Top 6 Bài soạn "Thuế máu" hay nhất

Bác Hồ không chỉ là một nhà chính trị, nhà ngoại giao xuất sắc mà còn là một nhà văn, nhà thơ, danh nhân văn hóa thế giới. Bác đã để lại cho kho tàng văn học dân tộc nhiều tác phẩm văn thơ có giá trị, một trong số đó không thể không kể đến những áng văn chính luận sắc bén của Bác. Sinh thời, Bác Hồ cũng tâm niệm văn chương là một thứ vũ khí dùng để chiến đấu. Những bài báo, bài văn chính chính luận của Bác luôn thể hiện rõ mục tiêu ấy. Bằng ngòi bút sắc sảo, nhạy bén của mình, Bác đã vạch trần bộ mặt giả dối, tàn ác, vô nhân đạo của bọn thực dân và tầng lớp thống trị, đồng thời bày tỏ niềm cảm thương trước số phận khốn khổ của những người dân nghèo. Dưới đây, toplist sẽ hướng dẫn các bạn soạn bài Thuế máu - một bài văn chính luận đặc sắc của Hồ chủ tịch thông qua top các bài soạn Thuế máu dưới đây.

Thuế máu - Bài 6

Câu 1: Về cách đặt tên chương, tên các phần của tác giả.


– Cái tên “thuế máu” đã vạch trần tính chất dãn man của một loại thuế đặc biệt mà thực dân Pháp đánh vào dân thuộc địa: Thuế máu. Nó gợi lên số phận thảm thương của người dân thuộc địa, bao hàm lòng căm phẫn, thái độ mỉa mai đối với tội ác ghê tớm của chính quyền thực dân.

– Trình tự và cách đặt tên các phần trong chương gợi lên quá trình lừa bịp, bóc lột đến cùng kiệt thuế máu của bọn thực dân cai trị. Từ “Chiến tranh và người bản xứ” đến “Chế độ lính tình nguyện” rồi chỉ ra “Kết qua của sự hi sinh”, các phần nối tiếp như thế … chứng tỏ tinh thần chiến đấu mạnh mẽ, sự phê phán triệt để của Nguyễn Ái Quốc.


Câu 2: Thái độ của các quan cai trị và số phận của người dân thuộc địa


a. Thái độ của các quan cai trị thực dân đối với người dân thuộc địa:


– Trước chiến tranh, họ bị xem là giống người hạ đẳng, bị đối xử và đánh đập như súc vật.

– Khi cuộc chiến tranh bùng bổ, lập tức họ được các quan cai trị tâng bốc vỗ về, được phong cho những danh hiệu cao quý (trở thành những đứa con yêu, những người bạn hiền).

→ Cho thấy thủ đoạn lừa bịp bị ổi của chính quyền thực dân để bắt đầu biên họ thành vật hi sinh.


b. Số phận thảm thương của người dân thuộc địa trong các cuộc chiến tranh phi nghĩa:


– Họ phải đột ngột xa gia đình, chối thây bỏ xác.– Lấy máu mình tưới vòng nguyệt quế của chỉ huy.– Lấy xương chạm lên gậy của các ngài thống chế.– Những người ở hậu phương phục vụ chiến tranh đến kiệt sức và chết.

→ Số phận thảm thương.


Câu 3: Thủ đoạn chiêu bài của bọn cầm quyền:


a. Các thủ đoạn, mánh khóe bắt lính của bọn thực dân:


– Tiến hành lùng ráp, vây bắt và cưỡng bức người ta phải đi lính.– Lợi dụng chuyện bắt lính mà dọa nạt, xoay xở kiếm tiền đối với những nhà giàu.– Sẵn sàng trói, xích, nhốt người ta như nhốt súc vật, sẵn sàng đàn áp dã man nếu như có chống đối.

b. Chiêu bài “tình nguyện” hay chính là những trò bịp bợm của bọn cầm quyền.


– Trong khi làm những điều trên, chính quyền thực dân vẫn rêu rao về lòng tự nguyện đầu quân của người dân thuộc địa. Lời tuyên bố trịnh trọng của phủ toàn quyền Đông Dương chỉ càng bộc lộ sự lừa bịp trơ trẽn.

– Không hề có sự tình nguyện hiến dâng xương máu như lời lẽ bịp bợm của bọn cầm quyền. Tác phẩm đã kể ra sự thực: người dân thuộc địa hoặc trốn tránh hoặc phải xì tiền ra. Thậm chí họ tìm cách tự làm cho mình nhiễm phải những bệnh nặng nhất để khỏi phải đi lính.


