Nhắc đến Mai Văn Phấn là nhắc đến một nhà thơ có duyên với thiên nhiên, hòa đồng, đằm sâu trong thiên nhiên. Ông còn được coi là nhà thơ của sinh thái, giàu sắc màu vũ trụ. Bài thơ “Con chào mào” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của Mai Văn Phấn thể hiện đầy đủ tinh thần này. Với thể thơ tự do, cấu tứ thơ lạ, xây dựng hình tượng con chào mào là trung tâm của bài thơ, tác giả giúp người đọc cảm nhận bức tranh thiên nhiên trong sáng, khoáng đạt, thanh bình qua vẻ đẹp của con chim chào mào và tiếng chim trong trẻo. Từ đó, bài thơ mở ra một quan niệm mới mẻ về tình yêu thiên nhiên, đó là thái độ tôn trọng, qua cách ứng xử của con người với thiên nhiên. Dưới đây là những Bài văn cảm nhận bài thơ Con chào mào (Mai Văn Phấn) - Ngữ văn 6 sách KNTT hay nhất mà Toplist đã sưu tầm và tổng hợp.
Bài tham khảo số 5
Nhắc đến Mai Văn Phấn là nhắc đến một nhà thơ có duyên với thiên nhiên, hòa đồng, đằm sâu trong thiên nhiên. Ông còn được coi là nhà thơ của sinh thái, giàu sắc màu vũ trụ. Bài thơ “Con chào mào” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của Mai Văn Phấn thể hiện đầy đủ tinh thần này. Với thể thơ tự do, cấu tứ thơ lạ, xây dựng hình tượng con chào mào là trung tâm của bài thơ, tác giả giúp người đọc cảm nhận bức tranh thiên nhiên trong sáng, khoáng đạt, thanh bình qua vẻ đẹp của con chim chào mào và tiếng chim trong trẻo. Từ đó, bài thơ mở ra một quan niệm mới mẻ về tình yêu thiên nhiên, đó là thái độ tôn trọng, qua cách ứng xử của con người với thiên nhiên.
Mở đầu bài thơ, thi sĩ khắc họa hình tượng con chim chào mào với lối đặc tả gần, khá kĩ:
Con chào mào đốm trắng mũ đỏ
Hót trên cây cao chót vót
triu… uýt… huýt… tu hìu…
Chỉ bằng vài nét vẽ, hình ảnh chú chim chào mào hiện lên vô cùng chân thực, người đọc như đang được nhìn ngắm hình tướng của nó trong một cự li gần nhất. Trước mắt người đọc là hình ảnh chú chim chào mào với những chiếc lông có đốm trắng, cái mào màu đỏ rực đang say sưa hót líu lo trên cành cao. Tác giả đồng thời đặt định vị trí “Hót trên cây cao chót vót” của “nhân vật” này. Hai câu thơ đã mở ra một khung cảnh thanh bình, có thể đó là ban mai trong suốt hoặc hoàng hôn ráng vàng, thanh tịnh. Nó mang đến cho bạn đọc cảm giác yên bình về một khoảng không thiên nhiên thanh sạch, mướt xanh.
Câu thơ thứ ba của khổ thơ này vang lên như một bản ký xướng âm giọng chim đầy thú vị: “triu… uýt… huýt… tu hìu…”. Mỗi lần đọc câu thơ ta như nghe được trực tiếp chuỗi tiếng hót của con chim. Ở đây, tác giả đã ghi lại từng nốt nhạc để sắp đặt trọn vẹn một câu thơ mang giọng chim. Mỗi “nốt nhạc” đều tạo nên giai điệu có độ rung vang khác thường: “triu… uýt… huýt… tu hìu…”. Đây không chỉ đơn thuần là tiếng hót huyền diệu của con chào mào, mà là tiếng vọng của thiên nhiên trong khoảng không kì vĩ, bí ẩn. Sự vang vọng của câu thơ thứ ba này được phát ra từ hình ảnh “đốm trắng mũ đỏ” và “cây cao chót vót” ở trên. Ba câu thơ đầu tạo một bức tranh tràn đầy âm thanh, ánh sáng. Với hình ảnh thơ chân thực, sống động, ngôn từ cô đọng, hàm súc (bút pháp tả thực), nhà thơ phác họa hình tượng chào mào tuyệt đẹp, là biểu tượng của thiên nhiên trong trẻo, sống động đến vô cùng.
