau lại đang phải bắt cặp, sánh đôi cùng nhau.
Tên gọi của vở kịch đã đẩy cao những mâu thuẫn, xung đột bên trong mỗi con người. Nó phản ánh cuộc sống của những con người khi phải rơi vào hoàn cảnh xấu xa, họ có thể có những hành động lời nói thô tục, giả tạo nhưng ẩn sâu vào những tâm hồn ấy là những điều đẹp đẽ. Tác giả lên án xã hội không để cho con người ta được sống với chính mình. Hơn thế nữa, ông còn muốn gửi gắm tới độc giả một thông điệp rằng: dù trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần cố gắng làm chủ được bản thân, tránh xa những lối sống thô tục bạo trần mà giữ cho bản thân thanh cao, trong sáng. Hãy cố gắng gạt bỏ những ham muốn thấp kém của cá nhân để vươn tới những điều lương thiện trong cuộc sống. Tâm có sáng thì làm việc gì cũng sáng như gương. Điều này cũng sẽ giúp cho tâm hồn và thể xác của ta luôn hòa làm một. Sự sống chỉ thật sự có ý nghĩa khi ta được sống đúng với những tâm tư, ước mong của bản thân.
Đọc “Hồn trương ba, da hàng thịt”, người đọc có thể soi thấy bản thân mình ở trong đó. Đặc biệt thông qua ý nghĩa nhan đề và cái chết của nhân vật Trương ba, người ta càng thấy được khao khát được sống với chính mình của con người càng trở nên mãnh liệt dù trong bất cứ hoàn cảnh nào. Chết không hẳn là kết thúc, mà nó là một cách để ta được thoải mái, thảnh thơi tìm thấy đúng linh hồn của mình.
Bài văn phân tích nhan đề tác phẩm "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" số 2
Hồn Trương Ba da hàng thịt của Lưu Quang Vũ là một trong những vở kịch nổi tiếng đã và đang được nhiều khán giả đón nhận. Qua nhiều tác phẩm để đời, ông đã trở thành một hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch trường những năm tám mươi của thế kỷ XX, đồng thời được coi là nhà soạn kịch tài năng của nền văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại. Hồn Trương Ba da hàng thịt được tác giả lấy ý tưởng từ một cốt truyện dân gian, sau đó viết thành vở kịch nói hiện đại. Tác phẩm kể về cuộc hoán đổi thân xác của hồn Trương Ba và xác anh hàng thịt. Trương Ba giỏi đánh cờ bị Nam Tào bắt chết nhầm. Vì muốn sửa sai nên Nam Tào và Đế Thích cho hồn Trương Ba sống lại, nhập vào xác hàng thịt vừa mới chết. Trú nhờ linh hồn trong xác hàng thịt, Trương Ba gặp rất nhiều phiền toái : lí trưởng sách nhiễu, chị hàng thịt đòi chồng, gia đình Trương Ba cũng cảm thấy xa lạ… mà bản thân Trương Ba thì đau khổ vì phải sống trái tự nhiên, giả tạo. Đặc biệt thân xác hàng thịt làm Trương Ba nhiễm một số thói xấu và những nhu cầu vốn không phải của chính bản thân ông. Trước nguy cơ tha hóa về nhân cách và sự phiền toái do mượn thể xác của kẻ khác, Trương Ba quyết định trả lại xác cho hàng thịt và chấp nhận cái chết.
