Top 7 Bài phân tích bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên hay nhất

Nam Cao là nhà văn nổi tiếng với ngòi bút nhân đạo bậc thầy. Các tác phẩm của ông luôn mang giá trị cao đẹp, đầy tính nhân văn. Chí Phèo chính là tác phẩm về đề tài nông dân tiêu biểu nhất. Linh hồn của câu chuyện chính là nhân vật cùng tên được nhà văn miêu tả với một tấn bi kịch của số phận, cũng là bi kịch của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám nhưng dù bị tha hóa biến chất vẫn sáng lên nét đẹp về tâm hồn, vẫn khát khao được làm người lương thiện. Toplist xin giới thiệu với các bạn các bài văn tham khảo với đề bài phân tích Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo (Chí Phèo - Nam Cao) để các bạn học sinh lớp 11 cùng tham khảo.

Bài tham khảo số 7

Có ý kiến cho rằng: Nếu không viết: "Chí Phèo", Nam Cao đã để lại cho Văn học Việt Nam một khoảng trống lớn. Chí Phèo là tác phẩm đầu tay của Nam Cao trình làng với bạn đọc, ngay từ khi xuất hiện nó đã trở thành một vấn đề, một kiệt tác của trào lưu văn học hiện thực. Đây là tác phẩm tiêu biểu viết về người nông dân bởi đến đây người đọc mới hiểu thế nào là tận cùng nỗi khổ của người nông dân Việt Nam trong xã hội phong kiến.Nếu như ở những tác phẩm của các nhà văn hiện thực khác: Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan. hình ảnh người nông dân chỉ hiện lên với những áp bức bất công, bị dồn đến bước đường cùng, nhưng họ vẫn còn giữ được con người mình, nhưng đến với Nam Cao thì đã có những khám phá phát hiện mới mẻ, ông không chỉ phát hiện ra bi kịch bị bần cùng hóa mà còn khám phá phát hiện ra bi kịch bị lưu manh tha hóa bị cự tuyệt quyền làm người của người nông dân.


Mở đầu trang văn, Nam Cao đã để cho Chí Phèo xuất hiện bằng một hình ảnh hết sức sống động độc đáo: Chí Phèo khật khưỡng vừa đi vừa chửi: tiếng chửi của Chí Phèo ngay lập tức cho người đọc hình dung về một sự việc bất bình thường. Vì lẽ gì mà một con người phải cất lên những tiếng chửi như vậy? Tại sao những tiếng chửi đó lại không được đáp trả. ? Nhưng chúng ta sẽ thấy tiếng chửi này không phải là bâng quơ, không đơn giản mà nó rất logic, rất có dụng ý. Ban đầu hắn chửi trời đến chửi đời rồi chửi ngay tất cả làng Vũ Đại. nhưng đối tượng của những tiếng chửi này là mơ hồ không xác định đến khi hắn chửi không biết đứa nào đẻ ra thân hắn cho hắn khổ thế này. thì đối tượng đã được xác định. Chí Phèo chửi để nhận thức nguyên nhân dẫn đến bi kịch của bản thân. Nhưng ngay lập tức hắn hiểu rằng tiếng chửi của hắn là vô vọng, hắn thấy thấm thía nỗi khốn khổ của số phận, hắn đã phải cất tiếng chửi để thèm mong có ai đó chửi lại hắn, để hắn có thể được giao tiếp với đời, với người. Vậy mà không người nào chịu chửi lại hắn, có nghĩa là tất cả mọi người đã dứt khoái không coi hắn là người. Chửi lại hắn nghĩa là còn thừa nhận hắn là người, còn bằng lòng giao tiếp đối thoại với hắn. Chí chửi cả làng Vũ Đại với hy vọng sẽ có ai đó chửi lại. Nhưng hắn chỉ nhận lại một sự im lặng đáng sợ, và Chí vẫn còn lại một mình Chí trong sa mạc cô đơn: hắn cứ chửi rồi lại nghe, chỉ có ba con chó dữ với một thằng say rượu.


Bằng cách mở đầu truyện độc đáo thế này, tác giả không chỉ giới thiệu mà còn bắt đầu hé mở cho người đọc thấy tình trạng bi đát của một số phận, đó là số phận người nông dân bị xã hội tàn phá về tâm hồn, hủy diệt cả nhân tính, do đó bị phủ nhận giá trị, tư cách làm người. Nỗi thống khổ của Chí Phèo ban đầu tất cả là con số không: không nhà, không cửa, không cha mẹ, không họ hàng thân thích, không một tấc đất cắm dùi. Nhưng đó mới chỉ là mở đầu, nỗi khổ đau đớn nhất của Chí Phèo là bị cả xã hội quay lưng lại, bị cướp mất linh hồn người, bị loại ra khỏi xã hội loài người, phải sống kiếp sống tối tăm của thú vật. Từ quá khứ đến hiện tại, từ bản chất đến hiện tượng Chí Phèo đã biến đổi. Trong quá khứ Chí Phèo là một con người hiền như cục đất, có bản chất lương thiện, từ khi vào làm canh điền cho nhà Bá Kiến, rồi bị Bá Kiến đẩy vào tù, sau 7- 8 năm ở tù ra, Chí Phèo đã rơi vào vô thức và bị lưu manh tha hóa, tất cả mọi hành động của Chí Phèo đều phải thông qua rượu, đều diễn ra trong vô thức : đâm thuê, chém mướn, cướp bóc, rạch mặt ăn vạ. Những tội ác của Chí cứ đầy lên trong con mắt người dân làng Vũ Đại.


Tưởng như số phận cuộc đời của Chí Phèo sẽ mãi mãi trượt dài trên cái dốc lưu manh tha hóa và rơi vào vực sâu của kiếp sống tội lỗi; nhưng sự xuất hiện Thị Nở đã đưa Chí Phèo từ vực sâu của kiếp sống lưu manh tha hóa đến bến bờ của cõi đời lương thiện. Đây có thể xem là một sự kiện trọng đại, một biến cố mở ra một bước ngoặt của cuộc đời Chí Phèo, đưa Chí Phèo trở lại với kiếp người. Sự xuất hiện của Thị Nở cùng bát cháo hành đã biểu hiện cho sự đồng cảm và tình người nhân hậu. Người đàn bà xấu đến ma chê quỷ hờn kia lại là người duy nhất ở làng Vũ Đại biết được sao có lúc nó hiền đến thế. Hơi ấm của bát cháo hành chính là hơi ấm của tình người nhân hậu đã làm cho con người lương thiện bấy lâu chìm khuất trong hình ảnh của con quỷ dữ, thằng đầu bò đã phục sinh, giờ đây sức sống tâm hồn đã trỗi dậy trong Chí Phèo.

Sau khi con người lương thiện phục sinh, tính cách tâm hồn con người Chí Phèo đã tỉnh dậy lắng nghe những âm thanh bình dị mộc mạc hàng ngày mà lâu nay Chí quên lãng. Chí bỗng hồi tưởng về những kỉ niệm của thời êm đẹp :Ao ước có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm. .Đáng lẽ ra hắn cũng sẽ có được một cuộc sống bình thường như bao người khác nhưng giờ đây khi hắn tỉnh dậy hắn mới thấy hắn đã già mà vẫn còn cô độc hắn vẫn đang sống bên lề cuộc đời một cách khốn nạn, hắn cảm thấy buồn, cảm thấy tủi nhục. Hơn lúc nào hết, lúc này hắn mong ước được làm người, được trò chuyện.


Nhưng những giây phút được yêu của cuộc sống lứa đôi Chí Phèo - Thị Nở thật ngắn ngủi, hạnh phúc vừa hé mở đã khép lại. Chí Phèo và Thị Nở đã dắt tay nhau tới ngưỡng cửa cuộc đời nhưng bị từ chối phũ phàng bởi định kiến xã hội mà bà cô Thị Nở là đại diện. Khi tỉnh dậy và đối diện với hiện thực, Chí Phèo mới giật mình và nhận thức một cách sâu sắc hơn, rằng hắn đã bị từ chối khỏi cộng đồng và không thể trở thành người lương thiện trong con mắt mọi người được nữa.

Khi con người lương thiện trong Chí Phèo đã phục sinh thì hắn lại càng khao khát được làm người hơn bao giờ hết. Nhưng khao khát vẫn chỉ là khao khát, như ánh cầu vồng vụt tắt sau cơn mưa, như ngọn lửa nhỏ bị dập tắt khi mới vừa được nhen nhóm khát vọng làm người của hắn đã bị cự tuyệt hoàn toàn. Chí lại trở về với sự cô độc, và đau đớn, xót xa khi nhận ra mình đã không còn đường về quay trở lại: Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào để mất những vết mảnh chai trên mặt này? Đây chính là sự tự ý thức cao độ của Chí Phèo về bi kịch của bản thân mình. Hình ảnh những vết mảnh chai trên mặt chính là dấu vết của những năm tháng tội đồ. Hình ảnh này đã hằn sâu trong tâm trí của người dân làng Vũ Đại và trở thành nỗi ám ảnh kinh hoàng đối với họ. Trong con mắt của mọi người, Chí Phèo là con quỷ dữ. Thằng đầu bò và hình ảnh này không thể tẩy xóa đi được nữa. Chính định kiến đã ngăn cản bước chân của Chí Phèo tìm về với cõi đời lương thiện.


Hơn ai hết, Thị Nở là người đem lại cho Chí Phèo sự đồng cảm về tình người nhân hậu, nhưng chính Thị Nở cũng là người đẩy Chí Phèo đến bờ vực của cái chết. Thị vừa là phương tiện, là công cụ lại vừa là nạn nhân của định kiến.