Khi nhìn thấy hình ảnh con chim chào mào, nhà thơ có cảm xúc và suy nghĩ ra sao ? Từ khổ thơ thứ hai mở ra những suy nghĩ của nhà thơ trong không gian tâm tưởng:
Tôi vội vẽ chiếc lồng trong ý nghĩ
Sợ chim bay đi
Vừa vẽ xong nó cất cánh
Tôi ôm khung nắng, khung gió
Nhành cây xanh hối hả đuổi theo
Bất chợt, khi nhìn thấy con chim, cùng là lúc trong tâm hồn thơ Mai Văn Phấn có những khoảnh khắc ý nghĩ rất đời thường mà cũng rất thơ: “Tôi vội vẽ chiếc lồng trong ý nghĩ/ Sợ chim bay đi”. Nhà thơ đã nghĩ phải nhanh chóng vẽ chiếc lồng cho con chào mào. Có người đặt ra vấn đề “chiếc lồng” của ông được đan bện bằng tưởng tượng với mục đích kìm giữ, nhốt “con chào mào” kia chăng? Không! Chiếc lồng của nhà thơ tượng trưng cho khát vọng sở hữu thiên nhiên, phô bầy cái đẹp của riêng ông. Và nỗi “sợ chim bay đi” chính là nỗi lo cái đẹp biến/ vuột mất. Câu thơ này cho thấy, tác giả khao khát mở rộng “chiếc lồng” của ông thành không gian bất tận, muốn để tâm hồn mình bao trùm cả thiên nhiên rộng lớn cho con chào mào khoe sắc và cất tiếng tự do.
Và trong khoảnh khắc “Vừa vẽ xong nó cất cánh” thì dường như nhà thơ và con chào mào hóa thân vào nhau. “Tôi ôm khung nắng, khung gió/ Nhành cây xanh hối hả đuổi theo”. Đây là cuộc đuổi bắt ngoạn mục làm hiển lộ vẻ đẹp của con chim và tâm thế của tác giả. Cái “khung nắng, khung gió” và cả “nhành cây xanh” kia chính là chiếc lồng mà nhà thơ đã vẽ ra trong ý nghĩ ở khổ thơ thứ hai. Hành động “đuổi theo” con chim lúc này cho thấy vẻ đẹp tâm hồn nhà thơ được cất cánh, thăng hoa.
Trong vô tăm tích tôi nghĩ
Lát nữa chào mào sẽ mổ những con sâu
Trái cây chín đỏ
Từng giọt nước
Thanh sạch của tôi
Khi không còn thấy tăm tích con chim chào mào, nhân vật “tôi” đã hình dung ra con chim chào mào đang mổ những “con sâu, trái cây chín, giọt nước thanh sạch” của tôi. Khổ thơ này khắc họa khá đầy đủ đời sống sinh động của con chào mào. Nó thường ăn những con sâu, trái cây chín, uống nước… Đó chính là một cách “chuộc lỗi” khi con người hiểu ra rằng con chim chào mào mình yêu quý sẽ chỉ hạnh phúc trong cuộc sống tự do, tự nhiên giữa thiên nhiên.,…Từ đó, nhà thơ bộc lộ tình yêu thiên nhiên thực sự và trọn vẹn của mình.
triu… uýt… huýt… tu hìu…
Dòng thơ “triu… uýt… huýt… tu hìu…” được lặp lại 2 lần trong bài thơ. Nhà thơ nhấn mạnh điệp khúc những thanh âm của thiên nhiên, tiếng hót trong trẻo của con chào mào lại vang lên lần nữa ở cuối bài thơ. Chuỗi âm thanh được nhắc lại trọn vẹn như từng cất lên lần đầu, nhưng bạn đọc lại cảm nhận “con chào mào” đã đi qua một hành trình, từ đơn lẻ tới hòa nhập, từ âm vực có phần lảnh lót, chói gắt đến phối bè, vang vọng.
Chẳng cần chim lại bay về
Tiếng hót ấy giờ tôi nghe rất rõ.