Tên vở kịch Hồn Trương Ba da hàng thịt đã nói lên phần nhiều cốt lõi chính của câu chuyện. Theo quan niệm dân gian, khi còn sống, con người có hai phần là phần hồn và phần xác. Khi chết đi, hồn lìa khỏi xác. Chỉ có thể xác tan giữa trong đất, còn linh hồn vẫn còn tồn tại mãi. Nhưng để sống được, bắt buộc phải có cả hồn cả xác. Khi Trương Ba bị bắt chết nhầm, thể xác ông đã tan vào trong đất, chỉ còn lại linh hồn. Muốn làm cho Trương Ba sống lại, phải cho hồn ông nhập vào một cái xác khác còn nguyên vẹn. May thay có anh hàng thịt ngay cạnh nhà vừa mới chết. Đế Thích nhân cơ hội cho hồn Trương Ba nhập vào xác anh ta. Những tưởng sự sống hồi sinh, Trương Ba sẽ vui mừng đón chào cuộc sống mới. Nhưng mọi thứ đều đảo lộn, biết bao nhiêu vấn đề rắc rối, phiền toái xảy ra khiến Trương Ba khó chịu, gia đình ông cũng ngỡ ngàng không biết chấp nhận sự thật này ra sao.
Đúng như lời Trương Ba đã nói: Tôi muốn được là tôi vẹn toàn, không thể nào có sự hoàn hảo trong một cơ thể mà Hồn Trương Ba da hàng thịt, bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo. Linh hồn Trương Ba khiết tịnh, trong sạch, cao quý, còn anh hàng thịt vốn là người vũ phu, tục tĩu. Làm sao có thể dung hòa được hai khí chất hoàn toàn trái ngược nhau trong cùng một cơ thể ? Ý chí muốn làm việc tốt, nhưng thể xác lại ham mê những thú vui tầm thường. Có khi thể xác còn lấn át ý chí, khiến linh hồn Trương Ba chẳng còn vẹn nguyên như ban đầu. Ông buồn rầu, bực bội. Ông muốn chăm chút cho những mầm non trong vườn, nhưng bàn tay to bè, thô lỗ của xác hàng thịt chẳng thể làm theo ý ông muốn. Thậm chí ông còn làm gãy cái chồi non, cái Gái trông thấy càng thêm ghét ông. Không phải nó ghét Trương Ba, mà nó ghét con người hiện tại của Trương Ba là xác anh hàng thịt. Nó không nhìn thấy sự khiết tịnh của hồn Trương Ba bên trong thân xác kềnh càng, thô lỗ của anh hàng thịt. Còn rất nhiều vấn đề bị đảo lộn trong cuộc sống cũng như trong gia đình Trương Ba.
Nhan đề của tác phẩm đã gợi lên một lời khẳng định mang ý nghĩa rất sâu sắc : Không thể sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo. Không thể nào có một tâm hồn cao quý, tốt đẹp khi bên ngoài có những việc làm, hành động xấu xa. Đồng thời đây là bản án vạch tội những kẻ đang sống như Hồn Trương Ba da hàng thịt. Sống nhưng không thật lòng. Hành động và suy nghĩ không thống nhất với nhau. Hồn Trương Ba chỉ ý chí, suy nghĩ, tư tưởng, tâm hồn, còn da hàng thịt chính là phần thể xác, phần thể hiện ra bên ngoài của một con người. Trong xã hội hiện nay, có nhiều kẻ trong đầu đang ủ rất nhiều âm mưu hiểm độc, nhưng bên ngoài lại tỏ vẻ hiền lành đạo đức. Dân gian có câu “miệng nam mô bụng một bồ dao găm” có lẽ rất đúng trong trường hợp này. Miệng nói lời hay nhưng trong lòng thực chất có nhiều dã tâm.