Câu 4: Kết quả của sự hi sinh của người dân thuộc địa trong các cuộc chiến tranh:


– Lời tuyên bố của thực dân im bặt.– Người bản xứ trở lại “giống người hèn hạ”.– Họ bị tước đoạt hết của cải, bị đánh đập vô cớ, bị đối xử như với súc vật.– Họ trở về trị trí hèn hạ ban đầu.– Bỉ ổi hơn nữa, chính quyền thực dân còn đầu độc cả một dân tộc để vơ vét cho đầy túi – cấp môn bài bán lẻ thuốc phiện cho thương binh người Pháp và vợ con của sĩ tử người Pháp.


Câu 5: Nhận xét về trình tự bố cục các phần trong chương, về nghệ thuật châm biếm, đả kích sắc sảo, tài tình của tác giả.


a. Ba phần của chương Thuế máu được bố cục theo trình tự thời gian:


Trước, trong và sau khi xảy ra cuộc chiến tranh thế giới 1914 – 1918. Với cách sắp xếp này bộ mặt giả nhân giả nghĩa trơ trẽn, bản thuế máu được phơi bày toàn diện, triệt để. Mặt khác, thân phận thảm thương của người dân nô lệ ở các xứ thuộc địa được miêu tả một cách cụ thể, sinh động.


b. Nghệ thuật châm biếm, đả kích sắc sảo, tài tình của tác giả thể hiện chủ yếu qua các phương diện sau:


– Xây dựng một hệ thống hình ảnh sinh động, giàu tình cảm và sức mạnh tố cáo.– Giọng điệu trào phúng đặc sắc.


Câu 6: Nhận xét về yếu tố biểu cảm trong đoạn trích.


– Các hình ảnh được xây dựng mang tính biểu cảm cao, làm toát lên số phận đáng thương của người dân thuộc địa và sự bỉ ổi của bọn thực dân.

– Giọng điệu của tác phẩm cũng là giọng của sự căm phẫn và niềm xót thương.

– Trong đoạn trích này, yếu tố tự sự và yếu tố biểu cảm được kết hợp chặt chẽ, hài hòa

Thuế máu - Bài 6
Thuế máu - Bài 6

Thuế máu - Bài 3

Câu 1 trang 91 SGK văn 8 tập 2:


Nhận xét cách đặt tên chương, tên các phần trong văn bản:

Cách đặt tên chương, tên các phần vô cùng hàm súc nhưng đã khái quát được nội dung chính của phần đó
Qua cách đặt tên chương, tên tác phần, ta đã phần nào hình dung được bộ mặt tráo trở, giả dối của bọn thực dân cùng số phận thảm thương của những người dân thuộc địa.


Câu 2 trang 91 SGK văn 8 tập 2:


Thái độ của các quan cai trị thực dân đối với những người dân bản địa:

- Trước chiến tranh: Xem họ là giống người hạ đẳng, là những người da đen bẩn thỉu, đối xử đánh đập họ như súc vật, coi họ là nô lệ

- Khi chiến tranh xảy ra: Tâng bốc, vỗ về họ là “con yêu”, “bạn hiền”, “những chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do”, coi họ là những anh hùng cứu quốc

- Số phận thảm thương của những người dân thuộc địa:


  • Bị vây bắt, cưỡng bức, trói xích, đánh đập
  • Bị buộc phải đột ngột xa lìa vợ con, quê hương
  • Phơi thây trên các chiến trường châu Âu, bỏ xác tại những miền hoang vu
  • Bị biến thành vật hi sinh cho lợi ích, danh dự của chính quyền thực dân
  • Bị lừa dối, áp bức, bị đẩy vào tình cảnh túng quẫn

Câu 3 trang 91 SGK văn 8 tập 2:


Các thủ đoạn, mánh khóe bắt lính của bọn thực dân:


  • Tiến hành lùng ráp, vây bắt, cưỡng bức người ta phải đi lín
  • Dọa nạt, xoay xở kiếm tiền đối với những nhà giàu
  • Sẵn sáng trói, xích, nhốt người ta như súc vật, đánh đập dã man nếu như có chống đối
  • Người dân thuộc địa không “tình nguyện” hiến dâng xương máu như lời lẽ bịp bợm của bọn cầm quyền:
  • Người dân thuộc địa hoặc trốn tránh hoặc xì tiền ra
  • Họ tự tìm cách làm cho mình bị nhiễm những căn bệnh nặng nhất để không phải đi lính.

Câu 4 trang 92 SGK văn 8 tập 2:


Kết quả sự hi sinh của người dân thuộc địa:


  • Bị tước đoạt hết của cải, bị đánh đập, đối xử thô bỉ như đối với súc vật
  • Trở về vị trí hèn hạ ban đầu: giống người hạ đẳng, bẩn thỉu
  • Bị lừa dối, bị áp bức, bị đẩy vào tình cảnh cùng quẫn
  • Là nạn nhân của chính sách cai trị tàn bạo, nham hiểm của thực dân Pháp

=> Cách đối xử của chính quyền thực dân vô cùng tráo trở, giả dối, tàn nhẫn sau khi đã bóc lột hết “thuế máu” của họ.


