“Thương vợ” là bài thơ nổi tiếng của Trần Tế Xương, nằm trong chương trình Ngữ văn 11. Bài thơ đã ca ngợi công lao, tấm lòng của vợ mà còn viết ngay khi vợ còn sống. Đây là một điều đặc biệt rất hiếm gặp trong thi ca, bởi các nhà văn, nhà thơ xưa thường viết về vợ khi người bạn đời kết tóc trăm năm của mình đã từ giã cõi đời. Thương vợ là bài thơ nổi tiếng nhất mà Tú Xương viết về vợ, đây cũng là tình yêu thương, sự trân trọng mà nhà thơ muốn gửi gắm tới người vợ của mình. Cùng Toplist tham khảo một số bài văn cảm nhận về bài thơ "Thương Vợ" hay nhất dưới đây
Bài văn cảm nhận về bài thơ "Thương vợ" của Tú Xương số 2
Trong xã hội xưa, các nhà Nho thường dùng thơ ca như một “phương tiện” để nói chí, tỏ lòng, có rất ít những tác phẩm viết về cuộc sống sinh hoạt với những vấn đề “vặt vãnh” thường ngày. Thơ ca trung đại viết về người phụ nữ đã ít, viết về người vợ càng hiếm hoi hơn. “Thương vợ” của Trần Tế Xương là một trong số rất ít những bài thơ hiếm hoi ấy, nhà thơ không chỉ ca ngợi công lao, tấm lòng của vợ mà còn viết ngay khi vợ còn sống. Đây là một điều đặc biệt rất hiếm gặp trong thi ca, bởi các nhà văn, nhà thơ xưa thường viết về vợ khi người bạn đời kết tóc trăm năm của mình đã từ giã cõi đời. Thương vợ là bài thơ nổi tiếng nhất mà Tú Xương viết về vợ, đây cũng là tình yêu thương, sự trân trọng mà nhà thơ muốn gửi gắm tới người vợ của mình.
“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng”
Ngay trong những câu thơ đầu tiên, nhà thơ Tú Xương đã để bà Tú xuất hiện trong một hoàn cảnh đặc biệt. Bà Tú hiện lên trong công việc mưu sinh vất vả cùng gánh nặng gia đình “nuôi đủ năm con với một chồng”. “Quanh năm” gợi ra khoảng thời gian dài đằng đẵng, bà Tú làm công việc buôn bán mưu sinh quanh năm suốt tháng, không có lấy một ngày ngơi nghỉ. “Mom sông” phần đất bồi ven sông chông chênh, đầy hiểm nguy thường trực, đây cũng là nơi bà Tú làm ăn buôn bán. Công việc vất vả là vậy, cực nhọc hiểm nguy là vậy nhưng bà Tú vẫn cần mẫn làm việc bởi trên vai bà là gánh nặng “năm con với một chồng”. Câu thơ “Nuôi đủ năm con với một chồng” nghe qua như một lời ví von tếu táo nhưng lại ẩn chứa nỗi xót xa khó giấu. Tú Xương đã tự coi mình là gánh nặng, không những thế ông còn đặt lên bàn cân để thấy một mình mình có sức “nặng” bằng năm đứa con.
Nếu hai câu thơ đầu nhà thơ chú ý khắc họa thời gian, không gian làm việc và những gánh nặng của bà Tú thì trong hai câu thơ tiếp theo, nhà thơ tập trung miêu tả nỗi cơ cực, lam lũ của bà Tú:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”
Trong hai câu thực, nhà thơ Tế Xương đã đảo vị ngữ “lặn lội”, “eo sèo” lên đầu câu để diễn tả nỗi cực nhọc, sự đơn độc của bà Tú trong công việc mưu sinh. “Lặn lội thân cò” gợi ra sự vất vả, lam lũ, đáng thương của bà Tú. Trong không gian vắng vẻ, luôn thường trực những hiểm nguy “quãng vắng”, bà Tú vẫn kiên cường bươn trải để nuôi sống cả gia đình. “Eo sèo” gợi ra khung cảnh xô bồ, chen lấn, xô đẩy của người mua, kẻ bán. Hai câu thơ đã tái hiện sống động mà cũng đầy xót xa nỗi vất vả, cực nhọc của bà Tú, qua đó còn thể hiện sự thấu hiểu, đồng cảm của ông Tú dành cho người vợ tào khang của mình.
“Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công”
Ở đây, nhà thơ Tú Xương đã mượn thành ngữ dân gian để nói về cuộc đời của bà Tú. “Một duyên hai nợ” gợi ra nỗi vất vả, sự éo le trong số phận của bà Tú. Bà chỉ có một cái “duyên” nhưng lại phải chịu đến đến hai “cái nợ” khi trở thành vợ của ông Tú. Đôi vai gầy yếu của bà phải gánh gồng tất cả những công việc gia đình và cả những lo toan của cuộc sống, bà không chỉ phải lo cho con mà còn phải gánh theo chồng. Cuộc sống hẩm hiu, thiệt thòi là vậy nhưng bà Tú không hề oán thán mà vẫn chấp nhận “âu đành phận”, bà âm thầm gánh vác tất cả, âm thầm hi sinh vì chồng, vì con. Dù có phải trải qua bao sóng gió dãi dầu “năm nắng mười mưa” thì bà vẫn không ngại khó, ngại khổ “dám quản công”.
Qua việc sử dụng linh hoạt phép đối kết hợp vận dụng thành ngữ dân gian, Tú Xương đã hoàn thiện bức chân dung đẹp đẽ, đáng trân trọng của bà Tú: Chịu thương, chịu khó, giàu đức hi sinh. Câu thơ còn như một lời tự trách của nhà thơ với sự “vô dụng”, bất lực của bản thân khi chứng kiến sự vất vả của vợ mà không thể làm gì.
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không”
Hai câu thơ cuối như một lời trách móc, một lời chửi với “thói đời”, với sự bất lực của bản thân. “Thói đời” ở đây có thể hiểu là xã hội phong kiến nhiều bất công đã đẩy con người vào cảnh bần cùng. Không chỉ chửi thói đời, ông còn chửi chính bàn thân mình “Có chồng hờ hững cũng như không”. Bản thân ông là một người chồng, là trụ cột gia đình nhưng vì theo đuổi khát vọng công danh mà vô tình tạo nên bao nỗi cơ cực cho vợ. Câu thơ thể hiện rõ nét sự xót xa, bất lực của Tế Xương. Thế nhưng, qua việc trân trọng công lao của vợ, tự lên án sự “hờ hững” của bản thân ta lại thấy được nhân cách đáng trân trọng của nhà thơ, đó là tình thương sâu sắc với vợ, sự tự ý thức về bản thân.
Có thể nói Thương vợ là lời tri ân sâu sắc mà Tú Xương dành cho vợ. Bài thơ không chỉ dựng lên bức chân dung bà Tú, một người đàn bà chịu thương chịu khó, yêu thương chồng con, giàu đức hi sinh mà còn thể hiện tình thương vợ, nhân cách cao đẹp của nhà thơ.
Bài văn cảm nhận về bài thơ "Thương vợ" của Tú Xương số 9
“Thương vợ” là bài thơ nổi tiếng, tiêu biểu cho sáng tác của Trần Tế Xương. Bài thơ phản ánh hình ảnh bà Tú vất vả, đảm đang, lặng lẽ hi sinh vì chồng vì con, đồng thời thể hiện tình thương yêu, quý trọng và biết ơn của Tú Xương đối với người vợ của mình.