Một mặt khác, Hồn Trương Ba da hàng thịt còn là lời nhắc khéo cho những ai đang sống nương nhờ vào kẻ khác, vào những thứ không phải là của mình. Như Trương Ba đã nói: Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết. Sự sống là món quà quý giá mà tạo hóa ban tặng cho mỗi người. Nhưng phải sống như thế nào cho ý nghĩa mới là điều quan trọng. Sống phải được làm chính bản thân mình, tự làm chủ mọi việc trong đời sống. Đồng thời, nhan đề tác phẩm là lời thức tỉnh cho những kẻ đang lầm đường lạc lối, đang để phần con lên ngôi lấn át phần người. Trên thực tế có không ít kẻ đang ngập ngụa trong con đường tội lỗi, trong những thú vui vô bổ, thậm chí là thác loạn như nghiện hút, trộm cắp…
Tất cả chỉ nhằm mục đích thỏa mãn thể xác. Rồi đến một ngày nào đó thân xác hoang tàn, sức khỏe tiều tụy, họ mới khóc lóc trong sự hối hận muộn màng. Mỗi người hãy tự nhìn nhận lại bản thân mình. Đừng để mình tự rơi vào hoàn cảnh như Hồn Trương Ba da hàng thịt. Sự sống quý giá. Nhưng sống làm chính bản thân mình lại càng quý giá hơn. Hãy để mỗi ngày được sống là một ngày ý nghĩa đáng tự hào. Đó cũng chính là thông điệp sâu sắc nhất mà Lưu Quang Vũ đã muốn gửi gắm vào tác phẩm. Cho tới nay, dù đã nhiều lần công diễn trên sân khấu, nhưng khán giả vẫn luôn đón nhận và tự kiểm điểm bản thân sau mỗi lần xem.
Bài văn phân tích nhan đề tác phẩm "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" số 8
Lưu Quang Vũ được đánh giá là nhà viết kịch xuất sắc trong thời kỳ hiện đại. Đương thời khi còn sống, kịch của anh luôn có mặt trên sàn diễn của nhiều đoàn nghệ thuật trong cả nước. Trong lịch sử sân khấu nước ta, thời kỳ kịch của Lưu Quang Vũ có lẽ là thời kỳ sôi động, giàu sức sống nhất. Những năm 80, kịch của Lưu Quang Vũ xuất hiện đã làm thay đổi tư duy của người biểu diễn cũng như của công chúng yêu sân khấu. Nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu phê bình đã đánh giá cao tài năng, tâm huyết và những đóng góp của Lưu Quang Vũ đối với nền sân khấu nói riêng và với nền văn học nói chung. Anh cũng là một trong những "người đi trước” trong phong trào đổi mới văn hoá văn nghệ, dùng ngòi bút của mình góp phần đem lại những điều tốt đẹp cho con người và xã hội. Trong đó không thể không kể đến vở kịch Hồn trương Ba, da hàng thịt. Ngay từ nhan đề đã gây ấn tượng không nhỏ đối với người đọc.
Kịch bản của Lưu Quang Vũ dù được sáng tác nhanh với một số lượng lớn: hơn 50 vở kịch trong khoảng thời gian chưa đầy 10 năm, nhưng hầu hết đều đạt đến một chất lượng nghệ thuật nhất định. Ngay cả những vở được coi là không thành công khi đã lên sàn diễn cũng có một giá trị văn học không thể phủ nhận. Chúng ta đều biết rằng vở diễn nếu tách rời khỏi hoạt động sân khấu sẽ mất đi phần “động" chỉ còn lại phần “tĩnh”. Sân khấu đem đến cho kịch một đời sống thứ hai, sống động, hấp dẫn và sân khấu cũng quy định cho kịch những đặc tính nhất định, nên kịch có những đặc trưng riêng khác hẳn với thơ và tiểu thuyết. Trước khi đến với sân khấu Lưu Quang Vũ đã là người làm thơ, viết văn có phong cách riêng. Anh đã kết hợp và phát huy được những thế mạnh của mình khi đến với loại hình nghệ thuật có ý nghĩa tổng hợp như sân khấu. Từ thơ và chất thơ trong văn xuôi, rồi từ chất văn xuôi của đời sống, Lưu Quang Vũ đã chuyển sang viết kịch và đã gặt hái được những thành công rực rỡ. Ở đó vẫn tiếp tục những nguồn mạch được khai mở từ khá sớm nhưng Lưu Quang Vũ đã chín chắn, tỉnh táo hơn. Kịch là nơi Lưu Quang Vũ có thể bộc lộ trực tiếp hơn những khám phá và nhận thức của anh, là nơi anh có thể đóng góp tích cực hơn cho đời sống. Lưu Quang Vũ đã nói lên những suy nghĩ của mình trong lời tự bạch, trước khi mất: “Trong quan niệm của tôi, thơ và kịch rất gần nhau. Đó là hai thể loại lớn của văn học, là cuộc sống và thế giới tinh thần của con người được biểu hiện ở dạng tinh chất nhất, mạnh mẽ nhất, tuy ngôn ngữ nghệ thuật của chúng có những điểm khác biệt. Tôi say mê sân khấu từ nhỏ và làm thơ cũng từ nhỏ, nhưng chỉ mãi đến khi hơn ba mươi tuổi, tôi mới dám cầm bút viết vở kịch đầu tiên. Tôi cho rằng nghề viết kịch đòi hỏi người ta phải có sự từng trải khá dày dạn về đời sống và một sự am tường nhất định về sân khấu. Đã có khá nhiều thi sĩ thành đạt từ thuở thiếu niên nhưng hình như khó có ai thành công về viết kịch khi chưa đến 30 tuổi… Động lực xui giục tôi viết kịch cũng là những động lực khiến tôi làm thơ, đó là khát vọng muốn được bày tỏ, muốn được thể hiện tâm hồn mình và thế giới xung quanh, muốn được tham dự vào dòng chảy mãnh liệt của đời sống, được trao gửi và dâng hiến”.