Câu 5 trang 92 SGK văn 8 tập 2:


- Trình tự bố cục các phần trong chương: theo thời gian: trước, trong và sau chiến tranh

- Nghệ thuật châm biếm, đả kích sắc sảo, tài tình của tác giả:

- Đưa vào những tư liệu phong phú, xác thực, hình ảnh giàu giá trị biểu cảm
- Giọng điệu châm biếm, mỉa mai, tố cáo quyết liệt bản chất tàn nhẫn, giả dối của chính quyền thực dân, đồng thời thương xót cho số phận bi thảm của người dân thuộc địa.


Câu 6 trang 92 SGK văn 8 tập 2:


Nhận xét yếu tố biểu cảm trong đoạn trích:


- Thể hiện trong giọng điệu mỉa mai, châm biếm, đả kích chính quyền thực dân
- Thái độ căm phẫn trước sự tàn nhẫn, độc ác của kẻ thù và thương xót cho những người dân thuộc địa
=> Làm tăng sức tố cáo, bài viết trở nên hấp dẫn, chân thực hơn

Thuế máu - Bài 3
Thuế máu - Bài 3

Thuế máu - Bài 5

Bố cục:


- Phần 1: Từ đầu đến "đất nước mình nữa": Chiến tranh và người bản xứ.

- Phần 2: Tiếp đến "không ngần ngại": Chế độ lính tình nguyện.

- Phần 3: Còn lại: Kết quả của sự hi sinh.


Hướng dẫn soạn bài:


Câu 1 (trang 91 sgk Văn 8 Tập 2): Nhận xét về cách đặt tên các chương, các phần trong văn bản:


- Văn bản được đặt tên là "Thuế máu" trùng với tên chương 1.

- Cách đặt tên chương đã vạch trần tính chất dã man của một loại thuế đặc biệt mà thực dân Pháp đánh vào dân thuộc địa: Thuế máu.

- Tên các phần trong văn bản cũng góp phần tố cáo bộ mặt thực dân Pháp, làm rõ tính chất dã man của thuế máu:

+ Phần 1: Chỉ rõ sự giả nhân giả nghĩa của thực dân Pháp bắt dân thuộc địa làm bia đỡ đạn và chết cho bọn thực dân.

+ Phần 2: Tố cáo cái gọi là "chế độ lính tình nguyện" mà những người thuộc địa phải thực hiện.

+ Phần 3: Nói về kết quả của sự hi sinh, vạch trần những lời lẽ lừa bịp, giả nhân giả nghĩa của bọn thống trị.


Câu 2 (trang 91 sgk Văn 8 Tập 2):


- Thái độ của các quan cai trị thực dân đối với người dân thuộc địa: Trước khi có chiến tranh và Khi có chiến tranh xảy ra

  • Trước khi có chiến tranh: Người dân thuộc địa chỉ là những kẻ bẩn thỉu, giỏi lắm chỉ là kéo xe và ăn đòn
  • Khi chiến tranh xảy ra: Biến thành những đứa con yêu, những người bạn hiền, những chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do.

- Số phận thảm thương của những người dân thuộc địa trong các cuộc chiến tranh phi nghĩa được miêu tả: phải lìa bỏ quê hương, phơi thây trên các bãi chiến trường, chết chìm trên biển, lấy máu mình tưới lên những vòng nguyệt quế của các cấp chỉ huy, khạc ra từng miếng phổi,..


Câu 3 (trang 91 sgk Văn 8 Tập 2):


- Các thủ đoạn, mánh khóe bắt lính của bọn thực dân:


+ Bắt giam, cưỡng bức phải đi lính

+ Lợi dụng việc bắt lính để tham nhũng

+ Bắt con nhà nghèo, tống tiền con nhà giàu.

+ Rêu rao là người dân tình nguyện "tấp nập đầu quân"

+ Xích tay điệu về tỉnh lị, nhốt và áp tải xuống tàu.

- Người dân thuộc địa không hề tình nguyện hiến dâng xương máu như lời lẽ của bọn cầm quyền. Họ tìm mọi cách để không bị bắt đi lính: tự làm cho mình nhiễm phải những bệnh nặng nhất, thông thường là bệnh đau mắt toét chảy mủ bằng cách xát vào mắt nhiều thứ chất độc từ vôi sống đến mủ bệnh lậu; họ biểu tình, bạo động.


Câu 4 (trang 92 sgk Văn 8 Tập 2):


- Kết quả sự hi sinh của người dân thuộc địa trong các cuộc chiến tranh:


+ Họ lại trở về giống người bẩn thỉu như trước

+ Bị lột hết tất cả của cải, kể cả những thứ họ tự mua

+ Kiểm soát và đánh đập họ vô cớ

+ Cho họ ăn như cho lợn ăn, xếp họ như xếp lợn dưới hầm tàu ẩm ướt thiếu ánh sáng, thiếu không khí.

