"Xa ngắm thác núi Lư" (Vọng Lư sơn bộc bố) của nhà thơ Lý Bạch là một trong số những bài thơ tiêu biểu viết về đề tài thiên nhiên. Bài thơ đã miêu tả một cách sinh động vẻ đẹp nhìn từ xa của thác nước chảy từ đỉnh Hương Lô thuộc dãy núi Lư, qua đó thể hiện tình yêu thiên nhiên đằm thắm và phần nào bộc lộ tính cách mạnh mẽ, hào phóng của tác giả. Mời các bạn đọc tham khảo một số bài văn phân tích tác phẩm đặc sắc này trong bài viết Toplist đã tổng hợp dưới đây.
Bài văn phân tích tác phẩm "Xa ngắm thác núi Lư" của Lí Bạch số 8
Nếu thơ Đỗ Phủ là những bức tranh hiện thực của bao nỗi cơ cực buồn thương thì thơ Lí Bạch là tiếng lòng lãng mạn trữ tình lành mạnh. Chúng ta dễ bắt gập ở thơ ông sự liên tưởng độc đáo, mạnh mẽ của một trí tưởng tượng phong phú, sự rung động sâu xa của một tấm lòng yêu đất nước nồng nàn và tha thiết. “Xa ngắm thác núi Lư” là một minh chứng.
Sau đây là bản dịch của bài thơ ấy:
“Nắng rọi Hương Lô khói tía bay,
Xa trông dòng thác trước sông này.
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước,
Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây”
Đầu đề của nguyên tác là: “Vọng Lư Sơn bộc bố” nghĩa là xa ngắm thác bạc trên Lư Sơn. Lư Sơn là dãy núi ở Giang Tây Trung Quốc có nhiều ngọn chạy dài, nhưng chỉ có một ngọn là có thác đổ: “Nắng rọi Hương Lô khói tía bay,Xa trông dòng thác trước sông này” Hương Lô hay Hương Lư là núi Lư Hương, một ngọn của dãy núi Lư trông giống như chiếc bình hương.
Hai câu đầu của bài thơ là cảnh tổng quát của bức tranh sông núi hùng vĩ. Nhà thơ đứng ngắm thác từ phía xa và ở một vị trí thấp hơn nhiều so với chiều cao của thác. Do đó. trước mắt ông, cảnh dòng thác và núi Lư đâu khác gì một bức tranh sơn thủy treo ở lưng chừng trời. Bức tranh này có nhiều màu sắc và có vẻ đẹp huyền ảo.
Ở độ cao ba nghìn thước, dòng thác đổ xuống như bay, hơi nước bốc lên thành những làn khói. Các làn khói nước này với muôn ngàn thấu kính li ti được ánh nắng mặt trời rọi vào, tạo nên một sắc tía cầu vồng kì ảo, đó là khói tía. Màu vàng của nắng, sắc tía có khói nước gợi lên vẻ đẹp huyền ảo của toàn cảnh. Dáng núi lại gợi hình giống chiếc bình hương.
Bởi vậy, khi nhìn vào, nhà thơ chợt nghĩ đến chiếc bình hương khổng lồ đang tỏa khói nghi ngút giữa trời và nước. Bức tranh kì vĩ của núi sông này như được bàn tay của người thợ vẽ tài hoa là tạo hóa đã pha màu tạo sắc. Giữa nền xanh của núi, hơi nước nắng rọi tỏa bay như khói hương là dòng nước bạc đồ sộ, tuôn dài như một tấm vải trắng. Chữ Hán bộc là thác, bố là tấm vải.
Bộc bố ý nói thác nước tuôn như một tấm vải trắng: “Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước” Lời thơ và nhịp thơ mạnh mẽ làm nổi bật hẳn lên hình ảnh hùng vĩ kì diệu của một dòng thác từ trên cao gần ba ngàn thước “bay thẳng xuống”. Chỉ với ba câu thơ ngắn, ngòi bút tài tình của nhà thơ Lí Bạch, khung cảnh Lư Sơn hiện ra trước mắt ta với đầy đủ màu sắc, hình khối, đường nét... Nhưng dường như ba câu thơ ấy chỉ để chuẩn bị.
Sức mạnh của bài thơ, vẻ đẹp huyền ảo kì vĩ và đồ sộ của dòng thác núi Lư đã được dồn vào câu kết: “Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây”. Câu thơ, trước hết là cảm nghĩ của nhà thơ khi đứng trước cảnh thực. Ông so sánh thác bay thẳng xuống như dải Ngân Hà tuột khỏi mây. Thật là một so sánh sáng tạo bất ngờ đầy thú vị và sảng khoái cho người dọc: “Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên”.
Dải Ngân Hà là nơi tập trung dày đặc muôn vàn vì tinh tú vắt ngang trời. Ánh sáng của dải sao này được so sánh với dòng sông bạc trên trời. Cách so sánh ấy cũng làm tôn thêm vẻ đẹp kì vĩ của dòng thác núi Lư có thực ở trần thế. Thấy dòng thác lấp lánh bạc đổ xuống tưởng như dải Ngân Hà lạc khỏi chín tầng mây ở trời cao, cao lắm, rơi xuống hạ giới.
Đây là hình ảnh đầy tự hào về trí tưởng tượng của nhà thơ trước khung cảnh hùng vĩ và đầy thi vị của thiên nhiên. Bài “Xa ngắm thác núi Lư” của Thi tiên Lí Bạch đã lưu lại cho muôn đời bằng phương tiện văn học cái đẹp hùng vĩ của một dòng thác khổng lồ kì lạ.
Càng đọc thơ ông, ta càng thêm yêu thiên nhiên đất nước và càng khâm phục sự phóng khoáng của một nhà thơ có trí tưởng tượng dồi dào, phong phú, có nghệ thuật sử dụng ngôn từ và tài hoa vào bậc nhất đời Đường.
Bài văn phân tích tác phẩm "Xa ngắm thác núi Lư" của Lí Bạch số 6
Bài thơ có tựa đề Xa ngắm thác núi Lư (Vọng Lư sơn bộc bố) nhưng câu thơ mở đầu lại không hề nói đến ngọn thác ấy, mà miêu tả làn khói tía (tử yên) đang tỏa lên từ ngọn núi Hương Lô. Làn khói tía được “sinh” ra từ sự “giao duyên” giữa mặt trời và ngọn núi: “Nhật chiếu Hương Lô”. Nhờ sự giao duyên ấy mà không gian ở đây bỗng trở nên thi vị và thật hữu tình...
Nhưng cho dù đã đắm mình trong không gian ấy, chúng ta vẫn không quên rằng nhà thơ đang miêu tả ngọn thác núi Lư. Vậy câu mở đầu có phải lạc chủ đề không?
Ai cũng biết thơ Đường, trừ thơ trường thiên, thường có khuôn khổ gò bó, có những quy tắc rất nghiêm ngặt về số câu, số chữ... Bởi thế, để đạt được ý đồ nghệ thuật của mình, nhà thơ luôn phải chọn lựa những chữ rất “đắt” và hàm súc; phải dùng những thủ pháp nghệ thuật như gợi, ước lệ, tượng trưng... Bài thơ của Lí Bạch mà chúng ta đang nói là một bài tứ tuyệt thất ngôn; lại là một bài hay của thơ Đường, thì chắc chắn mỗi câu, mỗi chữ của ông đều có một giá trị nghệ thuật nhất định.