Kịch của Lưu Quang Vũ khai thác nhiều đề tài, đi vào khám phá mọi mặt của đời sống xã hội và con người. Có thể phân chia, sắp xếp kịch Lưu Quang Vũ ra làm nhiều loại căn cứ vào cốt truyện của kịch bản. Cha ông ta có câu “có tích mới dịch nên trò”. Có thể hiểu nôm na “tích” chính là cốt truyện, phải có cốt truyện mới tạo dựng thành tác phẩm, sân khấu mới có kịch để diễn. Kịch của Lưu Quang Vũ thường được xây dựng trên một cốt truyện chắc chắn, chủ yếu tập trung vào các vấn đề, các sự kiện quan trọng trong đời sống. Việc khai thác các mô típ dân gian, dựa vào đó để viết kịch bản mang đậm dấu ấn cá nhân và phong cách của mình đã tạo cho kịch Lưu Quang Vũ một chiều sâu đáng kể. Nó tạo cho kịch của anh sự phong phú về đề tài, hấp dẫn ở cốt truyện, lôi cuốn ở nghệ thuật xây dựng nhân vật.
Trong số kịch bản của Lưu Quang Vũ, khối lượng những vở khai thác trực tiếp từ cốt truyện dân gian không nhiều, nhưng hầu hết những vở kịch đó đều đạt tới hiệu quả nghệ thuật tương đối cao. Tiêu biểu nhất là vở Hồn Trương Ba, da hàng thịt. Vở kịch này được viết từ năm 1984, nhưng cho đến năm 1987, trong không khí đổi mới dân chủ, mới được ra mắt công chúng. Giới nghiên cứu phê bình cho rằng đây là một trong những vở kịch hay nhất của Lưu Quang Vũ. Ngay khi mới công diễn, vở kịch đã gây chấn động dư luận, tạo ra một không khí tranh luận sôi nổi trên báo chí và trong giới sân khấu. Những rắc rối đổ vỡ bắt nguồn từ sự sống vay mượn của Trương Ba trong xác anh hàng thịt đã khiến cho chúng ta thấy: Cuộc sống thật là đáng quý nhưng không phải sống thế nào cũng được. Sống vay mượn, chắp vá, không có sự hài hoà giữa hồn và xác chỉ đem lại bi kịch cho con người. Cuộc sống chỉ có giá trị khi con người được sống đúng là mình, được sống trong một thể thống nhất. Vở kịch Hồn Trương Ba da hàng thịt không chỉ đề cập đến đời sống một cá nhân mà còn đặt ra những vấn đề của xã hội. Thói quan liêu, vô trách nhiệm của Nam Tào Bắc Đẩu đã tước đi mạng sống của người dân vô tội và gây nên bao nhiêu chuyện rắc rối. Sự sửa sai chắp vá của Đế Thích lại là tiền đề bất hạnh cho cuộc đời hồn nọ xác kia không hoàn chỉnh của ông Trương Ba. Mọi sự sửa sai không đúng chỗ đều chứa trong nó nhiều bi kịch hơn là niềm vui. Quyết định vĩnh viễn từ bỏ cuộc sống vay mượn giả tạo của Trương Ba ở phần kết là một sự phản kháng mãnh liệt và đau đớn.
