Trong thế giới thực vật có biết bao nhiêu loài cây, mỗi loài cây lại mang những đặc trưng và lợi ích riêng của nó. Bản thân mỗi chúng ta ai ai cũng có loài cây yêu thích cho riêng mình. Có thể loài cây đó đã gắn bó với bạn, có những kỉ niệm khó quên với bạn, cũng có thể đơn giản vì loài cây đó mang lại giá trị kinh tế cho gia đình bạn. Dù có vì sao đi chăng nữa thì việc yêu quý một vài loài cây là một điều đáng quý. Sau đây Toplist xin gửi tới các bạn những bài văn thuyết minh về loại cây ăn quả mà em biết hay nhất.
Thuyết minh về loại cây ăn quả - Cây Nhãn Lồng
Hạ vừa là mùa của nắng của gió lại vừa là mùa nở rộ của biết bao nhiêu loại trái cây thơm ngon. Là xoài vàng ươm chín ngọt, là sấu xanh chua chua, là mít thơm lừng ngọt sắc, và còn là nhãn dịu nhẹ mà thơm giòn. Nhãn là loài cây, là thức trái quen thuộc và gắn liền với tuổi thơ của nhiều thế hệ.
Ở nước ta nổi tiếng nhất là nhãn lồng Hưng Yên, mùa vụ của loại nhãn này thường từ cuối tháng tám đến cuối tháng chín. Còn với nhãn nói chung thì mùa vụ là khoảng tháng bảy, đến tháng tám là thời điểm nhãn chín rộ. Nhãn là cây thân gỗ, cao từ năm đến mười mét, vững chắc. Từ thân, cây mọc ra nhiều cành cây như những cánh tay với những tầng lá rậm rạp.Cũng giống như phượng, lá nhãn là loại kép hình lông chim, các lá mọc so le hai bên gân chính, mỗi lá kép thường có năm đến chín lá đơn. Trên nền xanh của lá còn điểm xuyết sắc vàng nhàn nhạt của hoa nhãn. Hoa nhãn nhỏ xíu như sao nhưng vẫn dễ dàng được nhìn thấy cũng như ngôi sao luôn tỏa sáng trên bầu trời xanh mát, thường mọc thành chùm ở đầu cành hoặc xen vào các kẽ lá. Có hoa thì sẽ có quả, khi hoa nhãn già rồi rụng xuống thì quả nhãn bắt đầu đâm trổ thành những quả bé xíu như chỉ có vỏ với hạt. Vỏ nhãn màu nâu nhạt hoặc vàng xám, nhẵn. Hạt nhãn đen nhánh. Trong phiên âm từ tiếng Trung ra tiếng Hán Việt, nhãn được gọi là “long nhãn”, nghĩa là “mắt rồng” cũng chính bởi màu đen của hạt trồng và hình dáng tròn trông như mắt rồng. Nằm giữa lớp vỏ mỏng bao bên ngoài và hạt là lớp cùi nhãn có màu trắng ngà, hơi trong.
Nhãn cũng có nhiều loại, các loại nhãn thường có sự khác biệt ở quả, đặc biệt là phần cùi nhãn. Nhãn xuồng cơm vàng là giống nhãn có gốc ở Vũng Tàu nước ta, cùi dày và có màu vàng trong, ít nước, vị ngọt và giòn sần sật. Nhãn tiêu da bò thì có nguồn gốc ở Huế, quả nhỏ. Nhãn lồng Hưng Yên thì quả to, vỏ không nhẵn mà hơi gai, dày và màu vàng sậm đặc trưng. Cùi nhãn dày, khô, mọng nước và hạt nhãn nhỏ. Loại nhãn này có vị ngọt của đường phèn. Đây là loại nhãn có giá thành khá đắt nhưng bởi những lợi thế về quả và hương vị thơm ngọt nên rất được ưa chuộng. Tuy nhiên, đây cũng là loại nhãn bị “làm giả” nhiều nhất khi có nhiều thương lái dùng loại nhãn Trung Quốc hay nhãn Thái Lan và lừa gạt người mua hàng rằng đó là nhãn lông Hưng Yên, gây nhiều thiệt hại về tiền bạc và lòng tin của người mua.