+ Nói họ: cút đi.

- Nhận xét cách đối xử của chính quyền thực dân đối với họ sau khi đã bóc lột thuế máu của họ: Đây là sự đối xử vô cùng dã man, chúng không 1 lời cảm ơn những người đã đem tính mạng ra chiến đấu cho chúng mà chúng còn đuổi, bóc lột, đánh đập họ.


Câu 5 (trang 92 sgk Văn 8 Tập 2):


- Trình tự bố cục các phần trong chương: theo trình tự thời gian, trước khi chiến tranh xảy ra chúng coi người bản xứ là những tên da đen bẩn thỉu, chỉ biết đánh xe; khi chiến tranh xảy ra chúng lừa bịp họ, tâng bốc họ là những người con yêu, bạn hiền, chiến sĩ bảo vệ công lí; khi chiến tranh kết thúc, đánh đập bóc lột họ. Qua trình tự đó chúng ta thấy được bộ mặt trơ tráo, trắng trợn của thực dân.

- Nghệ thuật châm biếm, đả kích sắc sảo, tài tình của tác giả:

+ Giọng văn châm biếm (chế độ lính tình nguyện được tiến hành như thế này.. chúng tóm những người khỏe mạnh,… đi lính tình nguyện hoặc xì tiền ra,..), những câu hỏi mang tính chất khẳng định (Nếu quả thật…; Những cuộc biểu tình..)

+ Các hình ảnh so sánh mỉa mai để vạch trần sự lừa dối, bóc lột của bọn thực dân.


Câu 6 (trang 92 sgk Văn 8 Tập 2): Đoạn trích giàu yếu tố biểu cảm. Yếu tố biểu cảm thể hiện trong:


- Thái độ mỉa mai, châm biếm, đả kích kẻ thù: chiến tranh vui tươi, quan phụ mẫu nhân hậu,..

- Những từ ngữ có tính khẩu ngữ: đùng một cái, ấy thế mà,..

- Thái độ thắng thắn, chất vấn: Tại sao có cảnh tốp bị xích tay,..

- Sự tin tưởng: Chúng tôi chắc rằng…

Thuế máu - Bài 5
Thuế máu - Bài 5

Thuế máu - Bài 2

Câu 1: Về cách đặt tên chương, tên các phần của tác giả.


- Cái tên "thuế máu" đã vạch trần tính chất dãn man của một loại thuế đặc biệt mà thực dân Pháp đánh vào dân thuộc địa: Thuế máu. Nó gợi lên số phận thảm thương của người dân thuộc địa, bao hàm lòng căm phẫn, thái độ mỉa mai đối với tội ác ghê tớm của chính quyền thực dân.

- Trình tự và cách đặt tên các phần trong chương gợi lên quá trình lừa bịp, bóc lột đến cùng kiệt thuế máu của bọn thực dân cai trị. Từ "Chiến tranh và người bản xứ" đến "Chế độ lính tình nguyện" rồi chỉ ra "Kết qua của sự hi sinh", các phần nối tiếp như thế ... chứng tỏ tinh thần chiến đấu mạnh mẽ, sự phê phán triệt để của Nguyễn Ái Quốc.


Câu 2:


a) Thái độ của các quan cai trị thực dân đối với người dân thuộc địa:


- Trước chiến tranh, họ bị xem là giống người hạ đẳng, bị đối xử và đánh đập như súc vật.

- Khi cuộc chiến tranh bùng bổ, lập tức họ được các quan cai trị tâng bốc vỗ về, được phong cho những danh hiệu cao quý (trở thành những đứa con yêu, những người bạn hiền).

→ Cho thấy thủ đoạn lừa bịp bị ổi của chính quyền thực dân để bắt đầu biên họ thành vật hi sinh.


b) Số phận thảm thương của người dân thuộc địa trong các cuộc chiến tranh phi nghĩa:


- Họ phải đột ngột xa gia đình, chối thây bỏ xác.

- Lấy máu mình tưới vòng nguyệt quế của chỉ huy.

- Lấy xương chạm lên gậy của các ngài thống chế.

- Những người ở hậu phương phục vụ chiến tranh đến kiệt sức và chết.

→ Số phận thảm thương.


Câu 3:


a. Các thủ đoạn, mánh khóe bắt lính của bọn thực dân:


- Tiến hành lùng ráp, vây bắt và cưỡng bức người ta phải đi lính.

- Lợi dụng chuyện bắt lính mà dọa nạt, xoay xở kiếm tiền đối với những nhà giàu.