Đến đây, Chí Phèo rơi vào bi kịch của sự lựa chọn giữa sự sống và nhân cách cái Và cuối cùng, Chí Phèo đã tìm đến cái chết để khẳng định nhân cách của mình Chí Phèo cầm dao đâm chết Bá Kiến - kẻ thù lớn nhất của đời mình rồi tự sát. Chí Phèo đã lựa chọn - một sự lựa chọn nghiệt ngã, nhưng đó là cách duy nhất để con người lương thiện trong Chí được sống, để nhân cách con người của hắn được tồn lại.


Hành động tự sát của Chí Phèo là cuộc chiến đấu mạnh mẽ nhất, dữ đội nhất và là cuộc chiến đấu cuối cùng giữa con người hiền như cục đất và con quỷ dữ thằng đầu bò. Trong cuộc quyết đấu này, Chí Phèo đã chết, nhưng nhân cách lương thiện đã trỗi dậy và tỏa sáng, đó cũng chính là chiến thắng tất yếu của cái thiện đối với cái ác, đồng thời cũng là sự thể hiện rõ ràng nhất của tư tưởng nhân đạo và tinh thần nhân văn của ngòi bút Nam Cao.

Bài tham khảo số 7
Bài tham khảo số 7
Bài tham khảo số 7
Bài tham khảo số 7

Bài tham khảo số 5

Nam Cao là một nhà văn hiện thực lớn của nền văn học Việt Nam trước Cách mạng. Sau Cách mạng, ông hăng hái tham gia làm báo kháng chiến. Ông có nhiều đóng góp quan trọng đối với việc hoàn thiện phong cách truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ 20. Chí Phèo là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của nền văn học hiện thực Việt Nam trước Cách mạng. Bằng ngòi bút sắc sảo, nghệ thuật khắc họa nhân vật đặc sắc, Nam Cao đã làm nổi bậc tấn bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của nhân vật Chí Phèo. Qua nhân vật Chí Phèo, nhà văn đã lí giải thành công nguyên nhân vì sao người nông dân hiền lành bị tha hóa từ nhân tính đến nhân hình một cách tàn tệ đến vậy.


Quá trình tha hóa của nhân vật Chí Phèo trải qua hai giai đoạn. Mỗi giai đoạn là một bước chuyển biến mạnh mẽ sức sống trong nhân vật. Thứ nhất, từ một anh nông dân hiền lành như cục đất Chí Phèo bị đẩy vào tù. Không tội lỗi gì, bất ngờ Chí bị đẩy vào vòng lao lí, bị tước đoạt quyền sống. Bước ra khỏi nhà tù, Chí Phèo trở thành một "con quỷ" gớm ghiếc, côn đồ và tàn bạo. Thứ hai, khi Thị Nở đánh thức khát vọng sống lương thiện và mong muốn trở lại với mọi người, Chí Phèo lại hiền lành như lúc ban đầu. Cánh cửa bước vào cuộc đời rộng mở trước mắt Chí Phèo. Thế nhưng, trớ trêu thay, chỉ vì sự cản trở của bà cô, Thị Nở đã đoạn tuyệt tình nghĩa với Chí sau năm ngày chung sống hạnh phúc. Chí Phèo hụt hẫng, bất lực và bế tắc. Cánh cửa phục thiện đóng sầm trước mặt hắn, lạnh lùng và tàn nhẫn. Một lần nữa, Chí Phèo bị cự tuyệt quyền làm người. Bi kịch cuộc đời Chí Phèo bị đẩy đến mức cùng cực.


Khắc họa tấn bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã tỏ ra rất vững vàng và bản lĩnh. Lần đầu tiên trên trang văn, người ta thấy một kẻ dị dạng nhân hình bước ngật ngưỡng trong cơn say. Lần đầu tiên, người ta thấy một nhân vật bị hủy hoại tàn bạo và khủng khiếp đến như vậy. Nhân vật Chí Phèo đã thực sự mất hết tính người, sống bằng kiếp thú vật, hoàn toàn bản năng. Chí Phèo ngập ngụa trong cơn say triền miên từ ngày này qua ngày khác. Không có sự đê hèn và tàn ác nào mà Chí Phèo không dám làm. Nam Cao đã dũng cảm ghi nhận hiện thực cuộc sống dù biết rằng dó là một hiện thực tàn nhẫn có thể khiến người ta thấy đau lòng và khiếp sợ. Ông không hề lảng tránh hay tô vẽ nó bằng sắc màu giả tạo của nghệ thuật ngôn từ. Ông muốn mỗi trang văn phải là "cái sự thật ở đời" chân thực và chính xác.

Không để nhân vật rơi vào sự tầm thường, dung tục, Nam Cao đã phát hiện vẻ đẹp ẩn sâu bên trong họ. Bên trong cái điên cuồng của Chí Phèo là khát vọng lương thiện bị đè nén khủng khiếp. Nó thôi thúc con người vươn lên tìm kiếm nguồn sống. Nhưng trước những trở lực quá lớn của xã hội thực dân nửa phong kiến, nó không có cách nào khác là phản kháng một cách tiêu cực. Sự phản kháng tự phát ấy không mang lại kết quả tốt đẹp nào. Cuối cùng, nhân vật thực sự rơi vào tuyệt vọng.


Trước đây, Chí Phèo là một chàng trai nông dân hiền lành, lương thiện và có lòng tự trọng. Chỉ vì cái thói ghen bóng ghen gió của cụ Bá Kiến, Chí Phèo đã bị cụ thẳng tay đẩy vào nhà tù. Trải qua bảy, tám năm bị đày đọa, chung sống với lớp người dưới đáy xã hội, tâm hồn Chí Phèo đã bị nhuộm đen. Từ một anh Chí Phèo hiền lành, lương thiện, ra tù biến thành Chí Phèo với bộ mặt gớm ghiếc, linh hồn chất đầy thù hận và tội lỗi. Phần người trong Chí Phèo đã bị thui chột đi. Từ mặt mũi, nhân cách đều biến tướng thật đáng sợ. Cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng cỡn, cái mặt thì đen và rất câng câng, hai mắt gườm gườm gớm ghiếc.


Trong cái xã hội tàn bạo ấy, càng hiền lành,nhẫn nhục bao nhiêu thì lại càng bị chà đạp bấy nhiêu. Hắn muốn sống thì phải cướp giật, ăn vạ, gây gổ với mọi người. Muốn thế thì phải cao, phải mạnh, phải hung bạo. Thế là Chí Phèo tìm đến rượu như một cứu cánh giúp hắn quên đi cuộc đời. Hắn sống trong những cơn say triền miên và làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm. Cùng với thời gian, Chí Phèo mất đi khả năng nhận thức. Hắn không còn nhận ra nổi cái bóng của mình, không nhớ nổi mình là ai, bao nhiêu tuổi. Mọi người đều cho Chí Phèo là một con vật chứ không phải là con người nữa.

Những chuỗi ngày say sưa vô tận, những tiếng chửi vô lí,những hành động liều lĩnh hung hãn chính là sự giãy giụa tuyệt vọng của một con người muốn tìm về con đường lương thiện mà không được. Trước những hành động điên cuồng và hình dáng quái dị của Chí Phèo, ta chỉ thấy đáng thương hơn là đáng giận. Bởi lẽ chính nhà tù thực dân, sự áp bức bóc lột nặng nề của giai cấp thống trị, những định kiến tồi tệ và thái độ hắt hủi nhục mạ của những người xung quanh đã đẩy Chí Phèo đến con đường đó. Đẻ ra anh Chí Phèo hiền lành là một bà mẹ tội nghiệp và khốn nạn đã lén lút vứt con mình ở cái lò gạch cũ. Còn đẻ ra thằng lưu manh Chí Phèo , mất hết tính người là cái xã hội thực dân phong kiến đầy rẫy bất công, vô nhân đạo.


Nếu nhân vật chị Dậu trong tác phẩm "Tắt đèn" của Ngô Tất Tố đã phải bán con, bán sữa nhưng chị còn được là con người, còn Chí Phèo phải bán cả diện mạo và linh hồn của mình để trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Tất cả chỉ để được tồn tại mà thôi. Nhưng, ở đáy sâu của tâm hồn cằn cỗi và lạnh lẽo ấy vẫn còn có những mầm mống tốt đẹp mà hoàn cảnh phũ phàng của xã hội kia chưa đủ sức làm thui chột hết. Nam Cao đã không bỏ rơi nhân vật của mình. Ông dõi theo từng bước chân của Chí Phèo trong đêm tối, trong cơn say, trong giấc ngủ, nhìn ngắm nhân vật bằng tấm lòng đồng cảm sâu sắc. Trong cái thân xác đáng thương ấy, Nam Cao đã phát hiện ra có một mầm lương thiện hãy còn thổn thức. Nó muốn vực dậy, muốn trào ra nhưng không thể tự mình làm được.


Cuộc gặp gỡ giữa Chí Phèo và Thị Nở sau cuộc rượu say ở nhà Tư Lãng phải chăng là sắp đặt của tạo hóa? Tình cờ mà như là định mệnh đã sẵn bày. Cái tình mềm mại của Thị Nở và bát cháo hành ấm nóng tình người đã đánh thức dậy những tình cảm tốt đẹp, những khát khao ước mơ khi xưa của Chí Phèo về một gia đình đầm ấm, hạnh phúc. Nó như một thứ phép màu xoa dịu mọi khổ đau, hàn gắn mọi vết thương và làm rung động mọi tế bào của Chí Phèo. Sau cái đêm hạnh phúc, Chí phèo cứ thấy có cái gì đó lâng lâng khắp người khó lí giải. Thì ra, đó là cảm giác hạnh phúc. Hắn hạnh phúc vì có một người phụ nữ ở bên canh, dịu dàng và yêu thương. hắn hạnh phúc vì lần đầu tiên có một người không sợ hãi, không chạy trốn khỏi hắn. Cũng là lần đầu tiên có một người cho hắn một bữa ăn ngon lành mà trước đây hắn phải rạch mặt ăn vạ hoặc cướp giật mới có được. Những quyền lợi ấy có gì to tát đối với con người đâu? Nhưng chao ôi, đối với Chí Phèo thì đó là cả một ân huệ lớn lao. Chút tình thương yêu mộc mạc của Thị Nỡ đã đốt cháy lên ngọn lửa lương tri còn leo lét nơi đáy lòng của Chí Phèo, đánh thức dậy bản chất lương thiện vốn có trong hắn. Con người xấu xí "ma chê quỷ hờn" ấy kì lạ thay lại là nguồn ánh sáng duy nhất đã rọi vào chốn tăm tối của Chí Phèo. Thức tỉnh, gợi dậy bản tính người ở hắn, thắp sáng một trái tim đã bị ngủ mê qua bao tháng ngày bị dập vùi, hắt hủi.