Mở đầu bài thơ, Trần Tế Xương giới thiệu hoàn cảnh làm việc của vợ:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng”
Chân dung của bà Tú hiện lên không phải từ dáng vóc, hình hài mà từ không gian và thời gian công việc. "Quanh năm" không chỉ là độ dài thời lượng mà còn gợi ra cái vòng vô kì hạn của thời gian, nó chứng tỏ cuộc mưu sinh không có hồi kết thúc. Không gian "mom sông" gợi lên không gian sinh tồn bấp bênh, chông chênh. Biết bao hàm ý toát lên trong cụm từ "nuôi đủ", nó vừa thể hiện sự chăm lo tận tụy chuyện cơm ăn áo mặc lại vừa hàm chỉ sự chịu đựng. Cách nói của nhà thơ đầy ý vị "năm con với một chồng". Nhà thơ đã tự hạ mình ngang hàng với các con khi cay đắng, tủi hổ, xót xa nhận ra mình cũng là một thứ con trong gánh nặng của vợ. Ngoài không gian làm việc khó khăn mà điều kiện làm việc cũng vô cùng khắc nghiệt:
"Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông"
Tú Xương dùng một hình tượng quen thuộc trong văn chương dân gian nói về người phụ nữ lao động: Con cò lặn lội bờ sông... Tấm thân mảnh dẻ, yếu đuối của bà Tú mà phải chịu dãi nắng dầm sương thì đã là gian nan, tội nghiệp, vậy mà bà còn phải lặn lội sớm trưa. Nghĩa đen của từ này cũng gợi ra đầy đủ cái vất vả, khó nhọc trong nghĩa bóng. Tấm thân cò ấy lại lặn lội trên quãng vắng đường xa. Nói quãng vắng là tự nhiên nổi lên cái lẻ loi, hiu quạnh, lúc cần không biết nương tựa vào đâu, chưa nói đến những hiểm nguy bất trắc đối với thân gái dặm trường.
Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Ông Tú mượn tâm tư bà Tú mà suy ngẫm để cảm thông sâu sắc hơn: lấy chồng như thế này thì cũng là duyên hoặc nợ thôi, số phận đã thế thì cũng đành thế. Cho nên có khổ cực bao nhiêu, năm nắng mười mưa cũng phải chịu, phải lo, nào dám quản công. Chẳng còn là chuyện thân nữa, dù là thân cò, mà đã là chuyện phận rồi, chuyện số phận. Lại thêm nghĩa của “âu đành, dám quản”. “Âu đành” là một sự bất đắc dĩ, xếp lại, nén xuống những gì bất bình, tủi nhục. “Dám quản “tức là không dám kể gì đến công lao, là thái độ chấp nhận gánh chịu mọi sự nhọc nhằn. Thêm âm thanh nặng nề của từ phận ở cuối câu khép lại càng làm cho câu thơ phù hợp với cảm xúc bị dồn nén vào trong.
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không.”
Hai câu kết là một tiếng chửi đổng cái thói đời ăn ở bạc. Lời chửi tuy có ném thẳng vào đời, nhưng trước hết là ném vào mình. Để tự trách mình thì ông phải chửi. Đối với ông Tú thì tự trách đến mức phải bật ra tiếng chửi như thế là rất giận mình. Bài thơ ông viết ra cốt để bày tỏ tình thương yêu, quý trọng người vợ đảm đang và tự trách mình là đồ tầm thường, vô tích sự. Bà Tú không hề coi chồng là ăn ở bạc, nhưng ông Tú thì gọi đích danh tội lỗi của mình ra như vậy, vợ chồng với nhau mà như thế thì còn gì mà không ông Tú lại không nói trực tiếp là mình ăn ở bạc mà khái quát nó lên thành thói đời. Thói đời đen bạc tượng trưng cho bản chất của xã hội kim tiền dưới thời thực dân phong kiến, ở thành thị điều đó càng tệ hại hơn.
Có thể nói với "Thương vợ", Tú Xương đã khắc hoạ rõ nét và sống động hình ảnh người vợ tảo tần với những nét phẩm chất điển hình của người phụ nữ Việt Nam: đảm đang, chịu thương chịu khó, giàu đức hi sinh và lòng vị tha. Đằng sau tiếng thơ là tiếng lòng tri ân trân trọng, cảm thông đồng thời là nỗi day dứt khôn nguôi của nhà thơ đối với người vợ thảo hiền.