Hai câu thơ kết khẳng định sự thay đổi trong ý nghĩ, cảm xúc, trong tình yêu thiên nhiên của nhà thơ. Chẳng cần con chào mào bay về nữa, tiếng hót du dương của nó vẫn vang vọng trong tâm hồn ông. Bởi vì nhân vật “tôi” biết ứng xử với thiên nhiên bằng sự tôn trọng và tình yêu chứ không phải bằng mong muốn “độc chiếm”, ích kỉ, hẹp hòi. Tình yêu khiến cho tâm hồn người ta rộng mở, phong phú, tràn đầy niềm vui và sức sống…
Tóm lại , bài thơ “Con chào mào” là một bài thơ đặc sắc. Về nghệ thuật, bài thơ thành công với thể thơ tự do, có những câu thơ lặp lại hoàn toàn gợi âm thanh thiên nhiên với nhiều âm vực ngân vang, hình ảnh thơ chân thực, giàu sức gợi, cấu tứ bài thơ lạ, kết thúc mở tạo nhiều dư âm trong lòng người đọc. Qua đó, Mai Văn Phấn giúp người đọc cảm nhận được bức tranh thiên nhiên trong sáng, khoáng đạt, thanh bình qua vẻ đẹp của con chim chào mào và tiếng chim trong trẻo. Tình yêu thiên nhiên của tác giả được thể hiện qua thái độ tôn trọng, qua cách ứng xử của con người với thiên nhiên. Bài thơ bồi đắp cho ta tình yêu thiên nhiên và mỗi chúng ta cần suy ngẫm về thái độ ứng xử với thiên nhiên.
(Nguồn: Lớp văn cô Thu - http://lopvancothu.com/)
Bài tham khảo số 3
Mai Văn Phấn là một nhà thơ, nhà phê bình tiểu luận. Một trong những bài thơ của ông là “Con chào mào”.
Đầu tiên, nhà thơ đã khắc họa hình ảnh con chim chào mào trong thực tế:
“Con chào mào đốm trắng mũ đỏ
Hót trên cây cao chót vót
triu... uýt... huýt... tu hìu…”
Con chào mào xuất hiện ở “trên cây cao chót vót” - tính từ “chót vót” xác định vị trí cao, mở rộng biên độ về không gian. Hình ảnh con chim được miêu tả với “đốm trắng, mũ đỏ” cho thấy sự vẻ đẹp rực rỡ của nó. Cùng với âm thanh quen thuộc là tiếng hót “triu… uýt… huýt… tu hìu…”. Xuất hiện một cách trực tiếp với những đặc điểm quen thuộc. Với bút pháp tả thực, nhà thơ đã tạo nên một bức tranh thiên nhiên ngập tràn màu sắc, âm thanh.
Nhưng hình ảnh con chim chào mào không chỉ đơn thuần mang nét nghĩa như vật:
“Tôi vội vẽ chiếc lồng trong ý nghĩ
Sợ chim bay đi
Vừa vẽ xong nó cất cánh
Tôi ôm khung nắng, khung gió
Nhành cây xanh hối hả đuổi theo”
Đến khổ thơ thứ hai, tác giả đã để nhân vật “tôi” trong bài thơ vẽ chiếc lồng để nhốt con chim chào mào vì sợ nó bay đi, đó là mong muốn được độc chiếm cái đẹp của thiên nhiên. Chiếc lồng biểu đạt quyền sở hữu thiên nhiên, phô bày cái đẹp của riêng. Nhưng nhân vật “tôi” vừa vẽ xong thì chào mào vụt cánh bay đi. Bởi vậy mà “tôi ôm khung nắng, khung gió, nhành cây” - đó là khao khát muốn ôm trọn không gian thiên nhiên rộng lớn. Động từ “ôm” kết hợp với các danh từ “nắng”, “gió”, “nhành cây” thể hiện khao khát được mở rộng “chiếc lồng” của nhân vật tôi thành bất tận, để tâm hồn mình bao trùm cả thiên nhiên.
Cuối cùng là hình ảnh con chim chào mào trong tưởng tượng của “tôi”:
“Trong vô tăm tích tôi nghĩ
Lát nữa chào mào sẽ mổ những con sâu
Trái cây chín đỏ
Từng giọt nước
Thanh sạch của tôi
triu... uýt... huýt... tu hìu…
Chẳng cần chim lại bay về
Tiếng hót ấy giờ tôi nghe rất rõ.”