Trích đoạn Hồn Trương Ba da hàng thịt là một phần thuộc Cảnh VII – cũng là cảnh cuối cùng của vở kịch, được đặt tên là Thoát ra nghịch cảnh. Trọng tâm của lớp kịch là cuộc đối thoại giữa Hồn và Xác Trương Ba. Do đó lời thoại ở đây vừa có thể coi là độc thoại vừa có thể coi là đối thoại. Nó là một lời thoại đặc biệt, vừa chứa đựng mâu thuẫn vừa mang tính hành động, thúc đẩy tình huống kịch phát triển đến mức cao nhất. Cuộc đối thoại giữa Hồn và Xác là đỉnh cao tư tưởng triết lý của vở kịch. Cuộc đối thoại đó cùng với thái độ và những lời đối thoại của những người ruột thịt thân yêu nhất đã dẫn đến hành động quyết liệt – kiên quyết chối từ một cuộc sống chắp vá hồn nọ xác kia của Trương Ba. Lưu Quang Vũ đã để cho nhân vật của mình chọn một con đường tưởng như tiêu cực nhưng hết sức cần thiết và đúng đắn: Rời bỏ cõi đời này để được đúng là mình, để giữ trong ký ức những người thân kỷ niệm tốt đẹp về mình. Có nhà nghiên cứu cho rằng “cuộc vật lộn giữa “Hồn Trương Ba” và “Da Hàng thịt” thực chất là cuộc giao tranh giữa hai linh hồn trong một thân xác”.
Tác giả đặt nhan đề như vậy để nói về Trương Ba một tâm hồn thanh cao, hồn hậu nhân từ giản dị,lại phải trú ngụ trong thân xác hàng thịt tầm thường bị chi phối, điều khiển. Trong khi xác hàng thịt thô lỗ, kềnh càng, âm u, đù mù, có sức mạnh. Qua nhan đề, tác giả muốn nói rằng được sống là một điều đáng trân trọng nhưng sự sống của Trương Ba thì đó là một cuộc sống đáng hổ thẹn vì anh ta phải sống nhờ vào thân xác người khác, phải sống chung với sự dung tục, tầm thường, và bị nó sai khiến, đồng hóa. Bài học rút ra: Khi con người phải sống trong sự dung tục và bị lệ thuộc vào nó, thì tất yếu sẽ bị nó chi phối, ngự trị và dần dần tàn phá những gì trong sạch, thanh cao, đáng quý của con người.
Lưu Quang Vũ đã kế thừa tư tưởng của truyện cổ dân gian. Anh cũng nhấn mạnh vai trò quan trọng hơn của linh hồn so với thể xác. Hàng loạt nhân vật phụ được hư cấu đã phát ngôn cho tư tưởng đó của tác giả. Trong khi tất cả những người thân, kể cả người vợ, phủ nhận, xa lánh Trương Ba trong xác anh hàng thịt, thì cô con dâu lại càng thông cảm với ông hơn. Mặc dù cô cũng nhận ra bao nhiêu điều ngang trái xuất hiện nơi con người Trương Ba. Bằng những lời mộc mạc, giản dị, cô đã nói khá đúng, khá cơ bản về linh hồn: “Thày vẫn dạy chúng con: cái bề ngoài có quan trọng gì, chỉ có tấm lòng yêu thương và trí tuệ cao sáng của con người ta là đáng kể”; “Đã gọi là hồn làm sao có hình thù, bởi nó không là vuông hay tròn, mà là vui, buồn, mừng, giận, yêu, ghét…”. Qua hàng loạt lời thoại của các nhân vật, nhà viết kịch đã thể hiện một cái nhìn biện chứng đối với mối quan hệ Hồn - Xác. Người sống mượn hồn hay xác của kẻ khác thì cũng đều bất ổn như nhau, đều không còn là mình nữa. Một linh hồn dù tốt đẹp khi trú ngụ trong thân xác khác cũng sẽ bị biến dạng, bởi nó bị chi phối theo thói quen và bản năng của thân xác đó, hơn nữa nó luôn bị dằn vặt trong mặc cảm giả dối và ích kỉ. Chưa kể còn hàng loạt những hệ lụy, rắc rối khác như đã xảy ra ở các màn kịch trước. Cuộc đấu tranh này cũng cảnh báo khả năng lấn át của thể xác, của những nhu cầu tầm thường đối với khát vọng sống cao đẹp.