Quả vậy, đọc lại câu thơ ta không chỉ thấy một không gian thi vị, hữu tình mà còn cảm nhận tầm vóc vũ trụ của ngọn Hương Lô kia. Dưới mặt trời đang tỏa nắng là một ngọn núi tựa như một bình hương khổng lồ đang nghi ngút tỏa những làn khói tía vào vũ trụ. Hương Lô là một ngọn núi của dãy Lư Sơn, nơi ngọn thác đang đổ xuống. Vậy thì ở câu thơ này, Lí Bạch không chỉ tả, mà điều cốt yếu là ông muốn gợi mở tầm cao vũ trụ của ngọn thác.
Nếu như câu một là gợi thì câu hai lại tả, nhưng tả thông qua sự cảm nhận mang đậm dấu ấn chủ quan của nhà thơ: Đứng từ xa mà nhìn lại thì ngọn thác như treo (quải) trên dòng sông phía trước. Động từ “quải” (treo) gợi trí tưởng tượng của người đọc về thế dựng đứng của ngọn thác, tô đậm cảm giác về sự hùng vĩ của thiên nhiên nơi đây. Và chính ý đó đã tạo đà cho câu thơ thứ ba: Phi lưu trực há tam thiên xích.
Đến đây bức tranh ngọn thác núi Lư được hiện lên với những đường nét rõ ràng nhất. Những động từ “phi” (bay), “trực” (thẳng) có sức biểu hiện mạnh mẽ, mang lại một ấn tượng mạnh về tốc độ và sức lực của dòng chảy đang đổ xuống từ độ cao ba nghìn thước. Như vậy, sự kì vĩ, tầm vóc vũ trụ của ngọn thác mới chỉ được gợi và gợi tả ở câu một và câu hai, thì đến câu ba nó được thể hiện một cách cụ thể: Chẳng những kì vĩ mà còn mang trong mình nó một sức mạnh vô biên, sức mạnh không gì cản được.
Dường như nét bút tả ngọn thác đã đến đỉnh điểm của nó. Và chính điều ấy khiến người đọc phải sững sờ bởi hình ảnh ngọn thác:
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên.
(Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây)
Dải Ngân Hà - một dải màu sáng nhạt với những vì tinh tú nhấp nháy, vắt ngang bầu trời những đêm mùa hạ, không phải là một dòng sông thực, mà chỉ là một dòng sông trong tưởng tượng. Nói cách khác, dòng Ngân Hà chỉ là một hình ảnh tưởng tượng, có tính trừu tượng. Việc nhà thơ mang một cái trừu tượng để so sánh với cái cụ thể đã làm cho cái cụ thể trừu tượng hơn.
Nhưng nhờ đó mà hình ảnh thơ (ngọn thác) trở nên huyền ảo và mang một nét đẹp diệu kì. Trước vẻ đẹp ấy, người đọc bị chông chênh giữa hai chiều nhận thức: Thực - ảo; tiên giới - trần gian;... Điều đó không có gì lạ, mà nó chỉ khẳng định thêm cái cảm nhận về sự giao duyên, gặp gỡ giữa trời và đất mà chúng ta đã nói đến ở câu một mà thôi.
Thơ với người là một. Nét bút bay bổng, mạnh mẽ của Lí Bạch ở đây cũng chính là tâm hồn của nhà thơ. Một tầm vóc kì vĩ, một sức mạnh hào hùng và vẻ đẹp nên thơ cũng chính là những khao khát, ước vọng mà nhà thơ Lí Bạch vẫn thường vươn tới.
Bài văn phân tích tác phẩm "Xa ngắm thác núi Lư" của Lí Bạch số 5
Lý Bạch nhà thơ kiệt xuất của nền thơ ca Trung Quốc. Thời nhà Đường ông thường được nhắc đến như một vị thánh thơ với tài năng kiệt xuất, ung dung tự tại không màng đến hư danh. Thơ của Lý Bạch được ví như một bức tranh bao gồm cả hình lẫn tình vô cùng khoáng đạt. Bài thơ Xa ngắm thác núi Lư chính là một trong những bức tranh đầy hình ảnh và âm thanh của Lý Bạch:
Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên
Phi lưu trực há tam thiên xích
Nghi thị ngân hà lạc cửu thiên
Ngao du sơn thủy hữu tình chính là cuộc đời của Lý Bạch. Chính vì lẽ đó mà bài thơ Xa ngắm thác núi Lư đã hội tụ đủ mọi yếu tố những cái điển hình, đẹp nhất của thác núi Lư tuyệt mĩ của bút pháp nghệ thuật của nhà thơ. Ngay mở đầu bài thơ chính là hình ảnh thác núi Lư từ xa: Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên.
Dãy núi Lư sơn hùng vĩ, Hương Lô là một ngọn núi thuộc dãy Lư sơn này, từ xa nhìn lại hình ảnh Hương Lô như một chiếc Lư hương vô cùng tuyệt đẹp là nền cho bức tranh thiên nhiên của thác núi Lư. “Nhật chiếu” ánh nắng Mặt Trời chiếu xuống dưới dòng nước đang ào ào đổ xuống tạo nên một hình ảnh vô cùng tuyệt đẹp, sự khúc xạ ánh sáng càng làm cho vẻ đẹp ấy hoàn mĩ hơn
Hình ảnh ngọn núi Hương Lô được Lý Bạch quan sát từ xa mang đến cảm giác thật ảo không rõ ràng nhưng lại tạo hiệu ứng vô cùng xuất sắc khi đã miêu tả hình ảnh thác núi Lư đẹp mờ ảo như chốn thiên cung, và người cảm nhận được nét đẹp đó chỉ có thể là tiên thơ Lý Bạch mà thôi.
Phong cảnh Hương Lô thật đẹp, thật kì diệu nhưng cái sự ảo diệu và thu hút tầm nhìn hơn cả chính là hình ảnh của ngọn thác, điểm nhấn chính của bức tranh thơ:
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên
Phi lưu trực há tam thiên xích
Nghi thị ngân hà lạc cửu thiên
Chính nhan đề bài thơ đã nói lên toàn cảnh của bài thơ. “Xa ngắm thác” chính là việc đứng từ xa quan sát hình ảnh dòng nước từ thác núi Lư chảy xuống, như dải lụa trắng đang trào xuống. “Dao khan bộc bố quải tiền xuyên”, bức tranh tưởng chừng như vô tri vô giác chỉ có hình mà không có ảnh, nhưng chỉ một động từ “quải” thôi cũng đã đủ biến một hiện tượng đang hoạt động trở lên tĩnh lặng hơn, tất cả chỉ muốn khẳng định một điều chính là việc tựa xa ngắm thác nên chỉ có thể cảm nhận được hình ảnh là chính mà thôi.
Dòng thác như dải lụa trắng từ trên trời chảy xuống thật hoành tráng và kỹ vĩ, bức tranh tuyệt đẹp đó tưởng chỉ có vô tri vô giác nhưng đã được thi tiên Lý Bạch miêu tả đầy tiếng động: Phi lưu trực há tam thiên xích. Câu thơ thứ ba, chính là sự chuyển tiếp trạng thái của dòng thác núi Lư khi mà từ hình chuyển sang động.
“Phi lưu” dòng nước đổ xuống ào ào tưởng như bay, thác cao dựng đứng cao tận ba nghìn thước “tam thiên xích” chính vì lẽ đó nước đổ xuống như bay chả có gì ngạc nhiên, cách nói phóng đại này tưởng như không có thực nhưng lại chân thực vô cùng. Bằng con mắt đầy lãng mạn của mình, sự liên tưởng mà chỉ có thi tiên mới có Lý Bạch đã trông thấy.