- Sẵn sàng trói, xích, nhốt người ta như nhốt súc vật, sẵn sàng đàn áp dã man nếu như có chống đối.


b. Chiêu bài "tình nguyện" hay chính là những trò bịp bợm của bọn cầm quyền.


- Trong khi làm những điều trên, chính quyền thực dân vẫn rêu rao về lòng tự nguyện đầu quân của người dân thuộc địa. Lời tuyên bố trịnh trọng của phủ toàn quyền Đông Dương chỉ càng bộc lộ sự lừa bịp trơ trẽn.

- Không hề có sự tình nguyện hiến dâng xương máu như lời lẽ bịp bợm của bọn cầm quyền. Tác phẩm đã kể ra sự thực: người dân thuộc địa hoặc trốn tránh hoặc phải xì tiền ra. Thậm chí họ tìm cách tự làm cho mình nhiễm phải những bệnh nặng nhất để khỏi phải đi lính.


Câu 4: Kết quả của sự hi sinh của người dân thuộc địa trong các cuộc chiến tranh:


- Lời tuyên bố của thực dân im bặt.

- Người bản xứ trở lại "giống người hèn hạ".

- Họ bị tước đoạt hết của cải, bị đánh đập vô cớ, bị đối xử như với súc vật.

- Họ trở về trị trí hèn hạ ban đầu.

- Bỉ ổi hơn nữa, chính quyền thực dân còn đầu độc cả một dân tộc để vơ vét cho đầy túi – cấp môn bài bán lẻ thuốc phiện cho thương binh người Pháp và vợ con của sĩ tử người Pháp.


Câu 5: Nhận xét về trình tự bố cục các phần trong chương, về nghệ thuật châm biếm, đả kích sắc sảo, tài tình của tác giả.


a. Ba phần của chương Thuế máu được bố cục theo trình tự thời gian: trước, trong và sau khi xảy ra cuộc chiến tranh thế giới 1914 – 1918. Với cách sắp xếp này bộ mặt giả nhân giả nghĩa trơ trẽn, bản thuế máu được phơi bày toàn diện, triệt để. Mặt khác, thân phận thảm thương của người dân nô lệ ở các xứ thuộc địa được miêu tả một cách cụ thể, sinh động.

b. Nghệ thuật châm biếm, đả kích sắc sảo, tài tình của tác giả thể hiện chủ yếu qua các phương diện sau:

- Xây dựng một hệ thống hình ảnh sinh động, giàu tình cảm và sức mạnh tố cáo.

- Giọng điệu trào phúng đặc sắc.


Câu 6: Nhận xét về yếu tố biểu cảm trong đoạn trích.


- Các hình ảnh được xây dựng mang tính biểu cảm cao, làm toát lên số phận đáng thương của người dân thuộc địa và sự bỉ ổi của bọn thực dân.

- Giọng điệu của tác phẩm cũng là giọng của sự căm phẫn và niềm xót thương.

- Trong đoạn trích này, yếu tố tự sự và yếu tố biểu cảm được kết hợp chặt chẽ, hài hoà.

Thuế máu - Bài 2
Thuế máu - Bài 2

Thuế máu - Bài 4

Đọc – hiểu văn bản:


Câu 1. Về cách đặt tên chương, tên các phần của tác giả.


- Người dân thuộc địa phải gánh chịu nhiều thứ thuế bất công vô lí. Song có lẽ một trong các thứ thuế tàn nhẫn, phũ phàng nhất là bị bóc lộ xương máu, mạng sống. ‘Thuế Máu’ là cách gọi của Nguyễn Ái Quốc. Cái tên ‘thuế máu’ gợi lên số phận thảm thương của người dân thuộc địa, bao hàm lòng căm phẫn, thái độ mỉa mai đối với tội ác ghê tởm của chính quyền thực dân. Trình tự và cách đặt tên các phần trong chương gợi lên quá trình lừa bịp, bóc lột đến cùng kiệt thuế máu của bọn thực dân cai trị. Từ ‘Chiến tranh và người bản xứ’ đến ‘Chế độ lính tình nguyện’ rồi chỉ ra ‘Kết qua của sự hi sinh’, các phần nối tiếp như thế… chứng tỏ tinh thần chiến đấu mạnh mẽ, sự phê phán triệt để của Nguyễn Ái Quốc.


Câu 2.


a. So sánh thái độ của các quan cai trị thực dân đối với người dân thuộc địa ở thời gian trước với khi cuộc chiến xảy ra.


- Trước chiến tranh, họ bị xem là giống người hạ đẳng, bị đối xử và đánh đập như súc vật.

- Khi cuộc chiến tranh bùng bổ, lập tức họ được các quan cai trị tâng bốc vỗ về, được phong cho những danh hiệu cao quý. Điều ấy nói lên thủ đoạn lừa bịp bị ổi của chính quyền thực dân để bắt đầu biên họ thành vật hi sinh (các từ ngữ, các hình ảnh trong lời lẽ của bọn thực dân cầm quyền được Nguyễn Ái Quốc nhắc lại với dụng ý, giọng điệu trào phúng).


b. Số phận thảm thương của người dân thuộc địa trong các cuộc chiến tranh phi nghĩa.