Cuộc sống chắp vá hồn nọ xác kia là một bi kịch cho Trương Ba và càng đau đớn hơn nữa khi ông ý thức được rằng sự vay mượn này còn đem lại bao đau khổ cho những người thân của mình. Nó còn đáng sợ hơn cả cái chết. Hồn Trương Ba đã nói với cô con dâu: “Thầy đã làm u khổ. Có lẽ cái ngày u chôn xác thày xuống đất, tưởng thày đã chết hẳn, u cũng không khổ bằng bây giờ”. Có lẽ đây cũng là một nguyên nhân khiến Trương Ba đi đến chấp nhận cái chết, trả lại xác anh hàng thịt. Từ tư tưởng triết lý đúng về quan hệ giữa hồn và xác, Lưu Quang Vũ đã đi đến một quan niệm đẹp về cách sống: sống chân thật đúng là mình, sống vì mọi người, vì hạnh phúc và sự tốt đẹp của con người. Trương Ba chết nhưng ông vẫn sống, sống trong tình cảm, trong “cõi nhớ” của mọi người, sống trong Sự sống, không cần phải mượn đến thân xác của người khác. Đó là suy nghĩ vừa biện chứng vừa lạc quan và cao thượng. Ý tưởng sâu sắc đó, sau này lại được Lưu Quang Vũ thể hiện đậm nét trong vở Người trong cõi nhớ - một vở diễn đạt Huy chương vàng Hội diễn Sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc năm 1985. Kịch bản này có một lối kết cấu khá độc đáo. Các nhân vật xuất hiện đồng thời theo các bình diện không gian khác nhau. Những người đang sống và những người đã chết. Đã chết như chỉ là mất đi cái phần thân xác, những tư tưởng, tinh thần, những khát vọng, ước mơ cao đẹp của họ vẫn sống. Sống trong sự nghiệp, trong nỗi nhớ thường ngày của những người đang sống hôm nay. Qua lời của một nhân vật kịch, Lưu Quang Vũ đã bộc lộ quan niệm của anh về sự sống chết: Con người tồn tại ở ba cõi. Đó là thế giới của những người đang sống và cõi lặng im. Cõi thứ ba: Cõi của những người đang sống trong trí nhớ người khác, những người không bị lãng quên… Và có thể nói quan niệm này đã chi phối hàng loạt các vở kịch khác của anh.
Hồn Trương Ba da hàng thịt là một tác phẩm đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của Lưu Quang Vũ. Năm 1990, tại Liên hoan Sân khấu Quốc tế lần I tổ chức tại Mátxcơva, lần đầu tiên xuất ngoại, vở diễn đã được đánh giá xuất sắc nhất Liên hoan. Năm 1998 vở Hồn Trương Ba da hàng thịt đã đi lưu diễn tại Mỹ trong chương trình giao lưu sân khấu Việt – Mỹ (V.A.T.E.I) được đánh giá là sự kiện văn hoá lớn. Nhà văn Hồ Anh Thái - người được chứng kiến không khí sôi động của đêm diễn trên đất Mỹ sau này đã tái hiện lại qua bài viết Đêm không ngủ ở Seattle (mượn tên một bộ phim nổi tiếng của điện ảnh Mỹ).