Nghi thị ngân hà lạc cửu thiên. Câu thơ cuối đã thể hiện được tài năng và phong cách thơ Lý Bạch. Việc tả thác tưởng chừng như đơn giản như bao bài thơ bài văn khác nhưng tả thác của Lý Bạch thì thật lạ, thật tài tình: “cái ảo và cái thực”; “cái hình và cái âm”; bút pháp nghệ thuật lãng mạn như phá cách mọi giới hạn. “Nghi thi”-cứ ngỡ là…đây là sự hoài nghi nhưng vẫn cho là thật.
Sự liên tưởng mà chỉ có Lý Bạch mới có “tưởng như dòng sông tuột khỏi mây” (lạc cửu thiên) mà tuôn xuống. Hình ảnh mây ngang trời lại dòng thác đang đổ xuống, sự trùng hợp hoặc có thể là sự kết hợp của Lý Bạch chính là hình ảnh đẹp nhất bài thơ, ngắm thác chảy mà ngờ mình đang chốn bồng lai tiên cảnh nào đó.
Có lẽ chỉ những người yêu thiên nhiên đến say đắm như Lý Bạch mới có thể cảm nhận và vẽ lên một bức tranh thác nước đẹp đến thế, tuyệt vời đến thế. Mấy người đến thác mà ngắm cảnh mà bắt được cái hay cái đẹp của thác đặc biệt là bắt gặp được đúng cái hình ảnh thi tiên đã thấy? Khoảnh khắc trôi qua tưởng đã mất nhưng chính thi tiên Lý Bạch đã làm cho hình ảnh đó bất biến với thời gian.
Bài thơ là một trong những tuyệt tác thơ của Lý Bạch, đây chính là bức tranh tả thực vô cùng xuất sắc cho thấy được phong cảnh thiên nhiên tráng lệ, hùng vĩ của thác núi Lư. Qua đây ta cũng cảm nhận và thấy được tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu cái đẹp nhà thơ. Những vẻ đẹp đó không những không mất đi còn trường tồn bất biến với thời gian
Bài văn phân tích tác phẩm "Xa ngắm thác núi Lư" của Lí Bạch số 9
Lý Bạch là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất của Trung Quốc. Ông có một gia tài các tác phẩm xuất sắc mang những tầm quan trọng cho nền văn học của đất nước Trung Hoa nói chung và nền thi văn của các dân tộc nói riêng. Lí Bạch là người đi rất nhiều nơi với những nền văn hóa khác nhau. Do đó những tác phẩm của ông luôn có tính triết lý cao với giọng văn nhẹ nhàng nhưng vẫn mang những ý nghĩa sâu sắc.
Ông là một người có những ý tưởng rất lớn, chúng đều được thể hiện qua những tác phẩm của ông. Ông được coi là Thi tiên của Trung Quốc. Thơ của ông mang những ý nghĩa mà cho tới bây giờ vẫn còn được lưu lại. những thể loại mà ông sáng tác cũng rất phong phú: từ những bài thơ về thiên nhiên, về tình yêu, tình bạn và những triết lí sống. Và trong những tác phẩm của ông, chúng ta sẽ không thể quên được tác phẩm “ xa ngắm thác Núi Lư”- một bài thơ tả cảnh nối bật của ông.
Vọng Lư Sơn bộc bố
\Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên
(Xa ngắm thác núi Lư
Mặt trời chiếu núi Hương Lô Sinh làn khói tía)
Vọng Lư sơn bộc bố nếu dịch ra từ chữ Hán thì có nghĩa nhìn từ xa thác nước giống như một dải lụa treo trước mặt. Đây là một hình ảnh ví von cực kì chính xác và đặc biệt. Đúng như hình ảnh của nó, dải lụa dài mềm mại, tạo nên một hình ảnh thật đẹp và nhẹ nhàng.
Vào thời khắc tác giả chứng kiến hình ảnh của con sông, đó là khi mặt trời chiếu rọi vào mặt nước sông và tạo ra những tia sáng phản xạ nhìn giống như con sông sinh ra một làn khói tía. Chỉ một câu thơ mà mang cho người đọc những cảm xúc chân thực và những tưởng tượng của con người về hình ảnh của dòng sông với những làn khói bay lên.
Qua đây chúng ta cũng cảm nhận được phần nào tính cách của tác giả. Ông là một người có một tâm hồn khoáng đạt và rất yêu thiên nhiên, đi cùng với nó là sự lãng mạn bởi chỉ có những người nghệ sĩ, những người có tâm hồn nhạy cảm mới có thể có được những suy nghĩ với cách nhìn đặc biệt như vậy.
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên
Phi lưu trực há tam thiên xích
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên
(xa nhìn dòng thác treo trên dòng sông phía trước
Thác chảy như bay đổ thẳng xuống ba nghìn thước
Ngỡ là sông Ngân rơi tự chín tầng mây)
Hình ảnh của cả thác nước trong những câu thơ này được hiểu bằng hai cách: cách thứ nhất đó là tác giả cho rằng, thác nước được ngắm nhìn từ xa nhìn giống như là dải lụa được treo trên vách núi. Dải lụa dài như vô tận, kéo xuống tới ba nghìn thước. trên đỉnh núi, , những làn khói tím như bay bay thì ở phía bên dưới, dòng nước đổ mạnh như hình ảnh dải lụa đang được treo trên cao. Đó thật là một hình ảnh tráng lệ và hùng vĩ biết nhường nào.
Còn cách hiểu thứ hai, đó là đứng nhìn từ xa dòng thác lại giống như một dòng sông treo ở trước mặt. thế mới thấy Lý Bạch là một nhà thơ có sức tưởng tượng vô cùng phong phú, sáng tạo. Trong câu kết, tác giả sử dụng hàng loạt những từ ngữ thể hiện thái độ của mình như “” nghi”, “ lạc” và hình ảnh của dải Ngân hà như đang bị tuột khỏi mây.
Như chúng ta đã biết, sông Ngân Hà là một dải trắng được tạo bởi rất nhiều những ngôi sao hợp thành, do đó chúng ta thường cảm thấy Ngân hà luôn lấp lánh và kì diệu thì trong mắt của nhà thơ, ông cũng có cảm giác như vậy.
Bài thơ “ Xa ngắm thác núi Lư” là một trong những bài thơ hay nhất về sự miêu tả của tác giả dành cho những hình ảnh đẹp của thiên nhiên. Qua đây, chúng ta càng thêm yêu mến những cảnh vật của cuộc sống và cần phải bảo vệ chúng để những hình ảnh này còn được lưu lại mãi mãi.
Bài văn phân tích tác phẩm "Xa ngắm thác núi Lư" của Lí Bạch số 4
Lí Bạch- người được mệnh danh là "tiên thơ", là nhà thơ mang tâm hồn tự do, hào phóng. Thơ của Lí Bạch phong phú về đề tài, trong đó thiên nhiên là cảm hứng bất tận và thể hiện hết được phong cách của nhà thơ. "Xa ngắm thác núi Lư" là bài thơ khắc họa vẻ đẹp kì vĩ của ngọn núi Hương Lô.