Là cây cho quả nên quả nhãn là loại thực phẩm, được ăn trực tiếp mà không phải qua chế biến. Bên cạnh đó thì nhãn cũng được nấu thành chè, làm nhãn sấy khô để sử dụng quanh năm do nhãn chỉ có một mùa vụ trong một năm, là nguyên liệu làm bánh nhãn, … Nhãn cũng là một loại thuốc đông y hỗ trợ trong việc điều trị các bệnh như bệnh hay quên, thần kinh kém, suy nhược, khó ngủ,…Nhãn là loại quả chứa nhiều vitamin C giúp chống các bệnh cao huyết áp, bệnh tim hoặc các bệnh về xương khớp. Vì tác dụng và chất dinh dưỡng nó bao chứa nên nhãn được nhiều người yêu thích.
“Đêm. Hương nhãn đặc lại
Thơm ngoài sân trong nhà
Mẹ em nằm thao thức
Nhớ anh đang đi xa...”
(“Hương nhãn” Trần Đăng Khoa)
Cây nhãn là một hình ảnh quen thuộc của làng quê với những vườn nhãn xanh mướt quanh năm, với những chùm quả lúc lắc trên cành vào mùa nhãn chín. Mùa hè nóng nực mà được thưởng thức những trái nhãn ngọt sắc lịm với hương thơm dễ chịu, cảm nhận những cùi nhãn dày mọng nước thì còn gì bằng.
Thuyết minh về loại cây ăn quả - Cây Dừa
"Cây dừa xanh tỏa nhiều tàu
Dang tay đón gió gật đầu gọi trăng"
Có lẽ hình ảnh cây dừa đã trở thành một hình ảnh quen thuộc đối với tất cả mọi người. Ai mà chẳng có lần được thưởng thức vị nước dừa thơm ngon cơ chứ. Ở Việt Nam, dừa thường có nhiều ở những vùng ven biển và đặc biệt là dừa thường tập trung từ Quãng Ngãi đến Cà Mau nhưng nhiều nhất là ở Bình Định và Bến Tre.
Có rất nhiều ý kiến tranh cãi về việc cây dừa xuất hiện lần đầu ở đâu trong đó một số học giả cho rằng nó có nguồn gốc ở khu vực đông nam châu Á trong khi những người khác cho rằng nó có nguồn gốc ở miền tây bắc Nam Mỹ. Dù có ở đâu thì đây cũng là loại quả vô cùng được ưa chuộng đối với mọi người. Dừa thường sống ở nơi có khí hậu nhiệt đới, phát triển trên đất pha cát và có khả năng chống chịu tốt. Đặc biệt những quả dừa sẽ có thể phát triển một cách tối ưu nếu nơi đó có độ ẩm cao( khoảng 70-80%). Có lẽ vì vậy mà người ta thường trồng nhiều dừa ở ven biển để nó có thể phát triển một cách tốt nhất. Dừa được chia làm nhiều loại nào dừa xiêm( loại dừa này nhỏ hơn so với trái dừa bình thường nhưng nước lại rất ngọt), dừa nếp (trái vàng xanh mơn mởn), dừa lửa( lá đỏ quả vàng hơi hồng)… dù là loại dừa nào thì cũng đều có vẻ đẹp riêng.