Một thành công nổi bật của Nam Cao trong tác phẩm "Chí Phèo" là đã phát hiện, miêu tả được những phẩm chất tốt đẹp của Chí ngay khi hắn đã bị biến chất, tha hóa. Ngay khi Chí Phèo điên cuồng như một con thú, tưởng chừng như lòng thương đã cạn kiệt thì vẫn còn có một người biết thương cảm hắn. Ở cái làng Vũ Đại, Thị Nở là người duy nhất hiểu Chí Phèo, đồng cảm với Chí Phèo. Thị vốn là người xấu xí, đã gánh chịu nhiều điều miệt thị, khinh bỉ của con người nên dễ dàng thấu cảm cho nỗi khổ đau đang cuộn xé trong con người của Chí - một kẻ cô đơn, bị người đời ruồng bỏ.

Bát cháo hành của Thị Nở, Chí Phèo xúc động và muốn khóc, giúp Chí Phèo nhận ra: cái đau khổ lớn nhất của con người, không phải là sự đói cơm rách áo, mà sự thiếu thốn tình thương. Bát cháo hành chính là liều thuốc thần làm sống dậy sự rung cảm mà bấy lâu tưởng chừng như đã chất trong tim Chí phèo, đánh thức dậy trong hắn khát vọng sống và sống tốt đẹp.


Cuộc gặp gỡ với Thị Nở đã thức tỉnh ở Chí Phèo niềm mơ ước của một thuở xa xưa chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, cố dồn vốn để nuôi thêm con lợn. Chí Phèo mong muốn Thị Nở sẽ là chiếc cầu nối, đưa Chí Phèo trở về, hòa nhập với cộng đồng xã hội. Sau cuộc gặp gỡ ngắn ngủi với Thị Nở, tâm trạng Chí Phèo hoàn toàn thay đổi. Chí Phèo giờ đây đã nhận ra nguồn ánh sáng ngoài kia rực rỡ biết bao. Nghe thấy tiếng chim hót vui vẻ, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá trên sông, tiếng cười nói bàn tán của những người đàn bà đi chợ về. bao nhiêu âm thanh quen thuộc của cuộc sống bấy lâu nay vậy mà giờ đây Chí Phèo mới nghe thấy bởi hắn luôn chìm ngập trong những cơn say. Hôm nay, những âm thanh ấy, vọng đến tai hắn, bỗng trở thành tiếng gọi của sức sống và đã lay động sâu xa tâm hồn Chí Phèo. Trái tim tưởng chừng như trái đá của hắn đã dần dần sống dậy. Cái phần người trong Chí Phèo cũng hồi sinh "hắn thèm lương thiện, hắn khao khát làm hòa hòa với mọi người". Từ một "con quỷ dữ", nhờ có tình thương yêu của Thị Nở - dù đó là tình thương của một con người xấu xa, thô kệch, dở hơi cũng đủ để làm sống dậy một bản tính người nơi Chí Phèo. Thế mới biết, sức cảm hóa của tình thương kì diệu đến chừng nào.


Nhưng đau đớn thay, chút tình thương của Thị Nở không đủ mạnh để cứu lấy Chí Phèo. Bởi ngoài Thị Nở ra, không hề có lấy một cơ nào, chẳng hề có một bàn tay thân thiện nào chìa ra dắt Chí Phèo trở về cuộc sống lương thiện. Con đường trở lại làm người của hắn vừa mới hé mở đã bị đóng sầm lại. Một chút hạnh phúc nhỏ nhoi cuối cùng vẫn không đến được với Chí Phèo. Khắc nghiệt làm sao khi bản tính người trỗi dậy nơi Chí Phèo cũng là lúc Chí Phèo hiểu rằng mình không còn trở về với lương thiện được nữa. Xã hội đã cướp đi của Chí Phèo quyền làm người và vĩnh viễn không trả lại. Những vết dọc ngang trên mặt - kết quả bao cơn say, bao lần đâm thuê chém mướn, rạch mặt ăn vạ,. đã ngăn cản Chí trở về với cuộc đời lương thiện. Những định kiến của xã hội đã không cho phép Chí đặt chân lên nhịp độ hi vọng. Con đường trở về với cuộc sống lương thiện vừa mới kịp lóe lên trong đầu hắn, như một ngọn lửa chỉ kịp le lói đã bị cuộc đời dội gáo nước lạnh làm cho tắt ngầm. Chí Phèo một lần nữa bị hắt hủi và ruồng bỏ một cách phũ phàng. Chí đã bị chính Thị Nở cự tuyệt, người mà hắn nghĩ sẽ là cây cầu duy nhất đưa hắn về với cuộc sống lương thiện. Thị Nở không phải không yêu hắn, không phải không muốn lấy hắn nhưng vì bà cô và những định kiến xã hội đã níu giữ lấy Thị, không cho Thị được kết duyên với Chí Phèo. Chí Phèo đã cố níu lấy tay Thị Nở lúc Thị vùng vằng ra về nhưng bất lực. Hắn hụt hẫng và rơi vào vực thẳm tuyệt vọng: "ôm mặt khóc rưng rức".


Một lần nữa, Chí Phèo tìm đến rượu. Nhưng lần này Chí Phèo càng uống lại càng tỉnh Càng tỉnh lại càng thấm thía sâu sắc nỗi đau bi kịch của mình. Trong cơn đau đớn phẫn uất, Chí Phèo quyết định trả thù. Hắn vác dao đến nhà Bá Kiến đòi lương thiện. Đau đớn và thống thiết thay, là tiếng phẫn uất của Chí Phèo: "Ta muốn làm người lương thiện, ai cho ta lương thiện. Làm thế nào cho mất được những vết mảnh trại trên mặt này. Tao không thể là người lương thiện được nữa. Biết không, chỉ còn một cách. biết không. ". Căm thù cao độ và không còn lối thoát nào khác, Chí Phèo đã giết Bá Kiến rồi tự sát, lấy sự hủy diệt đời mình để giải quyết bế tắc của số phận.


Qua truyện ngắn Chí Phèo Nam Cao đã khái quát một hiện tượng xã hội ở nông thôn Việt Nam trước năm 1945, một bộ phận nông dân lao động lương thiện bị đẩy vào con đường tha hóa, lưu manh hóa. Nhà văn đã kết án đanh thép cái xã hội tàn bạo tàn phá cả thể xác và tâm hồn người nông dân lao động, đồng thời khẳng định bản chất lương thiện của họ, ngay trong khi họ bị vùi dập mất cả nhân hình, nhân tính. Chí Phèo chính là tiếng kêu cứu thiết tha của những người bất hạnh; là tiếng nói bảo vệ và đấu tranh cho quyền được làm người của những con người lương thiện; là mong ước được sống và sống hạnh phúc, không còn những thế lực đen tối của xã hội đẩy họ vào chỗ khốn cùng, bế tắc, đầy bi kịch xót xa của lớp người nông dân khốn cùng.

Bài tham khảo số 5
Bài tham khảo số 5
Bài tham khảo số 5
Bài tham khảo số 5

Bài tham khảo số 3

Trong giai đoạn văn học 1930- 1945, chủ yếu các tác giả đều viết về số phận những người nông dân, nhưng mỗi người đều có lối viết, lối khai thác các nhân vật của riêng mình. Còn riêng Nam Cao, ông lại muốn tìm tòi, khai thác về nỗi khổ của những người nông dân lương thiện. Nam Cao sinh ra trong 1 gia đình nông dân ở làng Đại Hoàng, cả cuộc đời ông vất vả lận đận, ông là người giàu tình yêu thương, nặng ân tình đặc biệt là đối với những người nông dân nghèo khổ bị áp bức. Năm 1951, Nam Cao hy sinh, ông xứng đáng là 1 nhà văn- chiến sĩ, có thể coi là ngòi bút đại thụ của nền văn học Việt Nam. Tác phẩm "Chí Phèo" đã trải qua 3 lần đổi tên, nhan đề đầu tiên là "Cái lò gạch cũ", sau khi được in thành sách nhà xuất bản đã tự ý đổi tên thành "Đôi lứa xứng đôi", sau này, Nam Cao mới đổi lại tên thành "Chí Phèo", tác phẩm được coi là kiệt tác của nhà văn.


Để hiểu rõ được bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí phèo, người đọc phải hiểu được bi kịch là gì? Bi kịch là nỗi buồn, các nhà văn thường khai thác từ những mâu thuẫn xung đột gay gắt và thường kết thúc bằng cái chết của nhân vật chính. Trong truyện ngắn "Chí phèo", tác giả không chỉ đi sâu vào khai thác mâu thuẫn giai cấp mà còn khai thác cả mâu thuẫn trong chính nhân vật. Chí phèo được sinh ra là con người với đầy đủ các bản chất của 1 người bình thường, có dự định, ước mơ, là 1 người nông dân hiền lành lương thiện, biết phân biệt tốt xấu đúng sai. Nhưng rồi sau đó, Chí bị đẩy vào con đường bần cùng hóa, tha hóa, bị tước đoạt mất nhân tính, bị loại ra khỏi xã hội loài người. Để rồi sau đó, khi hắn muốn quay trở lại làm 1 con người lương thiện thì lại bị từ chối phũ phàng và cuối cùng hắn chết trên ngưỡng cửa trở về với cuộc đời.