Bài thơ "Xa ngắm thác núi Lư" có tên tiếng Hán là "Vọng Lư sơn bộc bố", bài thơ được viết bằng chữ Hán, theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật . Đây là bài thơ tiêu biểu viết về đề tài thiên nhiên của Lí Bạch. Nhan đề bài thơ gợi ra điểm nhìn của tác giả, nhà thơ đang ở phía xa để ngắm thác núi, từ đó tác giả có cơ hội nhìn toàn cảnh núi Lư hùng vĩ. Mở đầu bài thơ, Lí Bạch đã khắc họa bức tranh dãy Hương Lô:
Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên
( Nắng rọi Hương Lô khói tía bay)
Câu thơ đầu tiên gợi ra không gian và thời gian khi tác giả đưa độc giả dạo chơi ở núi Hương Lô. Đây là một phần của dãy núi Lư. Vẻ đẹp của Hương Lô được tái hiện vào một buổi chiều tà. Lúc xế chiều, ánh nắng chiếu vào dãy núi sinh ra làn khói tía, đó là bức tranh lung linh của tạo hóa, có chút gì đó đan xen giữa thực và ảo. Dưới ánh mặt trời, làn khói tía được sinh ra phải chăng là sự giao hòa của đất trời.
Cách tác giả dùng từ "sinh" thật đặc biệt, phải chăng sự lung linh ấy là sản phẩm giao thoa của vũ trụ. Qua việc miêu tả dãy Hương Lô, tác giả muốn nói đến rộng hơn đó là sự bao trùm của cảnh vật ở dãy núi Lư kì vĩ: huyền ảo, rực rỡ, Hương Lô hiện lên như cái lư bát khổng lồ tỏa khói nghi ngút giữa núi non hùng vĩ.
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên
(Xa trông dòng thác trước sông này)
Ở câu thơ thứ hai, người đọc nhận ra sự xuất hiện của dòng thác. Dòng thác được tác giả sử dụng bằng từ "quải"- đó có nghĩa là treo, dòng thác được treo lơ lửng trước dòng sông như một tấm vải gợi ra cho người đọc thấy được sự mềm mại của thác nước. Từ câu thơ, ta thấy được trí tưởng tượng của tác giả thật phong phú.
Giữa dãy núi Lư kì vĩ, dòng thác của núi Hương Lô treo thẳng đứng gợi ra không gian rộng lớn, bao la của ngọn núi. Câu thơ vừa thể hiện sự mềm mại của dòng thác, vừa thể hiện sự hùng vĩ của thiên nhiên. Ở câu thơ thứ ba, Lí Bạch đã miêu tả dòng thác một cách chi tiết hơn:
Phi lưu trực há tam thiên xích
(Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước)
Bút pháp nghệ thuật ước lệ tượng trưng trong thơ cổ điển được tác giả sử dụng thật linh hoạt trong câu thơ này. Dòng "thác chảy như bay đổ thẳng xuống" thể hiện tốc độ chảy mạnh mẽ của thác nước. Từ nơi ba nghìn thước cao vời vợi, dòng nước tuôn trào từ đỉnh Hương Lô đã khiến người đọc thấy được sự khốc liệt của dòng nước: tốc độ và sức chảy ghê gớm.
Như vậy, không còn là sự mềm mại, huyền ảo từ sự thơ mộng của làn khói tía nữa mà đó còn ẩn chứa sự mạnh mẽ, mãnh liệt không gì cản nổi mà tạo hóa đã tạo nên. Đọc đến đây, cảnh thác núi Lư phần nào đã hiện rõ nét hơn và như để khẳng định khoảnh khắc ấy, tác giả đã thể hiện:
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên
(Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây)
Sông Ngân Hà tuy chỉ là dòng sông trong tâm tưởng của tác giả, dòng sông đó thật đẹp nhưng không có thực. Sông Ngân chỉ là cách mà tác giả đang trừu tượng hóa khiến cho người đọc nhận ra vẻ đẹp huyền ảo, mê hoặc xứng tầm vũ trụ của phong cảnh thác núi Lư.
Thế nhưng, nhờ đó mà chúng ta nhận ra thác nước đó thật đẹp, như kì quan tự nhiên. Câu thơ khiến ta thấy được sự bay bổng trong tâm hồn của nhà thơ Lí Bạch, phong cách thơ lãng mạn, mạnh mẽ và phóng khoáng.
Bài thơ "Xa ngắm thác núi Lư" đã phần nào khắc họa vẻ đẹp thiên nhiên qua đôi mắt của nhà thơ Lí Bạch: đẹp, nên thơ nhưng không kém phần kì vĩ, lớn lao. Qua bài thơ, phần nào ta đã thấy được sự táo bạo, dứt khoát trong cách miêu tả tình yêu với thiên nhiên mà nhà thơ đã xây dựng, nó tương đồng với phong cách thơ mà Lí Bạch xây dựng để thuyết phục độc giả bằng tài năng thi phú của mình.
Bài văn phân tích tác phẩm "Xa ngắm thác núi Lư" của Lí Bạch số 1
Bài thơ có tựa đề Xa ngắm thác núi Lư (Vọng Lư sơn bộc bố) nhưng câu thơ mở đầu lại không hề nói đến ngọn thác ấy, mà miêu tả làn khói tía (tử yên) đang tỏa lên từ ngọn núi Hương Lô. Làn khói tía được “sinh” ra từ sự “giao duyên” giữa mặt trời và ngọn núi: “Nhật chiếu Hương Lô”. Nhờ sự giao duyên ấy mà không gian ở đây bỗng trở nên thi vị và thật hữu tình...
Nhưng cho dù đã đắm mình trong không gian ấy, chúng ta vẫn không quên rằng nhà thơ đang miêu tả ngọn thác núi Lư. Vậy câu mở đầu có phải lạc chủ đề không?
Ai cũng biết thơ Đường, trừ thơ trường thiên, thường có khuôn khổ gò bó, có những quy tắc rất nghiêm ngặt về số câu, số chữ... Bởi thế, để đạt được ý đồ nghệ thuật của mình, nhà thơ luôn phải chọn lựa những chữ rất “đắt” và hàm súc; phải dùng những thủ pháp nghệ thuật như gợi, ước lệ, tượng trưng... Bài thơ của Lí Bạch mà chúng ta đang nói là một bài tứ tuyệt thất ngôn; lại là một bài hay của thơ Đường, thì chắc chắn mỗi câu, mỗi chữ của ông đều có một giá trị nghệ thuật nhất định.
Quả vậy, đọc lại câu thơ ta không chỉ thấy một không gian thi vị, hữu tình mà còn cảm nhận tầm vóc vũ trụ của ngọn Hương Lô kia. Dưới mặt trời đang tỏa nắng là một ngọn núi tựa như một bình hương khổng lồ đang nghi ngút tỏa những làn khói tía vào vũ trụ. Hương Lô là một ngọn núi của dãy Lư Sơn, nơi ngọn thác đang đổ xuống. Vậy thì ở câu thơ này, Lí Bạch không chỉ tả, mà điều cốt yếu là ông muốn gợi mở tầm cao vũ trụ của ngọn thác.
Nếu như câu một là gợi thì câu hai lại tả, nhưng tả thông qua sự cảm nhận mang đậm dấu ấn chủ quan của nhà thơ: Đứng từ xa mà nhìn lại thì ngọn thác như treo (quải) trên dòng sông phía trước. Động từ “quải” (treo) gợi trí tưởng tượng của người đọc về thế dựng đứng của ngọn thác, tô đậm cảm giác về sự hùng vĩ của thiên nhiên nơi đây. Và chính ý đó đã tạo đà cho câu thơ thứ ba: Phi lưu trực há tam thiên xích.
Đến đây bức tranh ngọn thác núi Lư được hiện lên với những đường nét rõ ràng nhất. Những động từ “phi” (bay), “trực” (thẳng) có sức biểu hiện mạnh mẽ, mang lại một ấn tượng mạnh về tốc độ và sức lực của dòng chảy đang đổ xuống từ độ cao ba nghìn thước. Như vậy, sự kì vĩ, tầm vóc vũ trụ của ngọn thác mới chỉ được gợi và gợi tả ở câu một và câu hai, thì đến câu ba nó được thể hiện một cách cụ thể: Chẳng những kì vĩ mà còn mang trong mình nó một sức mạnh vô biên, sức mạnh không gì cản được.