Cây dừa cao lắm, có thể cao bằng cả một tòa nhà cao tầng ở nơi đây vươn ra đón nắng đón gió. Rễ cây dừa không to mà tỏa ra thàng nhiều sợi rễ nhỏ, cắm sâu vào lòng đất cần cù lấy chất dinh dưỡng nuôi cây. Thân dừa không to, vừa đủ bằng một vòng tay của em nhưng cao lắm. Thân cây sần sùi màu nâu và ở trên thân thường có những vòng tròn nhỏ đều tăm tắp và cách đều từ gốc lên tới ngọn cây. Từ thân cây sẽ tỏa ra những tàu lá to và dài. Từ bên dưới nhìn lên, những tàu lá xanh như vươn dài ra tận trời xanh như những cánh tay bảo vệ cây khỏi gió bão nơi biển cả. Ở mỗi tàu lá đều có những chiếc lá nhỏ và dài xếp thẳng tắp dọc theo tàu lá và nhỏ dần về phía ngọn. Đặc biệt ẩn bên dưới những tàu lá ấy là từng chùm quả dừa màu xanh to và tròn trông rất thích mắt. Qủa dừa to và nặng lắm nhìn từ xa trông như một quả bóng. Quả có vỏ cứng và dày màu xanh nhạt và ẩn bên trong lớp vỏ ấy là một lớp cùi trắng trông rất hấp dẫn bao bọc xung quang như bảo vệ phần nước dừa bên trong. Nước dừa không ngọt quá như những loại cây ăn quả khác mà nó chỉ ngọt thanh thanh, khi uống đem lại cảm giác rất sảng khoái và dễ chịu.
Cây dừa đem lại rất nhiều công dụng cho mọi người. Như đã nói ở trên, nước dừa được coi là một loại nước giải khát vô cùng được ưa thích trong những ngày hè nóng nực. Ngoài ra nước dừa còn được dùng để làm nước chấm, kho cá kho thịt… Cùi dừa có thể được dùng để làm mứt, làm nước cốt dừa hay dầu dừa rất tốt và giàu chất dinh dưỡng. Bên cạnh đó phần vỏ cứng của vỏ dừa còn có thể được sử dụng để làm than hoạt tính hay chất đốt. Không chỉ mỗi trái dừa có giá trị mà những bộ phận khác của cây cũng được dùng trong rất nhiều việc hữu ích như thân dừa chắc nên có thể làm cột, làm cầu; lá dừa to có thể dùng để lợp mái nhà….
Như vậy có thể thấy cây dừa không chỉ góp phần làm cho cảnh quan đất nước thêm tươi đẹp mà còn được dùng để sử dụng trong rất nhiều việc. Cây dừa hữu ích như vậy nên mỗi người chúng ta cũng cần phải chăm sóc, bảo vệ nó cẩn thận để cây có thể phát triển một cách tốt nhất.
Thuyết minh về loại cây ăn quả - Cây Vải
Mùa hè là thiên đường của các loại hoa quả. Quả nào cũng thơm ngon và có hương vị riêng. Trong đó, quả vải là một trong những loại quả ngon hấp dẫn nhất của mùa hè. Để có được những quả vải ngọt thơm là nhờ có công vun trồng và chăm sóc cây vải của những người nông dân. Đối với nhiều người dân Việt Nam, cây vải cũng không còn quá xa lạ nữa.
Tại vùng Đông Nam Á cây vải được trồng ở hầu khắp mọi nơi. Ngoài ra, cây vải còn được trồng ở nhiều quốc gia khác như miền Nam Trung Quốc, miền Nam Nhật Bản, Ấn Độ, Florida và Hawai (Mỹ). Ở Việt Nam, cây vải là loại cây ăn quả được nhiều người yêu thích vì hương vị quả vải dễ ăn, phù hợp với khẩu vị của người Việt. Mỗi cây vải thường có chiều cao từ 5 – 10m. Có những giống vải cây có thể cao hơn. Có những giống vải chỉ cần đứng dưới gốc là có thể dễ dàng hái được những chùm vải chín mọng. Ngoài ra, tùy thuộc vào cách chăm sóc mà những cây vải ở các vùng khác nhau có chiều cao khác nhau. Chất lượng của chúng vì vậy mà cũng có sự khác nhau. Cây vải có thân màu nâu, thô ráp, xù xì. Lá của chúng giống như những cái lông chim mọc so le với nhau. Trước khi ra quả, cây vải ra hoa với những bông hoa trắng nhỏ li ti. Hương thơm của hoa vải có mùi nồng gần giống với hoa nhãn. Khi hoa rụng là lúc những quả vải bắt đầu sinh sôi. Chúng mọc thành từng chùm với kích thước mỗi quả khá đồng đều. Vỏ quả vải khi chín có màu đỏ sẫm, hơi sần sùi nhưng bên trong có lớp cùi trắng mọng nước và rất ngọt.