Khi “hối hả đuổi theo” con chim chào mào, “tôi” mang theo cả không gian đầy “nắng, cây, gió” mong níu giữ con chim và tiếng hót. Nhưng không còn thấy tăm tích của con chim đâu. Không gian “vô tăm tích” dường như chính là sự vô thủy, vô chung của thiên nhiên, vũ trụ. Những hoạt động của chào mào: “mổ những con sâu, ăn trái cây chín đỏ, uống từng giọt nước”. Đó là những món quà chuộc lỗi khi tôi nhận ra rằng, con chim chào mào mình yêu quý sẽ chỉ hạnh phúc trong cuộc sống tự do, giữa thiên nhiên rộng lớn. Nhưng trong tâm tưởng của nhà thơ, con chim vẫn còn đó: “Chẳng cần chim bay về/Tiếng hót ấy giờ tôi nghe rất rõ”. Chim chào mào không cần quay về nhưng vẫn cảm nhận được tiếng hót vang lên trong tâm trí. Bởi nhân vật “tôi” đã biết yêu thiên nhiên bằng sự tôn trọng, không còn là sự độc chiếm ích kỉ. Tình yêu ấy khiến cho dù ở bất cứ nơi đâu cũng sẽ cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên.
Như vậy, bài thơ “Con chào mào” đã cho thấy vẻ đẹp của chú chim chào mào. Nhưng nhà thơ muốn gửi gắm tình yêu thiên nhiên, khao khát tự do của nhà thơ.
Bài tham khảo số 4
Mai Văn Phấn là một nhà thơ với những tác phẩm có đề tài phong phú về đề tài, có những cách tân về nội dung và nghệ thuật. Điều đó được thể hiện qua bài thơ “Con chào mào”.
Mở đầu bài thơ, hình ảnh con chim chào mào được khắc họa trong thực tế:
“Con chào mào đốm trắng mũ đỏ
Hót trên cây cao chót vót
triu... uýt... huýt... tu hìu…”
Chim chào mào xuất hiện với vị trí “trên cây cao chót vót”. Vẻ đẹp của chim chào mào xuất hiện với màu sắc “đốm trắng, mũ đỏ” cho thấy sự rực rỡ của nó. Cùng với âm thanh quen thuộc là tiếng hót “triu… uýt… huýt… tu hìu…”. Với bút pháp tả thực, nhà thơ đã tạo nên một bức tranh thiên nhiên ngập tràn màu sắc, âm thanh.
Hình ảnh của chim chào mào còn xuất hiện trong suy nghĩ của nhân vật “tôi” - nhân vật trữ tình trong bài thơ:
“Tôi vội vẽ chiếc lồng trong ý nghĩ
Sợ chim bay đi
Vừa vẽ xong nó cất cánh
Tôi ôm khung nắng, khung gió
Nhành cây xanh hối hả đuổi theo”
Nhân vật “tôi” trong bài thơ vẽ chiếc lồng để nhốt con chim chào mào vì sợ nó bay đi. Hình ảnh “chiếc lồng” được đan dệt bằng trí tưởng tượng. Nhân vật trong bài muốn giam cầm con chim, hay chính là muốn độc chiếm cái đẹp của thiên nhiên. Nhưng nhân vật “tôi” vừa vẽ xong thì chào mào vụt cánh bay đi. Hành động “tôi ôm khung nắng, khung gió, nhành cây” - đó là khao khát muốn ôm trọn không gian thiên nhiên rộng lớn. Động từ “ôm” kết hợp với các danh từ “nắng”, “gió”, “nhành cây” thể hiện khao khát được mở rộng “chiếc lồng” của nhân vật tôi thành bất tận, để tâm hồn mình bao trùm cả thiên nhiên. Giọng thơ hồn nhiên, vui tươi cho với những câu thơ cho thấy tác giả khao khát mở rộng thiên nhiên, muốn tâm hồn mình bao trùm thiên nhiên rộng lớn.
Kết thúc bài thơ là hình ảnh con chim trong tâm tưởng của nhân vật “tôi”:
“Trong vô tăm tích tôi nghĩ
Lát nữa chào mào sẽ mổ những con sâu
Trái cây chín đỏ
Từng giọt nước
Thanh sạch của tôi
triu... uýt... huýt... tu hìu…
Chẳng cần chim lại bay về
Tiếng hót ấy giờ tôi nghe rất rõ.”