Dường như nét bút tả ngọn thác đã đến đỉnh điểm của nó. Và chính điều ấy khiến người đọc phải sững sờ bởi hình ảnh ngọn thác:
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên.
(Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây)
Dải Ngân Hà - một dải màu sáng nhạt với những vì tinh tú nhấp nháy, vắt ngang bầu trời những đêm mùa hạ, không phải là một dòng sông thực, mà chỉ là một dòng sông trong tưởng tượng. Nói cách khác, dòng Ngân Hà chỉ là một hình ảnh tưởng tượng, có tính trừu tượng. Việc nhà thơ mang một cái trừu tượng để so sánh với cái cụ thể đã làm cho cái cụ thể trừu tượng hơn.
Nhưng nhờ đó mà hình ảnh thơ (ngọn thác) trở nên huyền ảo và mang một nét đẹp diệu kì. Trước vẻ đẹp ấy, người đọc bị chông chênh giữa hai chiều nhận thức: Thực - ảo; tiên giới - trần gian;... Điều đó không có gì lạ, mà nó chỉ khẳng định thêm cái cảm nhận về sự giao duyên, gặp gỡ giữa trời và đất mà chúng ta đã nói đến ở câu một mà thôi.
Thơ với người là một. Nét bút bay bổng, mạnh mẽ của Lí Bạch ở đây cũng chính là tâm hồn của nhà thơ. Một tầm vóc kì vĩ, một sức mạnh hào hùng và vẻ đẹp nên thơ cũng chính là những khao khát, ước vọng mà nhà thơ Lí Bạch vẫn thường vươn tới.
Bài văn phân tích tác phẩm "Xa ngắm thác núi Lư" của Lí Bạch số 2
Lí Bạch là nhà thơ nổi tiếng đời Đường với phong cách thơ phóng khoáng, thể hiện một tâm hồn yêu tự do, yêu thiên nhiên. Những hình ảnh trong thơ ông luôn khiến người đọc cảm nhận được sự trong lành và kì vĩ. Bài thơ “Xa ngắm thác núi Lư” là một bài thơ đẹp như vậy, nói lên tình yêu thiên nhiên của Lí Bạch đồng thời ca ngợi sự kì vĩ của thiên nhiên.
Bài thơ đã thể hiện được sự cảm nhận tinh tế và đầy táo bạo về hình ảnh thác núi Lư.
Về phiên âm:
Nhật chiếu Hương lô sinh tử yên
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên
Phi lưu trục há tam thiên xích
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên
Về phần dịch thơ:
Nắng rọi Hương Lô khói tía bay
Xa trông dòng thác trước sông này
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước
Tưởng dài Ngân hà tuột khỏi mây.
Phần nhan đề của bài thơ đã nói lên không gian, tầm ngắm của tác giả bằng từ “xa” và “ngắm”. Tác giả đứng từ xa và ngắm nhìn vẻ đẹp kì vĩ, lớn lao của dòng thác núi Lư kì vĩ, mênh mông. Chính nhan đề bài thơ đã nói lên sự tinh tế và đầy tài hoa của Lí Bạch.
Đứng ở phía xa không thể nhìn một cách tỉ mỉ từng cảnh, từng vật nhưng lại có cái nhìn bao quát và tổng thể nhất. Ông đã lấy lợi thể có điểm nhìn này để vẽ lên một bức tranh toàn cảnh tuyệt vời nhất.
Nắng rọi Hương Lô khói tía bay. Một câu thơ cất lên đầy chất thơ, đầy chất thi vị, ánh nắng như đan cài, hòa vào dòng thác kì vĩ, lớn lao như vậy. Dưới ngòi bút của Lí Bạch, thiên nhiên hiện lên sống động và thật lớn lao. Ông đã miêu tả vẻ đẹp của dòng thác trước ánh nắng mặt trời, sự phản quang của nắng đã khiến cho dòng nước chuyển thành màu tía lung linh huyền ảo. Đây thực sự là điểm mới trong cách đánh giá thiên nhiên của Lí bạch.
Xa trông dòng thác trước sông này.
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước
Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây
Nhưng hình thơ táo bạo và đầy sức hút, giống như một bức tranh đẹp đứng chênh vênh một một vách núi hiểm trở. Hình ảnh thác nước hiện lên kì vĩ và vô cùng lớn lao.
Ở câu thơ thứ hai, phần dịch thơ đã đánh mất chữ “quải”: So với phần dịch thơ nên sự gợi hình, gợi tượng của câu thơ không còn cuốn hút nữa. Như thế mới có thể thấy được trí tưởng tượng của nhà thơ thật tuyệt vời mà tinh tế. Người đọc có thể hình dung được trong bức tranh này có núi cao hiểm trở, có sườn dốc chênh vênh, và có cảnh thác nước “bay thẳng xuống”.
Một hình ảnh thơ quá đẹp, quá tuyệt vời khi Lí bạch cảm chừng như “nước bay thẳng xuống ba nghìn thước”. Với động từ mạnh “bay thẳng” đã khẳng định được vẻ đẹp kì vĩ, lớn lao, hùng vĩ và có phần hiểm trở của thiên nhiên nơi đây.
Tác giả đã lấy một con số cụ thể để ước lệ tượng trưng cho chiều dài của dòng thác. Con số ấy còn gợi lên một vẻ đẹp kì vĩ, hiểm trở, tạo cảm giác ớn lạnh cho người đọc. Và chính người đọc như cảm nhận được dòng thác như đang đổ xuống ngay trước mặt mình.
Câu thơ cuối có thể nói là câu thơ đầy ấn tượng đối với người đọc. Sự tinh tế và sự liên tưởng độc đáo của nhà thơ đã tạo nên một hình ảnh cực kì “độc” và “lạ”. Không phải nhà thơ nào cũng có vốn từ phong phú như vậy để tạo nên hình ảnh thơ mới mẻ như thế.
Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây. Câu thơ lấp lánh một vẻ đẹp huyền ảo, hư hư thực thực cứ đan cài, quyện chặt lấy nhau tạo nên một bức tranh đậm chất thơ. Tác giả ví thác nước như dải Ngân Hà. Một so dánh kì lạ và đầy mới mẻ. Từ "tuột” được Lí Bạch sử dụng rất đắc điệu và làm tốt vai trò của mình trong việc chuyển thể nội dung của bài thơ.
Câu thơ cuối được coi là điểm nhấn, mà “mắt nhãn” của cả bài thơ vì đã nói lên được cái hồn, cái thần thái của cả bài thơ. Hình ảnh này khiến người đọc thán phục trước tài năng thơ, tài năng ngôn ngữ và tài năng liên tưởng của Lí Bạch.
Bài thơ “Xa ngắm thác núi Lư” thực sự là một bài thơ có hình ảnh đẹp, kì vĩ và lớn lao. Thiên nhiên trong thơ Lí bạch luôn phóng khoáng và kì vĩ như chính con người của ông.
Bài văn phân tích tác phẩm "Xa ngắm thác núi Lư" của Lí Bạch số 10
Đề tài về cảnh sắc thiên nhiên, non sơn gấm vóc luôn là nguồn đề tài muôn thuở, thu hút đông đảo các nhà văn, nhà thơ không chỉ của Việt Nam mà còn cả ở nước ngoài tham gia sáng tác. Bài thơ “Xa ngắm thác núi Lư” của Lí Bạch cũng bắt nguồn từ cảm hứng ấy để viết về ngọn Lư sơn hùng vĩ, tráng lệ nhưng cũng đầy vẻ thị vị, mơ mộng.