Để cây vải phát triển thì điều kiện khí hậu là vô cùng quan trọng. Vải thích hợp với khí hậu nhiệt đới, nóng và độ ẩm cao. Nếu thời tiết lạnh thì cũng không được dưới -4 độ C. Đất trồng cây vải cũng nên là loại đất thoát nước tốt, hơi chua và giàu mùn. Tùy vào từng giống vải mà thời gian thu hoạch khác nhau. Vải thường chín rộ vào mùa hè nhưng cũng có giống chín muộn hơn do thích hợp với khí hậu mát. Một số nơi người ta trồng vải để làm cây cảnh. Ở Việt Nam vải được trồng nhiều nhất và cũng nổi tiếng là thơm ngon nhất đó là ở Thanh Hà, Hải Dương và Lục Ngạn, Bắc Giang. Bên cạnh vải thiều ngọt lịm, hạt nhỏ cũng có những loại vải hạt to và có vị chua hơn. Dân gian gọi loại vải này là vải tu hú. Từ khi vải chín rộ tới lúc kết thúc thu hoạch chỉ kéo dài khoảng 2 tuần.
Quả vải thường được mọi người ăn trực tiếp như một thứ quả tráng miệng. Ngoài ra, từ quả vải người ta cũng chế biến tạo hương vị cho các loại bánh, kẹo, làm vải khô hay làm trà vải uống giải khát ngày hè. Tuy nhiên, cách thưởng thức mà nhiều người yêu thích nhất có lẽ vẫn là ăn trực tiếp.
Muốn cây vải phát triển bình thường thì người nông dân cũng phải tuân thủ quy trình chăm sóc. Các loại đất phù hợp với loại cây này là đất thịt, đất phù sa, đất cát pha, đất vàng, đất đỏ,… nhưng yêu cầu chung là tầng đất dày và phải thoát nước. Bao giờ cũng vậy trước khi trồng vải người nông dân phải bón lót với phân chuồng hoại mục, vôi rồi phơi ải khoảng 15 – 20 ngày. Làm như vậy là để loại trừ các mầm bệnh cho cây. Vào mùa khô, cây vải cần được tưới đủ nước và duy trì nước khi cây ra quả. Xung quanh gốc cây cần phủ cỏ, rác, phân,… để tránh cỏ dại. Mỗi năm người dân trồng vải làm cỏ khoảng 2 lần vào vụ Xuân và vụ Thu. Việc bón phân sẽ chia làm 4 đợt trong năm.
Có những năm cây vải được mùa, giá vải xuống thấp khiến đời sống của người dân trồng vải gặp nhiều bấp bênh. Chúng ta hãy cùng nhau hi vọng rằng năm nào vải cũng được mùa, người dân bán được với giá tốt để họ yên tâm trồng vải, đem đến cho đời một loại quả ngon.
Thuyết minh về loại cây ăn quả - Cây Xoài
Việt Nam muôn nghìn cây trái khác nhau, loài cây nào cũng mang đến những lợi ích riêng đối với đời sống con người. Có những loại cây trồng đem lại nguồn gỗ quý cũng có những loại cây đen lại giá trị kinh tế cao, nhiều loại cây khác thì được dùng làm thuốc. Trong số đó, có thể kể đến một loài cây thu trái có giá trị xuất khẩu- cây xoài.
Xoài là một loại cây có vị ngọt thuộc chi xoài. Cây được biết đến có nguồn gốc từ Nam Á và Đông Nam Á. Vì đây là một loại cây tương đối được ưa chuộng, nên cây được trồng trên toàn thế giới hiện nay. Xoài là giống cây quen thuộc của làng quê, sinh trưởng và phát triển tốt ở những nơi có khí hậu nhiệt đới ẩm, nhiệt độ sinh trưởng tốt nhất của xoài là từ 24 cho tới 27 độ. Cây không kén đất nên thích hợp trồng ở nhiều loại đất khác nhau.