Nhân vật “tôi” mang theo cả không gian đầy nắng, cây, gió, mong níu giữ con chim và tiếng hót. Nhưng lại “vô tăm tích” - cụm từ cho thấy sự vô thủy, vô chung của thiên nhiên, vũ trụ. Tôi tự mình tưởng tượng ra những hành động của con chim chào mào: mổ những con sâu, ăn trái cây chín đỏ, uống từng giọt nước. Trí tưởng tượng của nhà thơ dường như bay theo tiếng chim. Tất cả dịch chuyển sống động đó được thể hiện trong câu thơ: “Thạch sạch của tôi”. Hai từ “của tôi” cho thấy nhà thơ đã dùng hết những gì tinh tú nhất để “nuôi dưỡng” chú chim nhỏ bé của ông. Hai câu thơ cuối cho thấy con chim đã bay xa. Nhưng trong tâm tưởng của nhà thơ, con chim vẫn còn đó: “Chẳng cần chim bay về/Tiếng hót ấy giờ tôi nghe rất rõ”. Nhân vật “tôi” vẫn cảm nhận được sự hiện diện của con chim chào mào. Bởi nhân vật “tôi” đã biết yêu thiên nhiên bằng sự tôn trọng, không còn là sự độc chiếm ích kỉ. Tình yêu ấy khiến cho dù ở bất cứ nơi đâu cũng sẽ cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên.
Bài thơ “Con chào mào” của Mai Văn Phấn đã cho thấy vẻ đẹp của chú chim chào mào. Qua đó, nhà thơ còn muốn thể hiện tình yêu thiên nhiên, khao khát tự do của nhà thơ.
Bài tham khảo số 2
Mai Văn Phấn là một nhà thơ có nhiều tác phẩm độc đáo. Một trong số đó là bài thơ “Con chào mào” đã để lại nhiều ấn tượng đối với bạn đọc.
Trước hết, nhà thơ đã giúp người đọc thấy được hình ảnh con chim chào mào được khắc họa trong thực tế:
“Con chào mào đốm trắng mũ đỏ
Hót trên cây cao chót vót
triu... uýt... huýt... tu hìu…”
Những câu thơ mở đầu cho thấy vị trí “trên cây cao chót vót”. Cùng với đó là những đặc điểm của loài chim chào mào - “đốm trắng, mũ đỏ”; tiếng kêu “triu… uýt… huýt… tu hìu…”. Với bút pháp tả thực, nhà thơ đã tạo nên một bức tranh thiên nhiên ngập tràn màu sắc, âm thanh.
Tiếp đến, Mai Văn Phấn đã xây dựng hình ảnh con chim chào mào trong suy nghĩ của nhân vật trữ tình - “tôi”:
“Tôi vội vẽ chiếc lồng trong ý nghĩ
Sợ chim bay đi
Vừa vẽ xong nó cất cánh
Tôi ôm khung nắng, khung gió
Nhành cây xanh hối hả đuổi theo”
Nhân vật “tôi” trong bài thơ vẽ chiếc lồng để nhốt con chim chào mào vì sợ nó bay đi. Hình ảnh “chiếc lồng” được đan dệt bằng trí tưởng tượng. Qua đó, chúng ta mới thấy được cái khao khát muốn độc chiếm cái đẹp của thiên nhiên. Nhân vật “tôi” vừa vẽ xong thì chào mào vụt cánh bay đi. Hành động “tôi ôm khung nắng, khung gió, nhành cây” - đó là khao khát muốn ôm trọn không gian thiên nhiên rộng lớn. Động từ “ôm” kết hợp với các danh từ “nắng”, “gió”, “nhành cây” thể hiện khao khát được mở rộng “chiếc lồng” của nhân vật tôi thành bất tận, để tâm hồn mình bao trùm cả thiên nhiên. Bài thơ với giọng hồn nhiên, vui tươi cho với những câu thơ cho thấy cái lạc quan, yêu đời của nhà thơ.
Cuối cùng là hình ảnh trong tưởng tượng của nhân vật “tôi”:
“Trong vô tăm tích tôi nghĩ
Lát nữa chào mào sẽ mổ những con sâu
Trái cây chín đỏ
Từng giọt nước
Thanh sạch của tôi
triu... uýt... huýt... tu hìu…
Chẳng cần chim lại bay về
Tiếng hót ấy giờ tôi nghe rất rõ.”