Ngay từ khi sinh ra, Chí đã bị bỏ rơi, được 1 anh thả ống lươn nhặt được trong buổi sáng sớm tinh sương ở lò gạch bị bỏ không ngoài đồng vắng. Con người đến với cuộc đời như bị quăng ra đấy, bơ vơ, trơ trọi. May thay, nhờ sự cưu mang, đùm bọc của người dân làng Vũ Đại mà hắn đã được sống, được trở thành người nông dân hiền lành lương thiện, giàu tự trọng. Nhưng vì ghen tuông vu vơ mà lí Kiến đã đẩy hắn đi tù, nhà tù thực dân đã biến hắn trở thành kẻ "trông đặc như 1 thằng săng đá" rồi sau đó bá Kiến thực hiện tốt công đoạn cuối cùng là biến Chí trở thành tay sai của mình. Chí Phèo bị lợi dụng, trở thành kẻ chuyên đi đâm thuê chém mướn, mỗi ngày hẳn bán rẻ linh hồn mình cho quỷ bằng vài đồng vài hào để rồi cuối cùng hắn biến mình thành 1 con quỷ thật sự "Nhìn mặt hắn người ta không đoán được là bao nhiêu tuổi, nó vàng vàng mà lại sạm màu gio, nó lằn ngang lằn dọc không biết bao nhiêu là vết sẹo "rồi hắn còn suốt ngày sau rượu" cứ rượu vào là hắn chửi". Trong tiếng chửi lảm nhảm của Chí còn lã nỗi cô độc, hắn khao khát được giao tiếp với mọi người dù chỉ là tiếng chửi, nhưng chẳng ai đáp lại hẳn, chẳng đi chấp nhận hẳn, bởi vì "hắn đã đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, đập nát biết bao cảnh yên vui, làm chảy máu và nước mắt của biết bao nhiêu con người lương thiện" Nhưng hắn làm nhiều điều ác như vậy bởi vì hắn lúc nào cũng say. Cũng viết về những người nông dân nhưng Nam Cao không khai thác theo lối mòn cũ là khổ vì sưu cao thuế nặng, khổ vì nghèo đói mà Nam Cao khai thác nỗi đau tinh thần của con người. Bị tàn phá mất nhân hình, bị tước đoạt mất nhân tính, bị loại ra khỏi xã hội loài người.


Và có lẽ, cuộc đời hắn sẽ cứ như vậy nếu như không gặp thị Nở. Thị Nở đã đến với hắn, cho hắn cảm nhận được tình yêu thương, cho hắn biết yêu và được yêu, lần đầu tiên hắn được "1 người đàn bà cho". Hắn yêu thị, muốn làm nũng với thị như với mẹ, và lúc này hắn đã hoàn toàn tỉnh táo, phần linh hồn người của hắn đã trở về nhờ có thị Nở. "Chao ôi! Muốn làm hòa với mọi người biết bao "hắn lập luận rất đơn giản là lại chặt chẽ, hắn hi vọng Thị sẽ là cầu nối cho hắn trở về với cuộc đời bằng phẳng lương thiện. "Thị Nở có thể sống yên ổn với hẳn thì tại sao mọi người lại không thể, rồi mọi người sẽ thấy hắn chả làm hại ai rồi sẽ từ từ tiếp nhận hắn trở về với cuộc sống bằng phẳng". Hắn lại hy vọng, lại ước mơ về 1 gia đình hạnh mà có thị Nở. Nhưng hy vọng chẳng kéo dài được lâu, thị chợt nhớ ra ở nhà còn có 1 bà cô và thị muốn quay trở về để hỏi ý kiến bà cô. Nhưng bà cô đã không chấp nhận Chí bởi nghĩ hắn là thằng không cha không mẹ, suốt ngày chỉ đi ăn vạ, đâm thuê chém mướn. Cầu nối đưa hắn đến với cuộc đời đã gãy, cánh của cuộc đời đóng sầm lại ngay trước mặt hắn. Ở đây, Nam Cao đã khéo léo lồng bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người vào bi kịch bị cự tuyệt tình yêu. Nếu như lúc trước hắn khổ nhưng ít nhất lúc đó hẳn cũng say, không nhận thức được. Còn bây giờ hắn đã tỉnh, nỗi khổ nhân lên thành niềm thống khổ, chẳng còn 1 ai có thể đón hắn đến với cuộc đời nữa rồi.


Tác giả đã sử dụng ngòi bút diễn tả tâm lí nhân vật bậc thầy, tác giả còn đưa cả ngòi bút của mình cho chính nhân vật, để nhân vật có thể tự nói lên được sự đau khổ. Lúc nghe thị trút hết tức giận lên đầu hắn, hẳn từ từ hiểu rồi "ngẩn người", hắn hụt hẫng bàng hoàng, thoáng thấy 1 hương cháo hành thoảng qua mũi. Rồi khi thị đi, hắn đã nắm tay níu kéo thị, hắn níu kéo sợi dây cuối cùng cứu vớt cuộc đời hắn nhưng thị Nở lại dứt khoát tuyệt tình, hắn rơi vào tình trạng tuyệt vọng, hắn đau đớn mà khóc lóc. Rồi hắn lại tìm tới rượu, nhưng càng uống hắn lại càng tỉnh, hương rượu hòa lẫn mới mùi thơm cháo hành khiến hắn càng đau đớn. Rồi hắn quyết định vác dao ra đi, hăn lảm nhảm là sẽ đi tới nhà thị để giết bà cô nhưng cuối cùng hắn lại đi tới nhà bá Kiến, có lẽ bởi vì hắn ý thức được ai mới là người đẩy hắn tới nước này. Trước mặt tên cáo già bá Kiến, Chí đã nói những lời hoàn toàn tỉnh táo, dõng dạc "Tao muốn làm người lương thiện", câu nói thể hiện được khát vọng muốn hoàn lương, trở về với xã hội loài người. Tuy nhiên, chính lúc này, Chí đã thấm thía được bi kịch của cuộc đời mình rằng hắn sẽ không bao giờ có thể quay trở về cuộc đời lương thiện được nữa rồi. Ai sẽ cho hắn lương thiện? Ai sẽ giúp hắn làm người lương thiện? Đau đớn căm thù kẻ đã hại mình, Chí rút dao ra, "chém túi bụi vào người bá Kiến" rồi hắn cũng tự tử, Chí Phèo đã chết trên ngưỡng cửa trở về với cuộc đời.


Có thể nói, Nam Cao đã rất thành công trong việc khai thác nỗi khổ về mặt tinh thần, nỗi đau về thể xác của những người nông dân xưa. Kết hợp với nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, ngôn ngữ giản dị, tự nhiên mà sống động càng làm tôn lên tài năng của Nam Cao. Qua tác phẩm, tác giả muốn gửi gắm lòng đồng cảm sâu sắc với bi kịch của nhân vật, niềm tin về bản chất hiền lành lương thiện của con người sẽ luôn còn đó. Hơn nữa, tác phẩm được viết lên như 1 lời kêu cứu, cứu lấy quyền làm người, cứu lấy quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc lứa đôi của con người.

Bài tham khảo số 3
Bài tham khảo số 3
Bài tham khảo số 3
Bài tham khảo số 3

Bài tham khảo số 4

Còn điều gì đau đớn và xót xa hơn khi ta vẫn hiện hữu trong cộng đồng, nhưng lại bị chính cộng đồng đó ruồng rẫy, bỏ mặc, đó là bi kịch đau xót nhất của con người – bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Bằng ngòi bút sắc sảo của một nhà văn hiểu đời và hiểu người, Nam Cao đã tái hiện chân thực, đầy xúc động bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên.


Mở đầu ta không thấy chân dung bất cứ ai, chỉ có tiếng chửi là văng vẳng vang lên ngay từ đầu tác phẩm. Vì sao mà người đó phải chửi ? Vì sao tiếng chửi lại cay nghiệt, phẫn uất đến vậy ? Đó chính là tiếng chửi của Chí Phèo sau khi đi uống rượu say về, hắn chửi trời, chửi đời, rồi chửi làng Vũ Đại, chửi những đứa không chửi nhau với hắn, ngay cả người đẻ ra hắn hắn cũng không ngần ngại chửi. Nhưng chỉ có một mình Chí độc thoại, không có bất cứ ai đáp lại vì nghĩ Chắc nó trừ mình ra. Thành thử ra chỉ có tiếng chó sủa hòa với tiếng một kẻ say đang chửi. Bi kịch của Chí ngay từ đầu đã được tác giả khơi mở. Để rồi sau đó ngược về quá khứ, thấy được những bi kịch nối dài cuộc đời Chí Phèo, mà bi kịch sau bao giờ cũng đau đớn, khổ sở hơn bi kịch trước.


Chí Phèo ra đời ở một cái lò gạch cũ cũ hoang, được một anh thả ống lươn mang về nuôi. Ngay từ khi sinh ra Chí đã bị người mẹ đẻ của mình cự tuyệt quyền sống, quyền được làm người. Dù được cứu nhưng Chí cũng phải sống lang thang hết nhà này đến nhà khác. Cuộc đời Chí không nhà không cửa, không cha không mẹ, không họ hàng thân thích, không tấc đất cắm dùi. (Nguyễn Hoàng Khung ). Từ khi sinh ra cuộc đời Chí đã là một bi kịch.