Bài văn cảm nhận về bài thơ "Thương vợ" của Tú Xương số 7
Hình ảnh người phụ nữ luôn là đề tài muôn thuở trong nền thi ca Việt Nam. Tuy nhiên, thơ văn viết về người vợ bằng tình cảm của người chồng đã ít, nay lại viết “tế sống” người vợ còn hiếm hoi hơn. Và Trần Tế Xương là người đàn ông đã đưa hình ảnh người vợ của mình vào những dòng thơ trữ tình nhưng cũng không kém phần trào phúng. Trần Tế Xương hay còn gọi là Tú Xương, giống trong buổi giao thời đầy nghèo khổ nửa thực dân nửa phong kiến. Ông là người thông minh ham học có tài làm thơ nhưng lại lận đận trong thi cử. Ông nổi tiếng trong hai mảng thơ trữ tình và trào phúng có pha chút giọng cười châm biếm, sắc sảo bắt nguồn từ tâm huyết với dân với nước với đời.
Tú Xương đã từng được mệnh danh là nhà thơ trào phúng xuất sắc nhất của văn học Việt Nam cuối thể kỷ XIX. Những tác phẩm ông để lại chủ yếu là thơ Nôm và có nhiều bài rất đặc sắc, có thể nói là tuyệt mỹ cả về nội dung lẫn nghệ thuật. Minh chứng rõ nhất là bài thơ Thương vợ. Tú Xương đã bộc lộ tình yêu thương, sự trân trọng và cả nỗi ăn năn trước sự hi sinh của vợ trong bài thơ này:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên, hai nợ, âu đành phận,
Năm nắng, mười mưa, dám quản công.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc:
Có chồng hờ hững cũng như không!”
Thương vợ nằm trong những sáng tác của Tú Xương về bà Tú cũng là một trong những bài thơ hay, cảm động nhất của ông về vợ mình. Bài thơ được viết bằng chữ Nôm với những ngôn từ bình dị và hình ảnh đẹp đẽ. Nó không chỉ đề cập đến nhiều khía cạnh trong xã hội mà còn là tiếng lòng tha thiết đầy xót xa của Tú Xương - nạn nhân của xã hội bấy giờ, đã biến con người trở nên vô tích sự với chính bản thân và gia đình. Đồng thời bài thơ cũng giúp người đọc thấy được đức hi sinh to lớn của người phụ nữ xưa đối với gia đình.
Mở đầu tác phẩm Tú Xương giới thiệu về hoàn cảnh và công việc mưu sinh của bà Tú:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.”
Mạch cảm xúc của thi phẩm dần được mở ra với bức tranh toàn cảnh về nỗi khó nhọc lo toan của bà Tú. Câu vào đề như để giới thiệu hoàn cảnh lam lũ vất vả qua cách nêu thời gian, địa điểm. Tác giả sử dụng từ “quanh năm” – cụm từ chỉ một khoảng thời gian rất dài, lặp đi lặp lại như một vòng tuần hoàn khép kín của tự nhiên, tác giả đã diễn tả được nỗi vất vả triền miên của bà Tú trải hết ngày này qua tháng khác, mặc kệ nắng mưa. Chỉ có thế cũng đã đủ để lại trong lòng độc giả một hình ảnh tần tảo, đầu tắt mặt tối của bà Tú.
Thế nhưng chưa dừng lại ở đó, cách cân đo đong đếm thời gian như thế còn góp phần làm bật lên cái không gian buôn bán của bà thông qua hình ảnh “mom sông”. Địa thế “mom sông” đầy trắc trở hiểm nguy khôn lường lại là chỗ làm ăn buôn bán hàng ngày của người phụ nữ. Thời gian dài đằng đặng kết hợp với địa điểm trắc trở càng tôn lên hình ảnh bà Tú tảo tần, hết lòng hết sức vì miếng cơm manh áo cho cả gia đình. Với giọng thơ hỏm hỉnh cùng tài năng trong nghệ thuật thơ trào phúng, Tú Xương đã làm nên một câu thơ thứ hai như lời lên án gay gắt xã hội phong kiến đã biến những người đàn ông vốn là trụ cột trong gia đình thành kẻ vô tích sự, sống dựa dẫm và cả đời “ăn lương vợ”.