Xoài là một loại cây thân gỗ, rễ thuộc loại rễ cọc, có thể ăn sâu xuống dưới đất 2m. Tùy từng loại khác nhau mà cây có độ cao khác nhau, độ cao trung bình của cây là từ 1,5 cho tới 2,5 m. Chiều cao của cây sẽ tỉ lệ thuận với độ dinh dưỡng của đất. Nếu như cây được trồng ở những vùng khí hậu thuận lợi, trong một khoảng đất thích hợp, cây phát triển càng cao. Tán cây rộng, hình vòm. Tùy theo từng giống xoài khác nhau mà tán cây có thể có độ rộng khác nhau. Lá xoài có màu xanh, mọc so le với nhau trên cành và thuôn dài. Mặt dưới của lá do không tiếp xúc với ánh nắng mặt trời ít nên có màu xanh nhạt hơn. Lá có gân giữa và các nhánh gân nhỏ nhỏ mọc ra hai bên như hình xương cá. Hoa xoài không nở từng bông riêng biệt mà mọc thành từng chùm với nhiều bông hoa nhỏ, mỗi chùm hoa bao gồm cả hoa đực lẫn hoa cái. Hoa xoài thường có màu trắng. Trên cây xoài, quả xoài mang lại giá trị cao nhất. Đây là một loại quả có hột, quả xoài thuôn dài và phình to hơn ở đầu, khi còn non, quả xoài có màu xanh. Khi chín, vỏ xoài chuyển sang màu vàng. Phần thịt xoài dày và có màu cam đẹp mắt, khi ăn xoài có vị chua chua ngọt ngọt thanh mát rất được nhiều người ưa thích.
Mặc dù xoài không phải là một cây cảnh đẹp, tuy nhiên tại các quán cà phê hay tại các hộ gia đình người ta vẫn trồng cây xoài với tác dụng làm bóng mát và mang lại không khí trong lành. Phần thân cây và cành cây, lá cây khi khô có thể được sử dụng làm chất đốt. Qủa xoài là một loại quả có mùi vị thơm ngon, thích hợp để làm các món tráng miệng, hoa quả ăn trực tiếp, ngoài ra xoài chín còn là nguyên liệu để chế biến cho nhiều món ăn khác nhau như làm sinh tố làm kem bánh kẹo. Đặc biệt tại Thái Lan, xoài còn là nguyên liệu chính cho một món xôi rất nổi tiếng- xôi xoài. Quả xoài còn xanh có thể làm nguyên liệu cho món xoài dầm hay nộm tôm xoài rất ngon. Đối với Việt Nam, xoài có giá trị xuất khẩu mang đến lợi ích kinh tế cao đối với các hội gia đình.
Xoài không phải là một loại cây khó trồng và chăm sóc, tuy nhiên để cây phát triển tốt nhất người trồng cần lưu ý phòng trừ sâu bệnh kịp thời cho cây, làm cỏ dưới gốc cây để cây có thể phát triển một cách tốt nhất. Ngoài ra việc quan trọng đối với người trồng xoài đó là cần có biện pháp bảo vệ các loại hoa và các loại quả non. Xoài cũng là một loại cây ưa ánh sáng vì vậy người trồng nên tránh trồng xoài với một mật độ quá dày để đảm bảo cho cây luôn xanh tốt nhất. Việc bón phân cho xoài cũng nên theo chu kỳ đều đặn.
Xoài một loại cây ăn quả quen thuộc và gần gũi. Cây gắn bó với tuổi thơ của mỗi con người. Đối với người dân Việt Nam, nhắc đến xoài không phải là chỉ nhắc đến một loài cây có quả ngon mà còn là nhắc đến một người bạn tâm tình. Hiểu được điều đó để chúng ta càng thêm yêu quý trân trọng những giá trị mà cây xoài đem lại.
Thuyết minh về loại cây ăn quả - Cây Chuối
Nhắc đến Việt Nam là nhắc đến quê hương của những loài cây ăn quả phong phú và độc đáo. Khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa tạo điều kiện thuận lợi cho những loài cây này phát triển nhanh chóng. Một trong số những loài cây dễ trồng và nhanh cho thu trái là cây chuối.