Tác giả Phan Ngọc cũng đã có những lời đánh giá cao đối với tác giả vở diễn này: “Theo tôi nghĩ, Lưu Quang Vũ là nhà viết kịch lớn nhất thế kỷ này của Việt Nam, là một nhà văn hóa… Có một Kịch pháp Lưu Quang Vũ mà cả Đông Nam Á có thể tiếp thu: "Vũ là một Prôtê, vị thần trong thần thoại có thể thay hình đổi dạng tuỳ theo sở thích… Không ai bằng Vũ trong biệt tài nêu lên cái muôn đời trong cái bình thường, biến cổ tích, huyền thoại thành chuyện thời sự, dùng cái hư để nói cái thực, dùng cái thô lỗ để khẳng định cái cao quý”.
Bài văn phân tích nhan đề tác phẩm "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" số 4
Lưu Quang Vũ được xem là một hiện tượng đặc biệt của kịch trường những năm tám mươi của thế kỉ XX với nhiều vở kịch đặc sắc như: Hồn Trương Ba, Da hàng thịt,..Một trong những vở kịch in đậm dấu ấn đọc giả nhất là tác phẩm “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”. Nhan đề vở kịch gợi ra nhiều ý nghĩa sâu sắc, gửi đến độc giả nhiều thông điệp ý nghĩa. Hãy cùng phân tích ý nghĩa nhan đề Hồn Trương Ba, da hàng thịt để thấy rõ thông điệp mà tác giả muốn gửi gắm nhé.
Ngay nhan đề tác phẩm Hồn Trương Ba, da hàng thịt, hai hình ảnh “hồn” và “da” gợi cho người đọc nhiều ấn tượng. “Da” là một bộ phận trên cơ thể con người, có ý nghĩa cụ thể. Còn “hồn” trong từ linh hồn, có ý nghĩa trừu tượng. Hồn và thân xác luôn gắn kết với nhau, hồn nào thì thân xác đó.
Tuy nhiên một mâu thuẫn xảy ra trong vở kịch này là hồn một nơi và người một nơi. Chính nghịch lý đó đã tạo nên sự hấp dẫn cho tác phẩm, chính nghịch lý đã nảy sinh nhiều vấn đề, trong đó có nhiều bài học mà Lưu Quang Vũ muốn gửi gắm tới tất cả mọi người. Trong vở kịch, Trương Ba bị bắt chết nhầm.
Và khi đó Trương Ba được lấy lại sự sống tưởng chừng ông sẽ rất hạnh phúc, ai ngờ đây chính là một bi kịch của cuộc đời ông. Thân xác Trương Ba đã không còn nguyên vẹn mà tan vào trong đất. Muốn ông sống lại chỉ còn cách cho hồn ông nhập vào một thân xác khác còn nguyên vẹn.
Đúng lúc cạnh nhà có anh hàng thịt mới mất, Đế Thích đã cho hồn Trương Ba nhập vào xác anh hàng thịt. Từ một ông lão có dáng người thanh mảnh, có cốt cách thanh cao, cao quý phải ở trong thân xác một người vũ phu, tục tĩu, thô lỗ. Chính sự đối nghịch giữa hồn và xác đã đảo lộn cuộc sống của Trương Ba và gia đình.
Nhan đề tác phẩm đã khẳng định ý nghĩa sâu sắc về vấn đề: Không thể sống trong cơ thể, thể xác của người không phải mình. Một tâm hồn cao quý không thể sống với thân xác của một kẻ xấu xa, tục tĩu. Qua đây, tác giả muốn gửi gắm đến mọi người một thông điệp là hãy sống là chính mình.
Đồng thời, tác giả phê phán, vạch trần bộ mặt những kẻ sống giả dối, sống vụ lợi, “khẩu phật tâm xà”, miệng nói toàn lời hay ý đẹp nhưng trong tâm rất hiểm ác. Trong xã hội có rất nhiều con người như vậy, họ lợi dụng lòng tin, sự tin tưởng để lừa gạt người khác, miệng dùng những lời lẽ đẹp nhưng bản chất lại rất xấu xa.