“Trống hầu vừa dứt, bố lên thang
Hỏi ra quan ấy ăn lương ... vợ”
(Quan tại gia – Trần Tế Xương)
Đôi vai của bà Tú đã nặng nay lại càng nhân lên những nỗi gian truân khi phải “bất đắc dĩ” trở thành trụ cột trong gia đình. Từ “đủ” vừa biểu thị chất lượng vừa biểu thị số lượng. Bên cạnh đó cách đặt hai từ số đếm “năm” và “một” tưởng chừng khập khiễng nhưng lại hóa độc đáo và mới lạ. Tú Xương tự chế giễu mình khi so sánh bản thân với năm người con. Ông tự cho mình là “đứa con đặc biệt”, ngầm nâng cao vị thế của người vợ lên một thứ bậc thiêng liêng. Hơn thế nữa, cấu trúc năm - một cùng từ “với” chất chứa bao nỗi hổ thẹn của người chồng phải sống dựa vào vợ.
Hai câu mở đầu đã thể hiện được tất cả những đức tính cao đẹp của bà Tú: chịu thương, chịu khó để nuôi đủ gia đình. Qua đó Tú Xương cũng khéo léo thể hiện sự biết ơn của mình, đồng thời còn là sự hổ thẹn khi phải đặt mình tương đồng với những đứa con thơ. Thật xót xa, ngậm ngùi biết bao!
Thấu hiểu được những nỗi lo toan, vất vả của người vợ, Tú Xương liên tưởng đến hình ảnh con cò trong ca dao:
“Cái cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non”
để cực tả nỗi khổ tâm của bà Tú trong hai câu thực:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.”
Tú Xương sử dụng từ “thân cò” vừa thể hiện cái tính riêng, sự sáng tạo mang tính thời đại trong phong cách thơ của mình, vừa đồng nhất thân phận của bà Tú nói riêng và hình ảnh của người phụ nói chung với hình ảnh mỏng manh của “cái cò”. Tiếp đó chữ “thân” tuy đơn giản nhưng nghe thật cay đắng, nó gợi cho người đọc về một thứ gì đó nhỏ bé tội nghiệp đến vô cùng. “khi quãng vắng” là một cụm từ rất đặc biệt, nó không chỉ gợi lên cái không gian rợn ngợp, cảm giác đầy nguy hiểm rình rập nơi mom sông heo hút mà còn diễn tả nỗi khắc khoải của thời gian. Cùng với nghệ thuật đảo ngữ, từ láy “lặn lội” đã nhấn mạnh hình ảnh vất vả mưu sinh đến xót xa, gầy guộc của người phụ nữ.
Nếu câu thơ thứ ba gợi lên nỗi cực nhọc đơn chiếc thì câu thứ tư lại là sự vật lộn với cuộc sống bán mua đông đúc. Một lần nữa Tú Xương lại dùng biện pháp đảo ngữ với từ láy tượng thanh “eo sèo” gợi sự tấp nập ồn ã để nhấn mạnh cảnh tượng thường tình nơi chợ búa gắn liền với người phụ nữ có “năm con với một chồng”. Hình ảnh “buổi đò đông” cũng góp phần làm bật lên một bà Tú cần mẫn, tất bật. Buổi đò đông cùng với “khi quãng vắng” đã tạo nên sự nguy hiểm, gian lao gấp nhiều lần. Ông cha ta có câu “sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua” nhưng vì cuộc sống, vì cơm áo gạo tiền cho chồng con mà bà Tú đã phải dấn thân vào chốn hiểm nguy đó. Hai câu thực dù đối nhau về từ ngữ “buổi đò đông” - “khi quãng vắng” nhưng lại tiếp nhau về ý làm nổi lên sự lam lũ gian truân của người phụ nữ nhỏ bé này.