Khi lớn lên, là một anh nông dân khỏe mạnh, Chí đi làm thuê cho gia đình Bá Kiến, Chí hiền như đất, nhưng lại liên tục bị bà ba gọi lên bóp chân, trong lòng Chí chỉ thấy nhục, người ta không thích những thứ người ta khinh. Nhưng Chí lại bị con quỷ dâm đãng Bá Kiến bắt gặp, hắn ta đã tống Chí vào nhà tù thực dân cho thỏa nỗi ghen tuông. Bi kịch thứ hai đổ ập xuống đầu Chí. Nhà tù thực dân với những ngón đòn độc ác, dã man đã biến Chí thành người khác hẳn, từ một người lương thiện Chí biến thành kẻ lưu manh: cái răng cạo trắng hớn, cái mắt gờm gớm,. khiến ai cũng phải sợ hãi. Hắn uống rượu say, đến nhà Bá Kiến rạch mặt ăn vạ và cuối cùng trở thành tay sai cho Bá Kiến. Hắn làm mọi việc mà Bá Kiến sai khiến, hắn đã phá vỡ hạnh phúc biết bao gia đình làm chảy máu và nước mắt bao nhiêu người lương thiện. Chí Phèo chìm sâu vào hơi men, nhân tính và nhân hình ngày càng bị dìm xuống đáy. Chẳng ai còn nhận ra anh Chí Phèo hiền lành như đất của ngày xưa. Cuộc đời Chí trải qua hết cơn say này đến cơn say khác : Từ đấy, hắn bao giờ cũng say. Những cơn say của hắn tràn cơn này qua cơn khác [. ] thức dậy hãy còn say, đập đầu, rạch mặt, chửi bới, dọa nạt [. ] Chưa bao giờ hắn tỉnh [. ] Có lẽ hắn cũng không biết rằng hắn là con quỷ dữ của làng Vũ Đại đã tác quái cho bao nhiêu dân làng. Đời Chí Phèo trượt dài trên vũng lầy ấy. Giá thử Chí Phèo vẫn tiếp tục say, vẫn tiếp tục rạch mặt ăn vạ thì có lẽ Chí cũng tự quên đi bi kịch của chính mình. Nhưng không, Chí Phèo đã gặp ánh sáng của đời mình – Thị Nở, người đã khiến Chí nhận ra bi kịch của chính mình mà bấy lâu nay hắn cố tình không nhận ra hoặc hơi men đã khiến hắn quên mất.


Trước khi gặp Thị Nở, Chí Phèo không ý thức được bi kịch của đời mình. Nhưng khi gặp thị Nở, nhận được sự quan tâm, chăm sóc đầy ân tình mà rất đỗi giản dị, đã làm thức dậy bản chất lương thiện trong Chí Phèo. Buổi sáng sau hôm gặp Thị Nở, lần đầu tiên trong suốt bao năm Chí nghe thấy những âm thanh quen thuộc của sự sống: tiếng chim hót, tiếng người ta đi chợ,. âm thanh thân thương và ấm áp quá. Âm thanh ấy gợi về trong Chí những ngày xưa bình dị, khi Chí còn là một người bình thường, với những mong ước giản đơn. Chí giật mình trở về hiện tại nhận thấy hiện tại và tương lai cô độc, đói rét. Chí rùng mình sợ hãi. Đặc biệt khi thị Nở mang bát cháo hành sang cho chỉ, bằng những cử chỉ ân cần mà hết sức tự nhiên, Chí Phèo thực sự xúc động, hắn thấy mắt mình ươn ướt. Tình yêu thương ấy đã giúp phục sinh con người vốn tưởng đã trở thành con quỷ, đã trở nên tha hóa nay phần nhân tính đã trở về. Trong Chí cũng thức dậy khao khát được làm hòa với mọi người, được làm người lương thiện. Bằng ngòi bút phân tích tâm lí đặc sắc, độc đáo Nam Cao đã nhận ra phần bản chất đẹp đẽ nhất của người nông dân sẽ không bị hủy diệt dù họ có bị vùi dập, tàn phá về thể xác.


Nhưng còn gì đau đớn hơn, khi Chí đã sẵn sàng quay trở lại ngưỡng cửa của một con người bình thường, làm người lương thiện thì định kiến tàn nhẫn đã đóng sầm cánh cửa hi vọng của Chí. Chí bị cự tuyệt quyền làm người một cách đau đớn, phũ phàng. Lời bà cô chính là điển hình cho cực định kiến, đẩy Chí vào con đường tuyệt vọng : đàn ông đã chết hết cả rồi hay sao mà phải lấy một thằng không cha, không mẹ chi biết rạch mặt ăn vạ. Hạnh phúc mong manh vừa hé mở thì đã bị xã hội độc đoán bóp nghẹt. Bi kịch lần này đau đớn hơn, khổ sở hơn bởi Chí đã ý thức được bi kịch của chính mình, Chí tỉnh táo để nhận ra rằng ngay cả khi bản thân sẵn sàng thay đổi để hòa nhập với cộng đồng thì họ vẫn chặn đứng Chí. Bởi vậy, Chí chỉ còn một cách duy nhất đó là giết tên đã gây nên bi kịch cho mình và tự giết chính mình. Chí chết đi, để giết chết nhân hình tha hóa, để giữ lại phần nhân tính đã thức tỉnh.


Bi kịch cuộc đời Chí là do nhà tù thực dân, là do xã hội với những định kiến lỗi thời và cũng là do chính bản thân Chí. Với bi kịch bị cự tuyệt làm người một lần nữa Nam Cao khắc sâu hơn nỗi đau của người nông dân khi bị đẩy đến bước đường cùng. Đồng thời cũng cho thấy niềm tin của tác giả vào sự cảm hóa và bản chất người trong mỗi chúng ta. Qua đây cũng cho thấy tài năng nghệ thuật bậc thầy của Nam Cao.

Bài tham khảo số 4
Bài tham khảo số 4
Bài tham khảo số 4
Bài tham khảo số 4

Bài tham khảo số 1

Viết về người nông dân không hẳn là đề tài mới đối với Nam Cao, thậm chí trước đó ông đã từng khai thác và xây dựng thành công nhiều hình tượng điển hình như: Lão Hạc, Hộ (Đời Thừa), dì Hảo, Lang Rận.. Thế nhưng Chí phèo lại là một điểm nhấn khác biệt giữa những số phận đang quằn quại trong đau khổ dưới sự bất công của một chế độ mục rữa, thối nát. Nếu họ vẫn giữ được nhân cách và thiên lương trong con người mình thì Chí Phèo lại hứng chịu hàng loạt tấn bi kịch nghiệt ngã từ bần cùng hóa cho đến lưu manh hóa và cuối cùng là bị cự tuyệt quyền làm người – bi kịch lớn nhất của Chí Phèo.


Thiên truyện mở đầu bằng hình ảnh khá sống động, không phải là những trang viết nhẹ nhàng, lôi cuốn dẫn dắt người đọc đến với tác phẩm như nhiều nhà văn khác. Nam Cao đánh mạnh vào tâm lí độc giả bằng tiếng chửi thông thốc như thách thức cả cuộc đời của Chí Phèo. Chân dung của một gã say rượu ngật ngưỡng đầy phẫn uất vừa đi vừa chửi. Hắn chửi tất cả những gì trên đời mà hắn có thể chửi. Tiếng chửi của Chí không phải ngẫu nhiên, hắn chửi một cách rất logic. Ban đầu hắn chửi trời, chửi đời rồi đến cả làng Vũ Đại và cuối cùng hắn kết thúc tiếng chửi trong vô vọng khi không có đứa n chịu chửi nhau với hắn. Trong cơn say vật vã, Chí ý thức rõ bi kịch của bản thân, hắn thấm thía nỗi khốn khổ khi cả làng Vũ Đại quay lưng, chẳng ai chịu giao tiếp với hắn. Và cứ thế hắn chửi rồi lại nghe, chỉ có ba con chó dữ với một thằng say rượu.