Ngay câu thơ mở đầu, Lí Bạch đã gợi ngay ra không gian hùng vĩ và vẻ thơ mộng, kì ảo thu hút người đọc, người nghe bằng những hình ảnh vô cùng sinh động, gợi cảm: “Nhật chiếu Hương lô sinh tử yên”.
“Nhật” ở đây chính là mặt trời; “Hương Lô” là hình ảnh gợi rất nhiều cách hiểu, cách liên tưởng khác nhau cho người đọc: Hương Lô ở đây có thể là tên của một địa danh nằm ở phía Tây Bắc của dãy núi Lư, có mây mù bao phủ. Hương Lô ở đây cũng có thể dùng để gợi ra hình ảnh của một chiếc lò Hương đang tỏa ra những làn khói mờ ảo.
“Tử yên” là khói màu tía. Cả câu thơ này ta có thể hiểu là ánh mặt trời rọi vào Hương Lô làm cho khói tía bay lên. Ở đây, khi mặt trời soi những tia sáng vào ngọn Hương Lô thì càng làm thêm cái kì ảo, thơ mộng của nó trở nên rõ nét, cũng vì quá rõ nét mà Lí Bạch cảm nhận như những làn khói màu tía đang bay lên, ngọn Hương Lô như đang tỏa hương dưới ánh nắng mặt trời.
“Giao khan bộc bố quải tiền xuyên”. “Bộc” là thác nước, nước từ trên cao tuôn xuống, “bố” là tấm vải, dải lụa. “giao khan” là xa ngắm. Cả câu thơ ta có thể hiểu: “Xa trông thác nước như treo ở phía trước của dòng suối”. Nếu câu thơ đầu mở ra cái kì vĩ nhưng đầy thơ mộng của không gian đỉnh Hương lô thì đến câu thơ này, nhà thơ Lí Bạch đã mở ra bức tranh thiên nhiên đầy độc đáo cùng với những liên tưởng kì lạ song cũng rất ấn tượng.
Thác nước trắng phau có nước từ trên tuôn xuống tạo, ra những âm thanh lớn nhưng vì nhà thơ đứng nhìn từ phía xa nên chỉ có thể cảm nhận được cái hài hòa, tĩnh lặng của nó.Sự tĩnh lặng này khiến nhà thơ liên tưởng đến một dải lụa trắng đang treo ngang giữa dòng suối.
Qua hai câu thơ đầu, người đọc vừa cảm nhận được cái tĩnh khi ngọn Lương Lô đang tỏa hương “sinh tử yên”, vừa cảm nhận được cái tĩnh của thác nước, dòng suối mà mỗi khi ta liên tưởng đến thì luôn gắn nó với những vận động. Nhưng Lí Bạch đã cho người đọc một cảm nhận hoàn toàn mới khi nó tĩnh lặng, treo giữa dòng suối như bức tranh thủy mặc.
“Phi lưu trực há tam thiên xích
Thác chảy như bay đổ xuống từ ba ngàn thước. “Trực” mang nghĩa là thẳng, còn “xích” là đơn vị đo lường ngày xưa. Câu thơ đã thành công chuyển từ cái tĩnh sang cái động, gợi cho người đọc liên tưởng đến một thế núi cao, một sườn núi dốc đứng “trực há”.
“Tam thiên xích” tuy là một con số ước lệ song vẫn gợi ra cảm giác chân thực đến lạ kì. Dòng suối chảy mạnh từ trên núi cao xuống tạo cảm giác ngỡ ngàng, mong chờ và cũng vỡ òa trong sự thỏa mãn trước sự kì diệu của tự nhiên. Sau khi chứng kiến cảnh tượng tuyệt mỹ của tự nhiên, Lí Bạch không giấu được sự xúc động của mình, ông thể hiện một sự liên tưởng độc đáo: “Nghi thị ngân hà lạc cửu thiên”.
“Nghi thị” thị là từ chỉ sự ngỡ ngàng, nghi vấn. “Ngân Hà” là vòng ánh sáng màu trắng bạc có thể nhìn thấy vào những đêm quang mây do nhiều sao hợp thành. “ Cửu thiên” gợi ra nơi thăm thẳm cao xa. Có thể dịch nghĩa của câu thơ là: Ngỡ là sông Ngân Hà lạc xuống từ chín tầng mây.
Cảnh tượng tuyệt sắc của thác nước chảy từ trên cao xuống khiến cho Lí bạch ngỡ ngàng như mơ như thực, ông nghi ngờ rằng liệu có phải dòng Ngân Hà chảy xuống từ những tầng mây xa thẳm kia không? Ở đây ta có thể thấy Lí Bạch đã vẽ ra được một bức tranh vô cùng hùng vĩ, gợi cảm, tuyệt sắc, mở ra cho người đọc một cảm giác chân thực, sinh động.
Mặt khác ta cũng thấy được sự chân thực trong cảm xúc của chính nhà thơ. Nhà thơ chỉ vẽ lại khung cảnh thiên nhiên mà mình đã chứng kiến, đã cảm nhận được song người đọc có cảm giác nhà thơ đã đưa mình vào chính nơi diễn ra khung cảnh hùng vĩ, thơ mộng ấy. Đây là tài năng của một thi sĩ tài ba.
Dưới ngòi bút của nhà thơ Lí Bạch, hình ảnh thác núi Lư trở nên kì vĩ, tráng lệ đến lạ kì. Chỉ bằng vài nét phác thảo thôi nhưng nhà thơ cũng đã thành công gợi ra những sự liên tưởng độc đáo về vẻ hùng vĩ, không kém phần thơ mộng nơi đây. Điều đặc biệt hơn nữa là nhà thơ đã kết nối được sợi dây cảm xúc của mình với độc giả, mang đến cho độc giả những cảm xúc chân thực nhất, sinh động nhất.
Bài văn phân tích tác phẩm "Xa ngắm thác núi Lư" của Lí Bạch số 3
Cùng với Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Lí Bạch là một trong ba nhà thơ lớn nhất, vĩ đại nhất đời Đường. Thơ ông đa dạng về đề tài và cách thể hiện nhưng tựu chung đều mang vẻ đẹp lãng mạn, bay bổng, khoáng đạt, luôn hướng về lí tưởng cái đẹp, thiên nhiên, tình yêu cuộc sống. Xa ngắm thác núi Lư là một trong những bài thơ như vậy.
Bài thơ được ông viết vào những năm cuối đời, sau khi người ông phò tá bị giết, ông bị đày rồi được thả, trên đường trở về ông lại được ngao du, thưởng ngoạn thiên nhiên. Tác phẩm viết khi tuổi ông đã cao, hơn nữa lại vừa bị đi đày về nhưng lời thơ vẫn đầy hùng khí đã cho thấy tinh thần hào sảng của ông.
Cả bài thơ cho thấy bức tranh thiên nhiên mang vẻ đẹp kì vĩ, lãng mạn. Với điểm nhìn từ xa, trong câu thơ đầu tác giả đã bao quát được toàn bộ bức tranh thiên nhiên: “Nhật chiếu hương lô sinh tử yên”. Khung cảnh thật lung linh, rực rỡ: ánh nắng chiếu vào làn nước sinh ra làn khói tía, tựa như những đám mây bồng bềnh trôi, khung cảnh trở nên mờ ảo, huyền bí. Cảnh không tĩnh mà động. Trong nguyên tác chữ “sinh” tạo cho người đọc cảm giác ánh mặt trời làm nảy sinh màu sắc, khung cảnh vì thế mà sinh động hơn.