- Phải đột ngột xa lìa gia đình, quê hương vì mục đích vô nghĩa, đem mạng sống mà đánh đổi lấy những vinh dự hão huyền.

- Bị biến thành vật hi sinh cho lợi ích, danh dự của những kẻ cầm quyền. Tác giả đã kể ra bao cái chết thảm thương của người lính thuộc địa trên các bãi chiến trường ác liệt, xa xôi. Giọng điệu đoạn này vừa giễu cợt vừa thật xót xa.

- Tuy không trực tiếp ra mặt trận nhưng rất nhiều người dân thuộc địa làm công việc chế tạo vũ khí, phục vụ chiến tranh ở hậu phương cũng chịu bệnh tật, cái chết đau đớn.

- Tác giả đã nêu ra một con số đáng chú ý về số người bản xứ đã bỏ mình trên đất Pháp trong mấy năm chiến tranh thế giới thứ nhất.


Câu 3. Các thủ đoạn, mánh khóe bắt lính của bọn thực dân? Người dân thuộc địa có thực ‘tình nguyện’ hiến dâng xương máy như lời lẽ bịp bợm của bọn cầm quyền không ?


- Tiến hành lùng ráp, vây bắt và cưỡng bức người ta phải đi lính.

- Lợi dụng chuyện bắt lính mà dọa nạt, xoay xở kiếm tiền đối với những nhà giàu.

- Sẵn sàng trói, xích, nhốt người ta như nhốt súc vật, sẵn sàng đàn áp dã man nếu như có chống đối.

- Trong khi làm những điều trên, chính quyền thực dân vẫn rêu rao về lòng tự nguyện đầu quân của người dân thuộc địa. Lời tuyên bố trịnh trọng của phủ toàn quyền Đông Dương chỉ càng bộc lộ sự lừa bịp trơ trẽn.

- Không hề có sự tình nguyện hiến dâng xương máu như lời lẽ bịp bợm của bọn cầm quyền.

Tác phẩm đã kể ra sự thực: người dân thuộc địa hoặc trốn tránh hoặc phải xì tiền ra. Thậm chí họ tìm cách tự làm cho mình nhiễm phải những bệnh nặng nhất để khỏi phải đi lính.


Câu 4. Kết quả của sự hi sinh của người dân thuộc địa trong các cuộc chiến tranh? Cách đối xử của chính quyền thực dân đối với họ sau khi bóc lột hết ‘thuế máu’?


- Khi chiến tranh chấm dứt thì các lời tuyên bố ‘tình tứ’ của các ngài cầm quyền cũng tự dưng im bặt. Những người từng hi sinh bao xương máu, từng được tâng bốc trước đây mặc nhiên trở lại ‘giống người hèn hạ’.

- Đối với người dân thuộc địa, sự hi sinh chẳng hề mang lại lợi ích gì cho họ bởi chế độ bản xứ không hề biết đến chính nghĩa và công lí.

- Bộ mặt tráo trở, tàn nhẫn của chính quyền thực dân lại được bộc lộ trắng trợn khi tước đoạt hết của cải mà người lính thuộc địa mua sắm được, đánh đập họ vô cớ, đối xử với họ thô bi như đối với súc vật. Người dân thuộc địa lại trở về với vị trí hèn hạ ban đầu sau khi bị bốc lột trắng trợn hết thuế máu.


Câu 5. Nhận xét về trình tự bố cục các phần trong chương, về nghệ thuật châm biếm, đả kích sắc sảo, tài tình của tác giả.


a. Ba phần của chương Thuế máu được bố cục theo trình tự thời gian: trước, trong và sau khi xảy ra cuộc chiến tranh thế giới 1914 – 1918. Với cách sắp xếp này bộ mặt giả nhân giả nghĩa trơ trẽn, bản thuế máu được phơi bày toàn diện, triệt để. Mặt khác, thân phận thảm thương của người dân nô lệ ở các xứ thuộc địa được miêu tả một cách cụ thể, sinh động.


b. Nghệ thuật châm biếm, đả kích sắc sảo, tài tình của tác giả thể hiện chủ yếu qua các phương diện sau:

- Xây dựng một hệ thống hình ảnh sinh động, giàu tình cảm và sức mạnh tố cáo.

+ Trước hết, những hình ảnh được xây dưng đều có tính xác thực phản ánh chính xác tình trạng thực tế. Bản chất hình ảnh ấy đã mang tính lí lẽ không thể chối cãi.