Không gian đầy “nắng, cây, gió” hiện lên với mong muốn níu giữ con chim và tiếng hót. Nhưng lại “vô tăm tích” - cụm từ cho thấy sự vô thủy, vô chung của thiên nhiên, vũ trụ. Từ đó mà “tôi” phải tự mình tưởng tượng ra hình ảnh con chim chào mào đang mổ những con sâu, ăn trái cây chín đỏ, uống từng giọt nước. Hai câu thơ cuối cho thấy con chim đã bay xa. Nhưng trong tâm tưởng của nhà thơ, con chim vẫn còn đó. Nhân vật “tôi” vẫn cảm nhận được sự hiện diện của con chim chào mào. Tác giả đã cho chúng ta hiểu được rằng tình yêu thiên nhiên vẫn hiện hữu dù ở bất cứ nơi đâu.
Bài thơ “Con chào mào” của Mai Văn Phấn đã cho người đọc nhiều cảm nhận. Nhà thơ muốn gửi gắm cho người đọc về tình yêu thiên nhiên, khao khát tự do của nhà thơ.
Bài tham khảo số 1
Bài thơ “Con chào mào” của tác giả Mai Văn Phấn đã để lại cho người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc.
Trước hết, hình ảnh con chim chào mào đã được nhà thơ khắc họa trong thực tế:
“Con chào mào đốm trắng mũ đỏ
Hót trên cây cao chót vót
triu... uýt... huýt... tu hìu…”
Vẻ đẹp của chim chào mào được miêu tả với “đốm trắng, mũ đỏ” cho thấy sự rực rỡ của nó. Cùng với âm thanh quen thuộc là tiếng hót “triu… uýt… huýt… tu hìu…”. Bức tranh thiên nhiên hiện lên trong bài thơ ngập tràn màu sắc, âm thanh.
Không chỉ dừng lại ở đó, những câu thơ tiếp theo lại giúp người đọc hiểu được nhiều ý nghĩa trong đó:
“Tôi vội vẽ chiếc lồng trong ý nghĩ
Sợ chim bay đi
Vừa vẽ xong nó cất cánh
Tôi ôm khung nắng, khung gió
Nhành cây xanh hối hả đuổi theo”
Tác giả đã để nhân vật “tôi” trong bài vẽ chiếc lồng để nhốt con chim chào mào vì sợ nó bay đi. Điều đó thể hiện mong muốn, khao khát của tác giả được độc chiếm thiên nhiên. “Chiếc lồng” biểu đạt quyền sở hữu thiên nhiên, phô bày cái đẹp của riêng. Nhưng nhân vật “tôi” vừa vẽ xong thì chào mào vụt cánh bay đi. Bởi vậy mà “tôi ôm khung nắng, khung gió, nhành cây”. Nhà thơ mong có thể ôm trọn thiên nhiên rộng lớn vào lòng. Động từ “ôm” kết hợp với các danh từ “nắng”, “gió”, “nhành cây” thể hiện khao khát được mở rộng “chiếc lồng” của nhân vật tôi thành bất tận, để tâm hồn mình bao trùm cả thiên nhiên.
Trong tưởng tượng của nhân vật “tôi”, con chim chào mào lại một lần nữa hiện lên:
“Trong vô tăm tích tôi nghĩ
Lát nữa chào mào sẽ mổ những con sâu
Trái cây chín đỏ
Từng giọt nước
Thanh sạch của tôi
triu... uýt... huýt... tu hìu…
Chẳng cần chim lại bay về
Tiếng hót ấy giờ tôi nghe rất rõ.”
“Tôi” mong muốn có thể níu giữ tiếng hót. Nhưng dường như cái không gian “vô tăm tích” đã khiến cho mong muốn đó không thể. Những hoạt động của chào mào: “mổ những con sâu, ăn trái cây chín đỏ, uống từng giọt nước”. Đó là những món quà chuộc lỗi khi tôi nhận ra rằng, con chim chào mào mình yêu quý sẽ chỉ hạnh phúc trong cuộc sống tự do, giữa thiên nhiên rộng lớn. Đến những câu thơ này, người đọc thấy được tác giả đã có được tình yêu thiên nhiên bằng sự tôn trọng, không còn là sự độc chiếm ích kỉ. Tình yêu ấy khiến cho dù ở bất cứ nơi đâu cũng sẽ cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên.
Với “Con chào mào”, chúng ta có thể thấy được tình yêu thiên nhiên lớn lao của nhà thơ.