Chỉ với những tình tiết độc đáo, mới lạ trong tiếng chửi cay đắng của Chí phèo đã bao quát toàn bộ thảm cảnh thê lương và số phận người nông dân trong xã hội lúc bấy giờ. Chí Phèo là một hình tượng điển hình cho tất cả nhưng bi kịch tội lỗi trong xã hội loài người mà chính Chí lại bị xem là con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Trong quá khứ, Chí Phèo là một người nông dân lương thiện, hiền lành, thế những cái lương thiện hiền lành ấy trong phút chốc đã bị vùi dập bởi sự thối nát, gian ác của xã hội phong kiến mà nhân vật trực tiếp là tên cường hào Bá Kiến. Bị đẩy vào tù do tính ghen tuông của Bá Kiến, anh canh điền chất phác khi xưa sau khi ra tù đã biến đổi hoàn toàn cả về thể xác lẫn nhân cách "trong đặc như thằng săng đá, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng.." Chí thay đổi hoàn toàn, hắn đã mất hết cả hình người lẫn nhân tính. Kể từ đó cuộc đời hắn trượt dài trên cái dốc lưu manh tha hóa và rơi vào vực sâu của kiếp sống tội lỗi cho đến khi đêm định mệnh ấy xảy đến với Chí. Một thằng lưu manh say xỉn và một con đàn bà dở hơi, ngẩn ngơ, họ ăn nằm với nhau vào một đêm "rười rượi những trăng". Cuộc gặp gỡ với thị Nở chính là bước ngoặt quan trọng cứu rỗi những tháng ngày bế tắc không lối thoát của Chí, nó hệt như một vệt sáng lóe lên từ bùn lầy tối tăm mở đường cho hắn trở về với con đường bằng phẳng của người lương thiện – khoảng thời gian bình yên trước đây hắn từng sống. Tình yêu thương, sự săn sóc ân cần của thị Nở đã đánh thức bản chất lương thiện trong Chí sau bao nhiêu năm ngủ yên. Lần đầu tiên sau bao nhiêu năm hắn bâng khuâng tình dậy và cảm nhận mọi vẻ đẹp tuyệt vời của cuộc sống: "Tiếng chim hót trong lành buổi sớm", "tiếng cười nói rôm rả của những người đi chợ, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá". Những âm thanh quá đỗi quen thuộc và gần gũi nhưng sao hắn cảm thấy xa lạ quá. Đắm mình trong tiếng gọi tha thiết của cuộc sống, hắn bắt đầu hồi tưởng về "những ngày xưa xa xôi" mang theo một ước mơ khát khao "," một gia đình nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải ". Hắn nghiền ngẫm quá khứ rồi lại tự chạnh lòng ở hiện tại bởi" hắn thấy mình già mà sao cô độc thế ", hắn nhận ra mình đã sống bên lề cuộc đời một cách khốn nạn. Giây phút được hồi sinh trở lại, hắn muốn sống sao cho thật ý nghĩa. Khi thị Nở mang bát cháo hành đến, hắn ngạc nhiên rồi lại thấy" mắt hình như ươn ướt "bởi đây là lần đầu tiên hắn được chăm sóc bởi bàn tay đàn bà. Bát cháo hành của thị Nở là hương vị của tình người, tình yêu cuộc sống. Tình cảm ấy nhen nhóm trong con người Chí Phèo khiến hắn muốn làm người lương thiện, muốn trở về với con người nguyên bản khi xưa và thị Nở sẽ" mở đường cho hắn ", thị sẽ giúp hắn hòa nhập với cộng đồng. Hắn đặt hết niềm tin nơi thị, hắn muốn ngỏ lời với thị" giá mình cứ thế này thì thích nhỉ.. Hay mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui? "Chỉ là lời nói vô tư như đứa trẻ nhưng chứa đựng cả một tấm lòng khát khao được hoàn lương đến nhường nào của Chí Phèo. Tình yêu thương mộc mạc nhưng chân thành đã khơi gợi bản năng của" một con quỷ dữ "mong muốn thoát kiếp làm" người hiền ". Đây chính là tấm lòng nhân đạo sâu sắc của Nam Cao" nhìn thẳng vào sự thật tàn nhẫn, mở lòng ra để đón mọi vang động của cuộc đời, phải nói lên nỗi cùng quẫn của nhân dân, vì họ mà lên tiếng ".


Cuộc sống màu hồng của Chí Phèo và thị Nở thật ngắn ngủi chớp nhoáng biết bao, hạnh phúc vừa hé mở đã đột ngột khép lại bởi" hãy dừng yêu để hỏi cô thị đã ". Thị hớn hở chạy về nhà xin phép bà cô cho yêu và lấy Chí phèo. Bà cô thị Nở chính là định kiến xã hội, là điển hình của những mâu thuẫn, kì thị trong xã hội độc ác. Bà không cho phép cháu mình lấy một thằng lưu manh chuyên" rạch mặt ăn vạ ". Người đàn bà cay nghiệt đang tâm đạp nát chút hi vọng mong manh còn sót lại nơi Chí. Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người khiến Chí trở nên đau đớn, tuyệt vọng khi thị Nở" trề cái môi vĩ đại trút tất cả lời bà cô lên Chi ". Lúc đầu Chí ngạc nhiên, Chi chợt hiểu rồi Chí lờ mờ nhận ra rằng đến một người như thị Nở mà còn không chấp nhận kẻ khốn cùng này thì còn nơi nào cho hắn dùng thân để trở về với cuộc sống bằng phẳng kia. Mọi thứ vừa được bồi lấp nguyên vẹn thì trong phút chốc chỉ vì một lời nói chua chát đã hóa thành tàn tro, trở về con số không tròn trĩnh. Quá trình diễn biến tâm lí đầy phức tạp, có phần kịch tính và bất ngờ, bộc lộ rõ nét tâm trạng phẫn uất, đau đớn của kẻ bị cự tuyệt quyền làm người. Chí như rơi vào vực thẳm của hố sâu, trở nên hụt hẫng khi niềm tin bị hất phăng một cách tuyệt tình. Hắn xót xa nhận ra sự thật phũ phàng, đau khổ chứng kiến bi kịch diễn ra trước mắt. Chính cái gọi là lương thiện, điều mà chỉ trong vài ngày ngắn ngủi trước đó, hắn khao khát chờ đợi, giờ đây đã tan biến vào hố đen của khoảng không, bị vứt bỏ một cách đốn mạt. Hắn cố níu kéo điều gì đó từ thị nhưng thị đã nhẫn tâm" gạt ra, lại giúi thêm cho hắn một cái ". Phải chăng cả xã hội đang quay lưng với hắn, không chấp nhận một thằng lưu manh như Chí tồn tại trên đời. Đau xót làm sao! Khốn nạn làm sao! Chí trở về với sự cô độc, giằng xé tâm can, hắn quằn quại trong tấn bi kịch tàn ác. Những lúc thế này, hắn lại tìm đến rượu, trong men say, hắn thoang thoảng thấy hơi cháo hành. Cảm xúc ùa về rồi cứ động đậy trong lòng hắn khiến hắn ý thức rõ thị là người đánh thức bản tính lương thiện trong con người hắn nhưng cũng chính là người đã dồn ép Chí trở về với bản tính thú vật trước đây. Hắn cứ uống nhưng càng uống càng tỉnh, hắn tỉnh rồi lại tự nghiền ngẫm lại tấn bi kịch cuộc đời mình để rồi từ đó hắn thấm thía rõ tội ác của kẻ thù, kẻ đã biến tướng nhân cách và cuộc đời hắn thê thảm như hôm nay. Chí xách dao đến nhà thị Nở với mục đích giết chết" con đĩ Nở và con khọm già nhà nó "nhưng điều gì làm hắn quên rẽ vào nhà thị Nở để rồi hắn băng thẳng đến nhà Bá Kiến. Đây thực chất chỉ là một hành động vô thức nhưng lại là cơ hội để hắn nhận thức rõ kẻ thù thực sự của mình là ai. Đứng trước tên cường hào máu lạnh, Chí Phèo thốt lên câu nói thống khổ, bi thiết:" Ai cho tao lương thiện? Làm sao để mất những vết mảnh chai trên mặt? Tao không thể làm người lương thiện được nữa! "Tiếng kêu ai oán ấy xoáy sâu vào lòng người đọc và để lại nỗi dư âm đầy ám ảnh trong tâm khảm mỗi người. Đây không chỉ là lời vạch mặt đanh thép mà còn là bản cáo trạng súc tích tố cáo tội ác, tư cách nhem nhuốc của tên cường hào Bá Kiến. Chỉ thẳng tay chỉ vào mặt Bá Kiến và trợn mắt đòi lại quyền sống cho mình. Cái quyền làm người ấy được chứng minh bằng hành động giết chết kẻ thù và tự sát. Chí tự giết chết con quỷ dữ trong người bởi ý thức nhân phẩm của hắn đã trở về, không chịu nổi kiếp sống thú vật, Chí đã tự tìm lối thoát cho mình khỏi nghịch cảnh của xã hội. Hình ảnh những vết mảnh chai trên mặt là dấu vết của những năm tháng tội đồ, chúng trở thành nỗi ám ảnh kinh hoàng của người dân làng Vũ Đại. Chí Phèo đấu tranh tư tưởng để giành lại quyền sống, quyền làm người. Hắn quằn quại trong vũng máu và kết thúc quãng đời tội lỗi. Dù vậy nhưng nhân cách lương thiện và khát khao được làm người lương thiện của Chí sống mãi trong lòng độc giả.


Tác phẩm Chí Phèo không chỉ nổi bật ở cốt truyện đặc sắc, mới lạ kết hợp ngôn ngữ biểu cảm, sống động cùng nhiều tình tiết hấp dẫn, biến hóa đầy kịch tính mà còn ghi dấu sâu đậm trong lòng bạn đọc tính nhân đạo của ngòi bút Nam Cao. Phải là người có" đôi mắt mới "và" trái tim đầy xúc cảm "nên ông mới phát hiện và miêu tả rõ nét diễn biến tâm lí cùng bi kịch đau thương của số phận người nông dân cố cùng bị lăng nhục. Nhà văn không dừng lại ở việc miêu tả ngoại hình nhân vật mà ông còn đi sâu vào từng ngõ ngách tính cách, len lỏi và tận sâu nội tâm, trạng thái của người nông dân trong quá trình bị lưu manh tha hóa để tìm tòi, khai phá" những điều mới mẻ "," khơi những nguồn chưa ai khơi ".


"Chí Phèo" là một hình tượng rất khác so với những tác phẩm về người nông dân của nhiều nhà văn cùng thời. Một số phận nghiệt ngã đến cùng cực, khốn khổ, bi thảm đến độ không còn lối thoát nào để nhân vật thoát khỏi vòng luẩn quẩn của nghịch cảnh. Qua đó tác phẩm phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội Việt Nam lúc bấy giờ và thực trạng người nông dân bị đày đọa, áp bức nhưng không thể lên tiếng để bảo vệ quyền sống của bản thân.

Bài tham khảo số 1
Bài tham khảo số 1
Bài tham khảo số 1
Bài tham khảo số 1

Bài tham khảo số 2

Soi vào cuộc đời nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao, ta chỉ thấy một bức tranh u tối mà người họa sĩ vẽ ra nó mang tên bi kịch. Có thể nói, con số không đã gói trùm lên lá số tử vi của cuộc đời Chí. Bi kịch về cuộc đời Chí đã xuyên suốt toàn tác phẩm và nếu như phải chọn một nhan đề khác, có lẽ Nam Cao đã đặt tên tác phẩm của mình là “Bi kịch”. Và đỉnh điểm bi kịch mà Chí Phèo phải chịu đựng ấy là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người.