+ Vừa xác thực, các hình ảnh trong tác phẩm vừa manh tính chất châm biếm, trào phúc sắc sảo và xót xa. Nhiều hình ảnh, nhất là ở phần Chiến tranh và người bản xứ mang đậm cảm hứng mỉa mai chua chát, cay đắng cho số phận thảm thương của người lính thuộc địa.

+ Gắn với hình ảnh, ngôn từ của tác phẩm cũng mang màu sắc trào phúng, châm biếm: ‘con yêu’, ‘bạn hiền’, ‘chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do’, ‘lấy máu mình tưới những vòng nguyệt quế’, ‘đem xương mình chạm nên những chiếc gậy’, ‘vật liệu biết nói’.


- Giọng điệu trào phúng đặc sắc:

+ Giọng điệu giễu cợt, mỉa mai (chú ý đùng một cái’, ‘ấy thế mà’).

+ Nhắc lại những mĩ từ, danh hiệu hào nhoáng mà chính quyền thực dân khoác cho người lính thuộc địa để đả kích bản thân lừa bịp trơ trẽn.

+ Sử dụng rất thành công giọng điệu giễu nhại, nghệ thuật phản bác (chú ý đoạn cuối phần II). Dùng liên tiếp các câu hỏi để nêu lên các sự thực đập lại lời lẽ bịp bợm của bọn cầm quyền.


Câu 6. Gợi ý nhận xét về yếu tố tự sự và yếu tố biểu cảm trong đoạn trích.


- Tác giả sử dụng có hiệu quả biện pháp nghệ thuật kể để nêu ra những câu chuyện, những bằng chứng rõ ràng. Các câu chuyện, các sự kiện, con số được nêu ra đều lấy từ thực tế sinh động nên khôi chối cãi. Để tăng tính xác thực, khi cần còn dẫn ra ý kiến của người khác hay lời lẽ của chính đối tượng đã kích.

- Các hình ảnh được xây dựng mang tính biểu tượng cao. Từ đó toát lên số phận đáng thương của người dân thuộc địa, bộ mặt giả nhân giả nghĩa bỉ ổi của chính quyền thực dân. Từ hệ thống hình ảnh và giọng điệu của tác phẩm, người nhận ra một lòng căm phẫn kẻ thống trị tàn ác, niềm xót xa thương cảm cho thân phận người nô lệ bị lợi dụng, bị bóc lột ‘thuế máu’.

- Trong đoạn trích, yếu tố tự sự và yếu tố biểu cảm được kết hợp chặt chẽ, hài hòa. Thực ra, trong bản thân yếu tố này đã bao hàm, đã chứa đựng yếu tố kia và chúng được thể hiện qua nhau.

Thuế máu - Bài 4
Thuế máu - Bài 4

Thuế máu - Bài 1

Câu 1 (trang 91 sgk Ngữ văn 8 tập 2):


- Văn bản được đặt cùng tên với tên chương I trong bài nhằm:


+ Vạch trần, tố cáo bản chất dã man của bọn thực dân Pháp khi bóc lột, đàn áp người dân bằng "Thuế máu"

+ Tình cảnh khốn cùng, số phận thảm thương của người dân thuộc địa.

+ Thái độ căm phẫn, mỉa mai, châm biếm của tác giả trước chính sách tàn độc của bọn thực dân.


- Cách đặt tên các phần tương ứng và làm rõ tính dã man, bản chất "hút máu" của bọn thực dân:


+ Phần 1: Tố cáo sự giả nhân, giả nghĩa của thực dân khi bắt người dân thuộc địa làm nô lệ, bia đỡ đạn.

+ Phần 2: Vạch trần sự thật về chế độ lính tình nguyện mà thực dân đề ra.

+ Phần 3: Kết quả của sự hi sinh từ đó tố cáo những lời lẽ lừa bịp, giả nhân nghĩa của bọn thống trị.

→ Cả ba phần nêu lên bản chất thâm độc, tráo trở của bọn thực dân trên nước thuộc địa.


Câu 2 ( trang 91 sgk Ngữ văn 8 tập 2):


- Thái độ cai trị của bọn thực dân trước và khi xảy ra chiến tranh: thay đổi đột ngột khiến người ta nghi ngờ về độ trung thực.


+ Trước chiến tranh: Người dân chỉ là những tên "An-nam-mít bẩn thỉu", chỉ biết kéo xe tay, ăn đòn của quan cai trị.

+ Khi chiến tranh nổ ra: họ thành " con yêu", người "bạn hiền" của quan phụ mẫu, quan toàn quyền lớn bé.

- Số phận thảm thương của người dân thuộc địa.


+ Trả giá đắt cho cái vinh dự "chiến sĩ bảo vệ công lý và tự do".

+ Đột ngột lìa xa vợ con, rời bỏ mảnh ruộng, phơi thây trên các chiến trường châu Âu.