Chuối ở Việt Nam hiện nay được biến đến là một loại cây tương đối phổ biến gồm một số loại thông dụng như chuối tiêu, chuối tây, chuối ngự, chuối hột hay chuối lùn,…, ngoài ra còn một số loại chuối rừng…Là một loại cây dễ sống, chuối thích hợp khi được trồng ở những nơi có khí hậu ẩm ướt. Về đặc điểm sinh trưởng, chuối có thể tự sinh trưởng trong môi trường tự nhiên. Chuối thường mọc theo bụi, tuy nhiên để chuối có sự phát triển đầy đủ nhất, người ta thường trồng chuối thành những bụi từ một cho tới bốn cây. Nếu như một bụi chuối quá nhiều, thông thường, người trồng chuối sẽ đánh ra những bụi khác nhau.
Chuối là một loại cây thuộc dạng rễ chùm, chính bởi vậy, người ta sẽ thấy rễ của chuối không ăn quá sâu vào lòng đất nhưng những loại cây ăn quả có rễ cọc khác. Tuy nhiên với đặc điểm rễ mọc thành từng chùm nên chuối vẫn có thể sinh trưởng tốt từ các chất dinh dưỡng và muối khoáng mà các nhánh rễ thu nhận được.
Thân chuối có dạng hình trụ thẳng đứng. Tuy nhiên, theo các nhà khoa học, đây chỉ được gọi là thân giả. Chiếc thân giả này sẽ tùy từng loại cây mà có chiều cao khác nhau, thông thường khoảng từ 1,5 cho tới 2,5 m. Từ mỗi chiếc thân này, có thể mọc ra một một buồng chuối trước khi nó được thay thế bởi một chiếc thân giả khác. Đặc điểm tiêu biểu của thân chuối là bề mặt nhẵn mịn và bóng từ ghép lại thành các lớp chồng lên nhau. Thân chuối có nhiều công dụng, trước hết thân chuối có thể được dùng làm thức ăn cho gia súc gia cầm để bổ sung nước và chất xơ.. ngoài ra thân chuối non còn được sử dụng thái lát mỏng thành một món rau sống ưa thích của con người.
Lá chuối rộng bản và to, có màu xanh non đẹp mắt. Một thân chuối sẽ có nhiều lá chuối mọc xòe ra xung quanh và bên trên ngọn. Hai mặt của lá chuối sẽ có hai màu khác nhau. Mặt bên trên được đón nhận nhiều ánh nắng mặt trời nên sẽ có màu xanh thẫm, mặt bên dưới, do nhận được ít ánh sáng mặt trời hơn nên sẽ có màu xanh nhạt và kèm theo phấn trắng. Lá chuối cũng có rất nhiều công dụng đối với đời sống con người. Người ta sẽ thường sử dụng lá chuối để gói các loại thức ăn như xôi, cốm,... vì rất sạch và thân thiện với môi trường. Đặc biệt hơn, lá chuối khi nhai dập có thể cầm máu. Ngoài ra, lá chuối khô sẽ thường dùng để gói các loại bánh như bánh gai,…. Phần cuống của lá chuối khô rất chắc và dai, vì vậy, những người dân thường sẽ dùng để bó rau. Lá chuối khô cũng có thể dùng làm chất đốt,...
Không thể bỏ qua một bộ phận quan trọng khi nói đến cây chuối, đó là hoa chuối hay còn gọi là bắp chuối. Bắp chuối có màu đỏ thẫm và trông giống như một giọt nước khổng lồ treo ngược. Bắp chuối ở những miền đồng bằng khác bắp chuối rừng về màu sắc, thông thường những hoa chuối ở đồng bằng sẽ có màu màu tím chứ không đỏ tươi như bắp chuối rừng. Hoa chuối ngon sẽ là hoa chuối khi cầm chắc và nặng tay. Hoa chuối thường được sử dụng làm món ăn kèm với các loại bún nước, làm gỏi, hay nộm cũng rất ngon. Đó đều là những món ăn thanh mát rất được người dân Việt Nam ưa chuộng.