Sau câu thơ miêu tả bao quát, ba câu thơ tiếp theo đi miêu tả chi tiết, cực tả vẻ đẹp hùng vĩ của thác nước. Trong câu thơ thứ hai, thác nước như một tấm thảm khổng lồ. Thác nước là sự kết hợp của cái khổng lồ với cái mềm mại, chữ “quải” – treo khiến thác nước trở nên mượt mà, thác nước vừa thực mà lại vừa ảo.
Thác nước đang động mà chuyển thành tĩnh. Sang câu thơ tiếp theo thác nước từ trạng thái tĩnh của tấm vải chuyển qua trạng thái động: “Phi lưu trực há tam thiên xích”. Sự hùng vĩ của thác nước được thể qua cả từ ngữ và hình ảnh. Chữ “phi” đã diễn tả được tốc độ nhanh, sức chảy mạnh của dòng nước: “thác nước chảy như bay”. Còn chữ “trực” lại cho thấy thế đứng thẳng của thác nước, thật hùng vĩ biết bao.
Hình ảnh “ba nghìn thước” gợi không gian cao vòi vọi. Tất cả ngôn ngữ, hình ảnh đó đã khắc họa thành công sự hùng vĩ của thác núi Lư. Câu thơ cuối tiếp tục gợi nên vẻ đẹp kì vĩ của nó bằng trường liên tưởng độc đáo: “Nghi thị ngân hà lạc cửu thiên”.
Câu thơ thứ ba và thứ tư thừa tiếp ý của nhau, bổ sung cho nhau: phải là từ chín tầng mây chảy xuống thì mới có tốc độ và cường độ nhanh, mạnh như vậy và ngược lại “thác chảy như bay” theo phương thẳng đứng thì phải là sông Ngân Hà từ “cửu thiên” rơi xuống. Bằng lớp ngôn từ cực tả, tâm hồn phóng khoáng, trí tưởng tượng phong phú, Lí Bạch đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên, thác nước núi Lư vô cùng đẹp đẽ, kì vĩ.
Bức tranh thiên nhiên kì vĩ, tráng lệ còn cho ta thấy một tâm hồn yêu thiên nhiên tha thiết, say đắm trước vẻ đẹp của thác nước núi Lư. Chữ “vọng” trong nhan đề bài thơ không chỉ là nhìn từ xa mà còn là sự chiêm ngưỡng, ngắm nhìn, bị hút hồn trước vẻ đẹp của thác nước. Qua bức tranh này ta còn thấy được tâm hồn rộng lớn, khoáng đạt mà cũng đầy mơ mộng của nhà thơ.
Bài thơ sử dụng hình ảnh thơ tráng lệ, hùng vĩ. Sự kết hợp giữa hiện thực và lãng mạn làm hình ảnh thác núi Lư hiện lên chân thực mà lung linh, huyền ảo, vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng. Nghệ thuật lấy động tả tĩnh làm cho bức tranh thiên nhiên thêm phần sinh động, hấp dẫn.
Bằng lớp ngôn ngữ trau chuốt, giàu sức biểu cảm bài thơ đã khắc họa vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên. Đồng thời bộc lộ vẻ đẹp tâm hồn: yêu thiên nhiên, phóng khoáng, lãng mạn của nhà thơ Lí Bạch. Qua đó còn kín đáo bộc lòng yêu quê hương đất nước của tác giả.
Bài văn phân tích tác phẩm "Xa ngắm thác núi Lư" của Lí Bạch số 7
Bài thơ được sáng tác lúc cuối đời khi ông thất chí, trở lại với cuộc sống ngao du sơn thủy. Lư Sơn là một thắng cảnh phía Nam thành phố Cửu Giang, tỉnh Giang Tây. Bài thơ này ngợi ca cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ. Thời điểm sáng tác là lúc những ảo tưởng chính trị của tác giả đã tan vỡ, nhà thơ lui về với thiên nhiên với đạo để mong tự giải thoát mình khỏi những điều tầm thường trong cuộc sống. Nhưng ở đây, ta cũng thấy được trái tim thi hào ngân vang một cung đàn huyền diệu, biểu lộ tình yêu với thiên nhiên đất nước.
Xa ngắm thác núi Lư là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất về đề tài thiên nhiên của Lí Bạch. Với bút pháp miêu tả vừa phóng khoáng, vừa giàu sức tưởng tượng, sự liên tưởng vừa độc đáo, vừa chính xác, bài thơ đã tái hiện khung cảnh thác nước núi Lư được nhìn từ xa thật kì vĩ, tráng lệ và huyền ảo.
Đồng thời, bài thơ còn thể hiện tình yêu sâu sắc và sự cảm nhận tinh tế của tác giả đối với thiên nhiên, bộc lộ sự yêu mến, trân trọng, tự hào của Lí Bạch đối với thiên nhiên và tình yêu đất nước. Qua bài thơ, chúng ta cũng thấy được tài thơ điêu luyện và tính cách mạnh mẽ, phóng khoáng của thi tiên.
Ngay ở nhan đề bài thơ, ta đã thấy được điểm nhìn để quan sát và miêu tả cảnh của nhà thơ. Nhà thơ nhìn ngắm cảnh vật từ xa (vọng: nhìn, ngắm từ xa). Điểm nhìn này tuy không khắc họa được cảnh vật chi tiết, tỉ mỉ nhưng lại có ưu thế là giúp nhà thơ ngắm nhìn được bao quát toàn bộ cảnh vật. Đây là điểm nhìn rất có hiệu quả trong việc khắc họa sự hùng vĩ của thác nước. Câu thơ thứ nhất đã vẽ nên cái phông nền cho toàn cảnh bức tranh thác nước:
“Nhật chiếu hương Lô sinh tử yên”
(Mặt trời chiếu xuống núi Hương Lô sinh ra màu khói tía)
Qua nét bút của nhà thơ, ngọn núi Hương Lô đã hiện lên thật sống động với đặc trưng nổi bật mà người đời đã đặt tên cho nó theo những đặc điểm ấy. Đỉnh núi vừa cao, vừa tròn, mây trắng bay lơ lửng, trông xa như một lò hương đang tỏa khói nên có tên gọi là Hương Lô (lò hương). Tuy nhiên, sự miêu tả độc đáo của Lí Bạch đã đem đến cho ngọn núi Hương Lô một vẻ đẹp mới.
Ông đã miêu tả nó dưới ánh mặt trời khiến làm hơi nước phản quang chuyển thành một màu tím vừa rực rỡ, vừa kì ảo. Bằng cách sử dụng động từ “sinh”, Lí Bạch đã khắc họa được vẻ đẹp sống động của cảnh vật núi Lư dưới ánh mặt trời. Dường như, khi xuất hiện ánh sáng mặt trời thì mọi vật mới sinh sôi, nảy nở, mới trở nên sống động, đẹp đẽ hơn. Câu thơ thứ hai đã vẽ lên vẻ đẹp mềm mại của thác nước:
“Dao khan bộc bố quải tiền xuyên”
(Từ xa nhìn thác nước treo như con sông trước mặt)
Đứng xa ngắm dòng nước chảy từ trên cao xuống, nhà thơ liên tưởng dòng thác như một dải lụa trắng treo trước dòng sông. Vì ở xa ngắm nên dưới mắt nhà thơ, thác nước vốn tuôn trào đổ ầm ầm xuống núi đã biến thành một dải lụa mềm mại được treo lên giữa vách núi và dòng sông.