+ Bỏ xác ở những miền hoang vu.

+ Lấy máu mình tưới cho những vòng nguyệt quế .

+ Tám vạn người chết.

+ Người ở hậu phương vắt kiệt sức mình trong các xưởng thuốc súng, nhiễm khí độc, hít phải hơi ngạt.

→ Thân phận của người dân thuộc địa: họ phải bỏ mạng ở chiến trường, họ bị lợi dụng, bị lừa dối bằng giọng điệu bịp bợm xảo trá của bọn thực dân.


Câu 3 (trang 91 sgk Ngữ văn 8 tập 2):


- Thủ đoạn, mánh khóe bắt lính của bọn thực dân:


+ Tiến hành các cuộc lùng ráp lớn về nhân lực trên toàn cõi Đông Dương.

+ Lợi dụng việc bắt lính để nhũng lạm- tham nhũng.

+ Bắt những người nghèo khổ, khỏe mạnh và tống tiền con nhà giàu.

+ Bọn thực dân dựng lên màn kịch rêu rao về chế độ " tình nguyện" đi lính.

→ Bọn thực dân với những thủ đoạn tàn ác, lừa gạt, sự bịp bợm đến trơ trẽn của toàn quyền Đông Dương.


- Người dân thuộc địa không tình nguyện như lời lẽ bọn cầm quyền:


+ Họ tự tìm cách làm cho mình bị nhiễm những căn bệnh nặng nhất để không phải đi lính.

+ Họ bị xiềng xích, bắt bớ, tống giam và bị áp tải xuống tàu.

→ Thân phận hẩm hiu, số phận cùng cực của người dân thuộc địa.


Câu 4 ( trang 92 sgk Ngữ văn 8 tập 2):


Kết quả hi sinh của người dân thuộc địa trong các cuộc chiến tranh là vô nghĩa.

+ Họ trở về "giống người bẩn thỉu" như trước khi xảy ra chiến tranh.

+ Họ bị cướp hết tài sản, của cải, bị đánh đạp, bị đối xử như súc vật, bị đuổi đi một cách trắng trợn.

+ Họ phải bỏ tính mạng của mình, nhưng không được hưởng chút công lý và chính nghĩa nào cả.

→ Sự đối xử của bọn thực dân dã man, nhẫn tâm. Chúng bóc lột xương máu, chúng sẵn sàng tráo trở, lật lọng sự hứa hẹn trước đó.


Câu 5 ( trang 92 sgk Ngữ văn 8 tập 2):


Bố cục của các phần trong chương được kết cấu theo:


+ Trình tự thời gian: trước, trong, và sau cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất.

+ Các chương tập trung tố cáo tội ác của việc bắt lính phục vị chiến tranh, tố cáo sự lừa bịp trơ trẽn, dã man của bọn thống trị.

+ Làm nổi bật sự mâu thuẫn, dối trá của bọn thực dân giữa lời nói và việc làm.

+ Thảm cảnh chết oan thê thảm của người dân "bản xứ".

- Nghệ thuật: châm biếm, đả kích sắc xảo của tác giả thể hiện chủ yếu qua:

+ Đưa vào những hình ảnh chân thực phản ánh chính xác thực trạng, có sức tố cáo mạnh mẽ.

+ Ngôn từ của tác giả sâu sắc khi châm biếm, đả kích chính sách và giọng điệu lừa bịp của bọn thực dân: ngôn ngữ có sức gợi hình.

+ Sự đồng cảm trước tình cảm khốn cùng thảm thương của người dân thuộc địa.

+ Dùng câu hỏi tu từ với mục đích đập tan luận điệu xảo trá đến trơ trẽn của chính quyền Đông Dương.

→ Nghệ thuật văn chính luận của Nguyễn Ái Quốc ngắn gọn, xúc tích, bằng chứng thuyết phục, đa dạng về cách nói. Văn chính luận mà hàm chứa tình cảm, giàu hình ảnh.


Câu 6 ( trang 92 sgk Ngữ văn 8 tập 2):


Yếu tố biểu cảm thể hiện trong thái độ mỉa mai, châm biếm, đả kích, kẻ thù:


+ "chiến tranh tươi vui"

+ " Chứng kiến cảnh kì diệu của trò biểu diễn khoa học về phóng ngư lôi"

+ "Những miền hoang vu mộng mơ"

+ "quan phụ mẫu nhân hậu"


- Biểu cảm khi thể hiện trong giọng điệu căm phẫn trước tội ác của kẻ thù, và cảm thông, đau xót trước nỗi đau của người dân thuộc địa:


→ Yếu tố biểu cảm làm cho bài văn tăng sức tố cáo mạnh mẽ, thuyết phục hơn.

Thuế máu - Bài 1
Thuế máu - Bài 1

Bình luận

Có Thể Bạn Quan Tâm ?