Đồng thời, nhan đề tác phẩm còn nhắc nhở khéo những ai có thói ỉ lại, thích sống nương nhờ vào người khác, vào những thứ của người khác mà mình không có. Một câu nói của Trương Ba làm nhiều người phải suy nghĩ: “Sống nhờ vào đồ đạc, của cải của người khác đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt”. Câu nói của Trương Ba cho thấy ông cảm thấy rất tuyệt vọng, bế tắc khi mình phải sống dựa vào thân xác của một người khác với tính cách hoàn toàn trái ngược mình.
Hơn nữa, nhan đề tác phẩm là lời cảnh tỉnh cho những con người mu muội, chọn sai hướng đi của bản thân, bị những thú vui vô bổ lôi kéo. Những thanh niên bị bạn bè lôi kéo, dụ dỗ vào con đường nghiện ngập. Những cậu học trò ngây thơ, trong sáng lại bị game làm mờ mắt dẫn đến nghiện game rồi đi giết người, ăn trộm, ăn cắp. Tất cả chỉ để thân xác mình được thỏa mãn, rồi một ngày họ nhận ra thì tất cả đã quá muộn, không thể cứu chữa.
Hồn Trương Ba, da hàng thịt là một vở kịch đặc sắc, in đậm trong lòng độc giả mỗi khi xem. qua bài viết Phân tích ý nghĩa nhan đề Hồn Trương Ba, da hàng thịt trên đây thông điệp mà tác giả muốn gửi gắm tới tất cả mọi người chính là: Sống chỉ thật có ý nghĩa khi mình được sống là chính mình, sống có ích cho gia đình và xã hội.
Dù trong bất kì hoàn cảnh nào cũng phải cố gắng làm chủ bản thân để không bị dính vào các thói hư tật xấu. Mỗi cá nhân cố gắng sẽ giúp đất nước phát triển, xã hội phồn vinh, gia đình hạnh phúc.
Bài văn phân tích nhan đề tác phẩm "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" số 1
“Hồn Trương Ba da hàng thịt” là tác phẩm kịch nổi tiếng của Lưu Quang Vũ. Một nhan đề không chỉ tạo sức hấp dẫn khi khơi lên được sự tò mò nơi người đọc mà còn có ý nghĩa khái quát nội dung toàn tác phẩm.
Nhan đề xây dựng trong nghệ thuật tương phản giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt, có ý nghĩa tương phản giữa thể xác bên ngoài và linh hồn bên trong. Chính vì vậy hồn Trương Ba và da hàng thịt chính là những hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc.
Nếu như da hàng thịt là biểu tượng cho vẻ bề ngoài thể xác con người thì hồn Trương Ba là biểu tượng cho tâm hồn, cho thế giới nội tâm sâu kín bên trong. Đó là sự mâu thuẫn giữa hình thức và bản chất trong một con người. Nhưng hồn Trương Ba còn là biểu tượng cho vẻ đẹp trong sáng thanh cao, còn da hàng thịt lại là biểu tượng cho cái xấu xa, cái dung tục tầm thường, cái bản chất thấp kém trong một con người.
Nhan đề hồn Trương Ba da hàng thịt là một hình tượng nghệ thuật phản ánh một hiện thực cuộc sống con người khi bị rơi vào nghịch cảnh, phải sống giả tạo bên ngoài một đằng, bên trong một nẻo, không được sống đích thực là chính mình. Nhan đề còn gửi gắm một ý nghĩa sâu sắc: Đó là sự cảnh tỉnh con người khi không làm chủ được hoàn cảnh, không làm chủ được bản thân để lối sống dung tục tầm thường lấn át lối sống thanh cao trong sáng, để thể xác sai khiến linh hồn, để những ham muốn bản năng thấp kém làm cho nhân cách lệch lạc, nhoà mờ khiến tâm hồn và thể xác không còn là một thể hài hoà thống nhất.
Nhan đề đã thâu tóm cả giá trị phản ánh hiện thực lẫn nội dung nhân đạo của tác phẩm.