Chuối mọc thành từng buồng. Buồng chuối là tập hợp của nhiều nải chuối. Tùy từng giống chuối khác nhau mà mỗi buồng chuối sẽ có số lượng nải chuối không giống nhau. Có những buồng chuối chỉ có vài nải, nhưng cũng có những buồng chuối có số lượng nải lên đến hàng trăm. Để chuối phát triển tốt, quả đều và đẹp, thông thường người trồng chỉ để lại từ mười cho tới mười hai nải trên một buồng.
Tùy từng loại khác nhau mà quả chuối cũng sẽ có hình dạng và vị khác nhau. Quả chuối thường có màu xanh lúc còn non và màu vàng khi chínvới hình dạng cong như lưỡi liềm. Thông thường mỗi nải chuối sẽ có từ mười hai cho tới hơn hai chục quả. Quả của những cây chuối rừng sẽ thường có hột lớn hơn và cứng hơn những loại chuối được trồng tại các hộ gia đình. Chuối là một loại quả mang lại giá trị kinh tế cho con người, trong những trang trại lớn người ta trồng chuối nhằm mục đích xuất khẩu. Tuy nhiên có nhiều hộ gia đình cũng trồng chuối với mục đích để tráng miệng hoặc thắp hương mỗi ngày tết ngày rằm. Chuối chín có vị rất ngọt và có mùi rất thơm, người người ta có thể sử dụng để ăn trực tiếp hoặc dùng làm nguyên liệu cho những món ăn mùa hè rất thơm ngon như kem chuối hay chè chuối,...Chuối xanh cũng có thể được sử dụng để làm thành các món như chuối nấu ốc, chuối om đậu hay dùng xắt lát ăn kèm với những món thịt.
Trong đời sống văn hóa của con người, chuối là một loại cây gắn bó với làng quê. Ở đâu ta cũng thấy những cây chuối mọc thành từng bụi xanh tốt. Cây chuối là một loài cây mộc mạc và giản dị, nó cũng tượng trưng cho sự sống của con người dù môi trường khắc nghiệt như thế nào cũng mạnh mẽ vươn lên. Đó là một loại cây có giá trị kinh tế và nhiều công dụng đối với đời sống con người, bởi vậy mỗi người cần yêu quý và trân trọng loài cây hữu ích này.
Thuyết minh về loại cây ăn quả - Cây Ổi
Trên khắp mọi miền của đất nước Việt Nam thân yêu, nơi đâu cũng ngập tràn hoa thơm trái ngọt. Mỗi vùng miền lại có những loại quả đặc trưng khác nhau, mang hương vị khác nhau. Ổi cũng là một trong những loại quả được nhiều người yêu thích nhất. Cây ổi là loại cây ăn quả phổ biến ở nước ta.
Cây ổi từ lâu đã trở nên quen thuộc trong đời sống của người dân Việt Nam, đặc biệt là ở các vùng nông thôn giản dị, thanh bình. Là một thành viên thuộc dòng họ Sim, cây ổi là loài cây ăn quả thường xanh lâu năm. Nó có nguồn gốc từ Brasil và những miền nhiệt đới châu Mỹ, rồi lan tới những vùng nhiệt đới châu Á. Không ai rõ thời điểm cây ổi xuất hiện ở Việt Nam chính xác là bao giờ, chỉ biết rằng từ rất lâu trước kia, cây ổi đã mọc hoang dại ở nhiều vùng rừng núi hoặc được đem trồng trong vườn, xung quanh nhà ở để lấy quả ăn.
Nhà ổi có rất nhiều anh em, không chỉ có những giống ổi phổ biến như ổi găng, ổi thóc mà còn có cả ổi trâu, ổi bo, ổi đào, ổi mỡ, ổi nghệ…những cái tên rất thú vị và có vẻ kỳ lạ. Đặc biệt là ổi đào, ổi nghệ tuy quả không to như ổi trâu, ổi bo…nhưng rất ngọt và thơm.