Chữ “quải” (treo) đã biến cái “động” thành cái “tĩnh”, thể hiện sự quan sát và cảm nhận vừa rất tinh tế, vừa rất chính xác. Ở bản dịch thơ, vì lược bớt từ “treo” nên chưa diễn tả được điều này. Nét vẽ của tác giả ở đây thật điêu luyện và độc đáo. Ở câu thơ thứ ba, cảnh vật lại được nhìn ờ trạng thái động:
“Phi lưu trực há tam thiên xích”
(Bay chảy thẳng xuống từ ba nghìn thước)
Tác giả trực tiếp tả dòng thác nhưng đồng thời đã gợi tả được thế núi cao và sườn núi dốc đứng. Lí Bạch đã cực tả hình ảnh thác nước chảy vừa nhanh vừa mạnh, vừa cao, vừa dốc đứng qua các từ ngữ “phi lưu” (chảy như bay), “trực há” (thẳng xuống). Độ dài của dòng thác cũng được tác giả chú ý miêu tả qua cụm từ “tam thiên xích” (ba nghìn thước).
Bằng việc sử dụng những từ ngữ, hình ảnh đặc sắc, tác giả đã khắc họa được vẻ đẹp và khí thế hùng mạnh của thác nước. Thác nước không những chảy nhanh, chảy mạnh và dốc thẳng đứng mà còn rất dài, rất cao. Nhà thơ đã miêu tả hình ảnh thác nước bằng những nét vẽ thật táo bạo, mạnh mẽ. Hình ảnh thơ ở đây cũng rất hùng vĩ và khoáng đạt. Nhà thơ không dùng động từ “chảy” hay “đổ” để miêu tả thác nước mà khắc họa bằng “phi lưu” (chảy như bay).
Thủ pháp phóng đại đã làm hình ảnh thác nước mang sức mạnh phi phàm. Đây là một trong những nét đặc trưng của phong cách Lí Bạch. Ông thường lấy cái hùng để vận tứ, vươn tới miêu tả những hình ảnh thiên nhiên hào phóng, phi thường, mang chiều kích của vũ trụ với trí tưởng tượng bay bổng, đầy lãng mạn. Câu thơ cuối cùng tiếp tục khắc họa rõ nét và sâu sắc hơn vẻ đẹp của thác nước núi Lư:
“Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên”
(Ngỡ là Ngân Hà rơi khỏi chín tầng mây)
Vẻ đẹp kỳ diệu của thác nước núi Lư đã khiến cho tác giả ngỡ ngàng, thán phục. Tác giả đã có sự liên tường hết sức độc đáo: Liên tường dòng thác như là dải Ngân Hà – dòng sông quen thuộc trong các truyền thuyết Trung Hoa – rơi xuống từ chín tầng mây. Bằng các từ nghi (ngỡ), lạc (rơi xuống) và hình ảnh Ngân Hà, Lí Bạch dã diễn tả được vẻ dẹp huyền ảo của thác nước.
Dường như thác nước không phải là cảnh vật của trần thế mà là tạo vật của chốn thần tiên. Nó có vẻ đẹp lấp lánh kì ảo của thần thoại, của huyền sử. Nó không phải là cảnh thiên nhiên đơn thuần mà là cảnh mang tính chất huyền thoại.
Bài thơ đã thể hiện tình yêu sâu sắc và sự cảm nhận tinh tế của tác giả đối với cảnh thiên nhiên đồng thời cũng bộc lộ sự yêu mến, trân trọng, tự hào của Lí Bạch đối với vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước Trung Hoa. Qua bài thơ, người đọc cũng thấy được tài thơ điêu luyện, tâm hồn và tính cách hào phóng, mạnh mẽ của nhà thơ.
Bài thơ sử dụng lối nói phóng đại để miêu tả cảnh thiên nhiên nhưng không vì thế mà cảnh bớt đi phần chân thực, tự nhiên. Mặc dù sử dụng những hình ảnh kì vĩ, mang tính chất phóng đại tưởng như vô lí nhưng vẻ đẹp cùa thác nước núi Lư vẫn hiện lên rất sống động, chân thực qua ngòi bút của tác giả. Đó là nhờ tác giả đã kết hợp được một cách tài tình giữa cái “thực” và cái “hư”, cái “chân” và cái “ảo”.
Cảnh thiên nhiên trong bài thơ không đơn thuần là một cảnh đẹp tự nhiên như vốn có của tạo hoá mà còn là một cảnh đẹp dưới con mắt nhìn tưởng tượng và liên tưởng đầy sáng tạo độc đáo, biến ảo của tác giả. Mỗi câu thơ đều thể hiện một cách nhìn mới mẻ, là một sự liên tưởng thú vị.
Cả bài thơ là toàn bộ bức tranh thác nước núi Lư được nhìn từ nhiều góc độ, được vẽ nên bằng trí tưởng tượng phong phú và sự quan sát, cảm nhận tinh tế, đặc sắc của tác giả. Từ ngữ dùng trong bài thơ cũng rất độc đáo: “sinh” (sinh ra), “quải” (treo), “phi lưu” (chảy như bay), “trực há” (thẳng xuống), “lạc” (rơi) đã lột tả được thần thái của cảnh vật một cách vừa sinh động vừa chân thực.
Tác giả đã lựa chọn điểm nhìn từ xa (vọng) rất phù hợp cho việc quan sát và miêu tả cảnh vật. Đây là điểm nhìn cho phép bao quát toàn bộ cảnh thác nước, làm nổi bật được sự hùng vĩ, tráng lộ của cảnh vật.
Bố cục bài thơ 1 – 3 tạo được trình tự miêu tả hợp lý: Câu thơ đầu tiên làm phông nền cho toàn cảnh bức tranh thác nước. Các câu thơ sau khắc họa cụ thể chi tiết hơn những vẻ đẹp của thác nước. Cách dùng từ ngữ đặc sắc, độc đáo; sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú, tinh tế. Sử dụng lối miêu tả phóng đại, hình ảnh thơ mang tính chất kì vĩ, tráng lệ đã khắc họa được cảnh vật thiên nhiên vừa chân thực, sinh động, vừa huyền ảo.
Bài thơ có cấu tứ chặt chẽ, giàu hình ảnh. “Sự hun đúc của thiên nhiên cộng với tinh thần lãng mạn khiến ông có một tâm hồn hào phóng, một tấm lòng rộng mở và ảnh hưởng to lớn đến sự hình thành phong cách thơ ca của ông. Đối với thiên nhiên, ông quan sát trong thời gian dài, lại có tình yêu say đắm, nồng nàn nên có thể tìm được những vè đẹp sâu xa thầm kín của thiên nhiên.
Trong thơ ca của ông, không những thể hiện được vẻ đẹp tuyệt vời của thiên nhiên bằng một phong cách trong sáng, siêu phàm, mà còn thể hiện cảnh tượng hùng vĩ của thiên nhiên bằng một phong cách hào phóng, mạnh mẽ.”
Tưởng như bài thơ chỉ đơn thuần tả cảnh vật thiên nhiên nhung ẩn sau bài thơ là “cái tình” sâu sắc và đẹp đẽ của nhà thơ. Bài thơ đã thể hiện sự yêu mến, trân trọng và tự hào của nhà thơ Lí Bạch đối với thác nước núi Lư – một danh thắng nổi tiếng của quê hương, đất nước tác giả. Đồng thời thể hiện được tình yêu thiên nhiên, quê hương, đất nước sâu sắc và đằm thắm của tác giả.