Trước tiên, ta cần hiểu bi kịch là gì? Bi kịch là mâu thuẫn giữa hiện tại và khát vọng. Hiện tại không có khả năng giúp cá nhân thực hiện khát vọng từ đó đẩy những cá nhân đến hoàn cảnh bi đát. Chí Phèo muốn được trở thành người lương thiện nhưng sau khi ra tù, hắn đã bị gạt phăng ra khỏi cuộc đời bằng phẳng. Đau đớn hơn, cuộc đời ấy có những người đã từng cưu mang Chí. Cái tên “Chí Phèo” chứa đầy sự coi thường, khinh bỉ. Trong con mắt ghê sợ của dân làng Vũ Đại, Chí Phèo quái đản với người, lạc loài với vật, hắn không phải là một con người. Trong tiếng chửi mở đầu tác phẩm, đối tượng tiếng chửi ngày càng thu hẹp dần. Như vậy có thể thấy, con người triền miên say ấy vẫn ý thức rõ về sự đơn độc của mình. Hắn thèm được ai đó chửi vì chửi hắn có nghĩa là vẫn có người còn công nhận hắn là con người. Ta có thể hình dung ra một kẻ cô đơn, một kẻ khốn khổ cứ đi giữa cuộc đời để mà chửi, để mà kêu gào, để mà được công nhận. Nhưng cuộc đời tuyệt nhiên vẫn im lặng với hắn. Sự im lặng ấy thật đáng sợ vì đó là sự im lặng của đoạn tuyệt và ruồng bỏ. Nhưng bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người chỉ được đẩy đến đỉnh điểm khi Thị Nở cũng ruồng bỏ Chí.


Có thể nói, nguyên nhân của sự ruồng bỏ ấy là do bà cô. Nhân vật đại diện cho định kiến. Cuộc đời bằng phẳng mà Chí muốn quay về chứa đựng đầy rẫy những định kiến và chính những định kiến ấy đã chặn đứng con đường về của Chí. Qua những lời chửi mắng Thị Nở, bà cô đã cự tuyệt lại khao khát hoàn lương của Chí Phèo. Như vậy, nếu cái ác đã đẩy Chí Phèo vào con đường lưu manh hóa, thì nay định kiến đã đẩy Chí Phèo vào bi kịch thứ hai của cuộc đời.


Nếu như muốn tìm hiểu về bi kịch bị cự tuyệt, ta không thể không tìm hiểu về Thị Nở. Thị là một người xấu, nghèo, vô duyên, lại có mả hủi. Nhiều người đã nhận xét rằng Nam Cao đã xây dựng một hàng rào dây thép và rắc vôi xung quanh nhân vật này. Nam Cao gọi Thị Nở là “con vật rất tởm”. Thế nhưng, con vật ấy cũng ruồng bỏ Chí. Đây chính là bi kịch. Nhiều người từng nói Nam Cao đã quá tay trong việc miêu tả Thị Nở xấu như vậy. Nhưng Thị Nở càng xấu, tính bi kịch càng tăng. Vốn dĩ Nam Cao xây dựng nhân vật Thị Nở không phải để cười cợt mà là để cảm thông.


Khi Chí Phèo hiểu những gì Thị Nở nói với mình, hắn ngây người choáng choáng. Cái cảm giác của một người đang bay bổng trong hạnh phúc tình yêu bỗng bị rơi xuống đáy sâu tuyệt vọng. Điều đó khiến Chí bị tê liệt mọi cảm giác. Qua đây, người đọc cũng phần nào thấy được sự am hiểu của Nam Cao trong việc miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật. Khi Thị Nở bỏ đi, Chí Phèo đuổi theo, gọi lại, thậm chí còn cầm tay Thị Nở. Điều này làm dâng lên trong người đọc nỗi xót xa. Chí Phèo ý thức được mình giống như một người sắp chết đuối trên dòng sông tuyệt vọng. Hắn luôn khao khát được trở về cuộc đời bằng phẳng. Và đối với Chí, Thị Nở đóng vai trò như chiếc phao cứu sinh, như một cây cầu, một cánh cửa để đưa hắn về với cộng đồng - nơi mà hắn đã từng bước chân ra đi. Nhưng phao cứu sinh đã bị cướp mất, cây cầu đã bị rút lại, cánh cửa đã bị đóng sầm trước mặt Chí. Mọi sự như đã được đặt một dấu chấm hết. Chí Phèo uống rượu nhưng càng uống càng tỉnh, càng uống càng đau và càng uống thì hơi cháo hành càng hiện ra. Hơi cháo hành đại diện cho tình thương, nó cứ hiện lên trong lòng Chí một nỗi day dứt không nguôi. Và như thể có điều gì đau đớn không chịu nổi khi nhà văn miêu tả một người đàn ông mà trước đó được biết đến như một con quỷ nay lại bơ vơ, cô độc trên con sông tuyệt vọng mà ôm lấy mặt mình khóc rưng rức.


Và từ tuyệt vọng, Chí đã cầm dao giết Bá Kiến bởi hắn biết cả bà cô và Thị Nở đều không có lỗi. Ta vẫn nhớ rằng Nam Cao đã từng nói: “Nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia xuất phát từ cuộc sống lầm than”. Vậy phải chăng “tiếng đau khổ” ấy lại chính là câu hỏi “Ai cho tao lương thiện” của Chí Phèo. Câu hỏi ấy là câu hỏi mang tính thời đại, gieo vào lòng người biết bao xót xa, đau đớn, day dứt và ám ảnh vô cùng. Cái chết của Chí Phèo là cái chết đầy bi thảm. Chí Phèo sinh ra không ai vui vẻ, khi chết đi không ai khóc thương. Đây chính là bi kịch. Và bi kịch lại chồng lên bi kịch khi Chí Phèo phải chết trên ngưỡng cửa trở thành con người lương thiện. Đây là bi kịch lớn nhất trong cuộc đời của Chí. Qua bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí, Nam Cao đã tố cáo xã hội tàn ác bất công khi không chỉ cướp đi những điều Chí Phèo có mà còn cướp đi những gì Chí Phèo muốn. Cùng với đó, ta cũng có thể thấy được khát vọng của tác giả về việc nhân dân có thể vùng dậy đấu tranh và niềm tin vào bản chất lương thiện của con người.


Với tất cả những điều trên, người đọc dù có gấp lại trang sách thì những xót xa, những day dứt về một con người khốn khổ khi bị cự tuyệt quyền làm người vẫn không thể nguôi ngoai. Bằng tài năng của mình, Nam Cao đã tạo ra một kiệt tác không chỉ trong văn học hiện thực phê phán 1930 - 1945 mà còn là kiệt tác của văn học Việt Nam hiện đại.

Bài tham khảo số 2
Bài tham khảo số 2
Bài tham khảo số 2
Bài tham khảo số 2

Bài tham khảo số 6

Khi Chí Phèo: "Ngật ngưỡng bước ra từ những trang sách của Nam Cao, thì người ta liền nhận ra rằng đây mới là hiện thân đầy đủ những gì gọi là khốn khổ, tủi nhục nhất của người dân cày ở một nước thuộc địa, bị cào xé, bị hủy hoại từ nhân tính đến nhân hình. Chị Dậu bán con, bán chó, bán sữa nhưng chị vẫn còn được là con người. Chí Phèo phải bán cả diện mạo và linh hồn của mình để trở thành con quỷ dữ" (Nguyễn Đăng Mạnh). Trong muôn vàn nỗi khốn khổ tủi nhục mà Chí đã nếm trải, không thể không chú ý đến cái bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của y. Đó cũng là chủ đề xuyên suốt tạo nên giá trị nhân đạo, giá trị hiện thực của tác phẩm Chí Phèo.


"Bi kịch là tình cảnh éo le đầy đau thương, bế tắc chưa có lối thoát mà con người phải chịu đựng". Hiểu theo nghĩa ấy, số phận Chí Phèo là một chuỗi dài bi kịch mà bi kịch sau bao giờ cũng đau đớn hơn bi kịch trước. Nhiều người khẳng định, Chí xuất hiện sau tiếng chửi, điều ấy đúng! Nhưng có lẽ chưa đủ. Nam Cao thường giới thiệu với người đọc ở giai đoạn quan trọng nhất của số phận nhân vật. Đọc những dòng đầu tiên của tác phẩm, độc giả thấy xuất hiện một nhân vật chưa nêu tên, dường như chỉ có một hành động, một cuộc độc thoại. Nhờ biện pháp nghệ thuật tăng cấp nhờ những câu văn ngắn, nhịp văn vấp tưởng chừng như các câu văn bị xé rách, bị cắt vụn mà người đọc có cảm giác được chứng kiến tận mắt sự quằn quại của Chí trong cơn đau bị cự tuyệt quyền làm người. Chí chửi trời (đấng tối cao của muôn loài), Chí chửi làng "cái cộng đồng gần gũi, thiêng liêng của con người". Nhưng không ai lên tiếng cả. Người ta không lên tiếng vì người ta không công nhận Chí là người. Cả làng Vũ Đại không ai hiểu Chí, giá có một người để chửi nhau, có lẽ Chí còn đỡ khổ. Bởi vì người ta sống dù là để chửi nhau cũng không thể chửi một mình. Chí chỉ còn biết chửi người đẻ ra y. Chửi người đẻ ra mình thì cũng là chửi chính bản thân mình. Tiếng chửi của Chí thể hiện sự vật vã, dẫu là vô ý thức, để tìm căn nguyên của đau khổ. Nhưng khốn khổ thay, Chí càng bế tắc.