Xét về hình thể cùng anh em nhà vải và nhãn, xoài, cây ổi nhỏ bé hơn. Chiều cao trung bình chỉ hoảng 6 – 7 m, có cây cao nhất sẽ lên tới 10 m, đường kính thân tối đa chỉ khoảng 30cm. Những giống ổi mới còn nhỏ và lùn hơn thế nữa. Cây ổi ra cành và nhánh sớm nên thân nó chắc khỏe và ngắn, bù lại thân cây ấy nhẵn nhụi, chẳng mấy khi bị sâu đục rỗng như nhãn, vải…Khi vỏ già rồi tróc ra bên dưới còn có một lớp vỏ mới cũng nhẵn, màu xám xám xanh xanh rất đẹp. Rễ cây mọc thành chùm, bám vào nhau đâm sâu xuống lòng đất để hút chất dinh dưỡng nuôi cây. Cây ổi có rất nhiều cành, trên cành đầy những lá xanh hình bầu dục, nhỏ bằng khoảng nửa bàn tay. Trên mỗi chiếc lá lại có những đường gân xếp đều tăm tắp, nhẹ tay sờ vào cũng thấy ram ráp. Lá ổi có mùi thơm dịu nhẹ rất dễ chịu.
Ổi cũng ra hoa rồi mới kết trái như những cây ăn quả thông thường khác. Hoa ổi màu trắng, moc thành từng chùm khoảng 2 – 3 bông, thường mọc ở nách lá mà không phải đầu cành. Hoa có 5 cánh trắng bao bọc lấy nhụy vàng bên trong với nhiều hạt phấn nhỏ. Mùa ổi ra hoa là vào tháng 3 – tháng 4 cuối xuân đầu hạ. Nhưng đến thời điểm giao mùa thu độ tháng 8 – tháng 9 thì mới đến mùa quả. Qủa ổi là loại quả trông mọng, hình dáng không cố định mà thay đổi theo từng giống, hình cầu, hình trứng hoặc hình quả lê đều có, rất đa dạng, bắt mắt. Qủa ổi lớn hay nhỏ cũng phụ thuộc vào giống, như giống ổi thóc nhỏ bé chỉ bằng một nửa ổi găng, ổi đào lại to hơn, có giống ổi còn to như quả lê. Trên đầu mỗi quả luôn có một vết sẹo do cuống ổi, vỏ quả ổi mỏng, mịn, thịt quả bên trong dày màu trắng, hồng, vàng… Ổi là giống quả có khá nhiều hạt, sau này người ta nghiên cứu thêm mới cho ra đời những giống quả không hạt. Vị quả ngọt thanh thanh, thêm thịt cùi giòn, kết hợp với nhau tạo ra hương vị đặc biệt chỉ có ở quả ổi.
Không phải tự nhiên mà cây ổi trở nên thân thuộc trong đời sống của con người Việt Nam. Nó không chỉ đem đến những giá trị từ quả ổi với vai trò của một cây ăn trái mà còn có nhiều giá trị khác. Qủa ổi có hương vị ngọt thơm, là loại trái cây mà nhiều người yêu thích. Thậm chí được đưa đến các thị trường thế giới và nhận được sư phản hồi tích cực. Ổi hái từ trên cây xuống có thể thưởng thức ngay hay chế biến thành những miếng mứt ngọt ngọt thơm thơm, ép ra thành nước ổi đóng hộp, làm kẹo…Các bộ phận trên cây như búp non, lá non, quả, vỏ thân hoặc rễ đều có công dụng chữa bệnh, dùng làm các vị thuốc lành tính, an toàn. Trong y dược cổ truyền của dân tộc, lá ổi có thể giải độc, quả ổi vừa ngon, vừa đẹp da lại có tác dụng tiêu thực. Dân gian xưa còn dùng lá non và búp ổi để chữa đau bụng, dùng lá tươi cho những vết thương bầm dập, chảy máu… Và rất nhiều công dụng khác.
Ngày nay, khoa học kĩ thuật phát triển, có rất nhiều loại cây ăn quả ra đời nhưng người ta vẫn dành tình cảm đặc biệt cho cây ổi. Mỗi dịp Tết Nguyên Đán, tết Trung Thu trên mâm hoa quả chẳng bao giờ thiếu bóng dáng loại quả xanh và ngọt này. Cây ổi vì lẽ đó chính là một phần trong cuộc sống của nhân dân ta, cần được trân trọng, giữ gìn.