Giá như ngày ấy ở làng Vũ Đại có một người lên tiếng cũng như sau đó, thị Nở "Không chỉ biết cho mà còn biết giữ". giá như. giá như. chỉ cần một lần giá như xảy ra, chỉ cần một trong hàng nghìn người làng Vũ Đại coi Chí là người thì tấn bi kịch của đời Chí sẽ không có cơ hội xảy ra. Nhưng chuyện gì đã xảy ra thì nó đã xảy ra. Nam Cao ngược dòng thời gian trở lại với quá khứ để dẫn dắt người đọc, giúp họ thấu hiểu quá trình bị cự tuyệt quyền làm người từ thấp đến cao của Chí, đồng thời ông cũng chỉ rõ căn nguyên dẫn Chí đến tình trạng ấy.


Chí là "một đứa con hoang", "một anh đi thả ống lươn một buổi sáng đã thấy hắn trần truồng và xám ngắt trong cái váy đụp để bên một lò gạch bỏ không; anh ta rước lấy và mang cho một người đàn bà góa bụa". Năm từ "một" tồn tại trong câu văn dài, dường như đã báo trước cuộc đời cô độc triền miên của Chí. Ngay từ khi cất tiếng khóc chào đời, Chí đã bị người mẹ, người đời cự tuyệt quyền làm người. Chí trở thành kẻ không cha, không mẹ, cũng may cho đời Chí, có lẽ vì lớn lên cùng những người lao động, Chí trở thành anh canh điền khỏe mạnh, biết tự trọng, "biết không thích những cái gì mà người ta khinh". Anh khát khao có "một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải". Nhưng đời đã không dành cho Chí cái mà anh có thể với trong tầm tay.


Một cơn ghen vu vơ của Bá Kiến đã đẩy Chí vào tù. Cái thế lực phong kiến cấu kết với nhà tù thực dân tước bỏ quyền tự do của Chí gần bảy - tám năm. Đấy là lần thứ hai Chí bị cự tuyệt quyền làm người. Nhà tù đã biến Chí thành con người khác. "Hắn về lần này trông khác hẳn". Quyền làm người của Chí đã bị cự tuyệt bởi nhà tù đã cướp đi của y một phần nhân hình. Ở tù ra trông hắn như một thằng "săng đá" (lính tẩy), đầu trọc lốc răng cạo trắng hớn, mặt đen lại rất "cơng cơng" - "câng câng" thì còn ra cái mặt người. "Hắn mặc quần nái đen với cái áo tây vàng, cái ngực phanh ra đầy những nét chạm trổ phượng với một ông tướng cầm chùy trông gớm chết". Đó là hình dạng của kẻ côn đồ, hung hãn chỉ biết gây gổ, đâm chém, về làng hôm trước, hôm sau. Chí đã uống rượu say nhè, điên cuồng lao vào trả thù Bá Kiến bằng cách ăn vạ, chửi đổng. Nếu như trả thù là cái quyền thông thường (oán thì trả oán, ân thì trả ân) thì Bá Kiến lại cũng đã khéo léo tước luôn quyền ấy của Chí. Không trả được thù, Chí lại từng bước trở thành tay sai cho kẻ thù, trở thành công cụ mù quáng của Bá Kiến. Hắn chỉ còn biết rạch mặt, ăn vạ để đòi tiền, để đâm chém những ai không cùng phe cánh với chính kẻ thù. Từ đó, hắn chìm trong cơn say, hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say và đánh nhau trong cơn say, "Hắn đã phá tan bao nhiêu gia đình, đạp vỡ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt bao nhiêu người lương thiện". Cứ như thế đời hắn trượt dài. Nhìn vào mặt hắn, người ta không biết hắn bao nhiêu tuổi. Đời hắn đã xem như đời bỏ đi, nhân hình bị hủy hoại, nhân tính bị xói mòn. Cả làng Vũ Đại đều tránh mặt, mỗi lần hắn qua. Ngay bản thân hắn cũng đã quên sự có mặt của hắn ở trên đời. Có thể nói trước khi gặp thị Nở, Chí đã bị cự tuyệt quyền làm người đến cao độ. Nhưng có lẽ hắn không nhận ra điều ấy hoặc nhận ra một cách vô thức, không tìm thấy lối thoát. Chí đành phải dấn thân vào cuộc đời say rượu, chửi đổng, ăn vạ, đâm thuê, chém mướn.


Người ta sẽ đỡ khổ, nếu không biết mình sống trong cái khổ. Người ta sẽ đỡ đau đớn khi bị tước quyền làm người mà không hề hay biết. Trước khi gặp thị Nở, Chí Phèo chưa nhận thức được tấn bi kịch của đời mình. Chí đâu có biết cái cách người ta sản sinh ra hắn là tước đoạt dần quyền làm người của hắn. Đúng lúc Chí dấn thân đến chỗ tột cùng của sự tha hóa, đúng lúc người ta tưởng Chí sẽ triền miên trong cuộc đời một con quỷ dữ thì Nam Cao đã phát hiện trong chiều sâu tâm linh nhân vật một đốm lửa nhỏ nhoi bừng sáng. Chí ao ước trở thành người lương thiện.


Vai trò, vị trí của thị Nở trong tác phẩm là rất quan trọng. Con người "dở hơi, xấu ma chê quỷ hờn", lại là nguồn sáng duy nhất ở làng Vũ Đại có thể chiếu sáng cõi đời tăm tối của Chí. Cơ thể đàn bà của thị không khơi gợi bản năng thú vật ở y. Tình thương của thị đã khơi dậy cái tính người mà lâu nay Chí đã đánh mất. Sau cuộc tình ngắn ngủi với thị Nở. Chí nghe được âm thanh của cuộc sống mà lâu nay hắn không để ý. Sau bao nhiêu năm, bây giờ hắn mới nghe thấy tiếng chim hót, ngoài kia vui vẻ quá, tiếng cười nói của người đi chợ, tiếng thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những âm thanh đó gợi nhớ trong Chí những ước mơ rất người đã có từ thuở xa xưa. Lần đầu tiên Chí cảm thấy buồn, rồi hắn "sợ tuổi già, đói rét, ốm đau và cô độc - cô độc còn sợ hơn đói rét và ốm đau". Bát cháo hành của thị Nở đã đánh thức trong Chí những tình cảm lành mạnh. Ăn cháo mà hắn thấy mắt ươn ướt. Chỉ cần một sự thương yêu - dù là tình yêu của kẻ dở hơi, của một người con gái quá lứa lỡ thì, có dòng giống mả hủi, cũng đủ làm sống lại bản tính người đã chết. Sức cảm hóa của tình thương thật vô biên. Nam Cao đã thực sự hóa thân vào nhân vật để cảm thông, để chia sẻ những giây phút hạnh phúc rất người của Chí. Thế là sau hơn hai mươi năm bị cự tuyệt quyền làm người. Chí Phèo đã tự tìm cho mình con đường trở lại làm người. Chí đã tạo ra chiếc cầu nối để làm hòa với thế giới người. Chiếc cầu nối ấy chính là thị Nở. Thị có thể sống chung với hắn thì làng Vũ Đại cũng có thể chấp nhận hắn. Nhưng bi kịch và đau đớn thay cho Chí, Thị Nở không thể gắn bó với Chí. Vì theo bà cô Thị, "đàn ông đã chết hết cả rồi hay sao mà phải lấy một thằng không cha, không mẹ chỉ biết rạch mặt ăn vạ".


Thế là một chút hạnh phúc nhỏ nhoi Chí đã có ở trong tay một lần nữa lại bị ý thức xã hội tước đoạt. Thị Nở là chiếc cầu vồng sau cơn mưa, Chí đau đớn nghĩ ra rằng chẳng có chiếc cầu nào đưa Chí trở về với cuộc sống con người nữa. Xã hội với quan niệm tàn nhẫn đã cự tuyệt đến cao độ quyền được sống, được làm người của Chí. Không ai cho Chí làm người lương thiện, kể cả khi Chí đòi làm người lương thiện. Chí không thể xóa được những vết sẹo đã vạch lên trên mặt mình, Chí đau xót cảm thấy: "Không được nữa rồi chỉ còn cách này". Chỉ còn cách chết trong, hơn sống đục. Chí đã nói những câu cuối cùng "đòi lương thiện" với Bá Kiến và cũng là tự nói với bản thân mình. Hành động giết Bá Kiến và tự sát của Chí cho người đọc thấy cuối cùng rồi Chí cũng trả được mối thù. Nhưng cái giá phải trả của Chí là quá đắt. Cái chết của Chí là lời tố cáo mạnh mẽ đối với xã hội vô nhân, là lời kêu cứu khẩn thiết về quyền làm con người.


Chí chết, mồm ngáp ngáp trong vũng máu, nhưng Chí không tuyệt tự. Sức sống, sức mở và giá trị điển hình của nhân vật này là vô biên. Chí không chỉ đại diện cho nỗi khổ của người nông dân thời kì nước ta còn sống trong vòng nô lệ. Chí còn đại diện cho cái phần khùng điên khuất tối mà sinh ra trên cõi đời này, ai cũng có thể, nếu không biết tự kiềm chế và nếu bị các thế lực hắc ám "nuôi dưỡng".


Bi kịch cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo do nhiều căn nguyên. Có căn nguyên từ xã hội cũng có căn nguyên từ bản thân Chí. Khi quyền con người còn bị xúc phạm thì bi kịch của đời Chí Phèo còn được nhắc đến như một nỗi đau của toàn nhân loại.

Bài tham khảo số 6
Bài tham khảo số 6
Bài tham khảo số 6
Bài tham khảo số 6

Bình luận

Có Thể Bạn Quan Tâm ?