Đến với hai câu thơ tiếp theo, Tú Xương như nhập vai vào chủ thể trữ tình nhằm mượn lời vợ để ngầm ca ngợi những hi sinh âm thầm mà bà dành cho chồng con:
“Một duyên, hai nợ, âu đành phận,
Năm nắng, mười mưa, dám quản công.”
Theo quan niệm phong kiến xưa, “duyên” và “nợ” là hai định nghĩa hết sức thiêng liêng về mối quan hệ vợ chồng do ông trời định sẵn, xuất phát từ sợi chỉ hồng của ông tơ bà nguyệt. Thế nhưng khi đưa vào lời thơ Tú Xương, hai thứ đó trở nên nặng nề như một lời than thở khi duyên chỉ có một mà nợ lại tới hai. Bên cạnh đó việc sử dụng hai thành ngữ song song với nhau “một duyên hai nợ” - “năm nắng mười mưa” vừa đối nhau về từ, vừa đối nhau về ý đã khiến cho câu thơ trầm lắng trước nỗi khổ tâm của bà Tú. Không những thế sự đối lập này còn thể hiện rất rõ tài năng văn chương điêu luyện của thi sĩ.
Đức hi sinh cao cả của bà Tú còn được nhắc đến qua hai cụm từ “âu đành phận” và “dám quản công”. Nguyên nhân dẫn đến sự lam lũ hi sinh âm thầm đầy cam chịu của bà tuy giản đơn mà cao quý. Đó là vì mối nhân duyên với người chồng và đàn con thơ. Từ việc pha trộn lời thơ đan xen với những thành ngữ và biện pháp đảo ngữ cực kì tinh tế, nhà thơ Tú Xương đã khắc họa thành công tấm chân tình của người vợ với đầy đủ đức hi sinh, tần tảo như một người phụ nữ Việt Nam truyền thống.
Vì thương vợ, thương cho thân phận đời nữ nhi mà lại sắm vai trụ cột trong gia đình, Tú Xương đã tự trách bản thân mình. Hai câu thơ cuối cũng vì thế giống như tiếng chửi vừa cay đắng vừa phẫn nộ cho những định kiến khắt khe:
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc:
Có chồng hờ hững cũng như không!”
Mạch cảm xúc của thi phẩm dường như có sự chuyển biến đột ngột. Tú Xương không còn ẩn mình sau những dòng thơ để tán dương vợ mà đã xuất hiện để nói thay, để trách ông chồng, để trách phận mình của bà Tú. “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc” là một cách nói rất phù hợp với phong cách thơ trào phúng đó là sự giận đời vì cái xã hội thối nát lúc bấy giờ. Thêm vào đó ít ai biết được rằng đằng sau tiếng chửi đời đầy dứt khoát ấy lại là một bi kịch của con người chất chứa bao nỗi đau xót. Tú Xương chửi cái “thói đời” nhưng cũng là sự chửi mình, tự chửi một đống nam nhi đang trên đường công danh mà không giúp được vợ lại thành kẻ ăn bám. Tú Xương coi mình là một người “hờ hững” trong trách nhiệm của một kẻ làm cha, làm chồng. Thế nhưng nếu nhìn nhận lại sự việc thì Tú Xương quả là đáng thương hơn đáng trách. Bởi, suy cho cùng chính xã hội kia đã đẩy ông vào đường cùng. Hai câu thơ khép lại tác phẩm là lời tự rủa mình, rủa đời của Tú Xương nhưng lại mang đậm ý nghĩa lên án xã hội sâu sắc, góp phần khẳng định tình cảm của ông với vợ mình. Người ấy tuy “ăn lương vợ” nhưng rất chu đáo luôn dõi theo bà, đặc biệt luôn tỏ lòng biết ơn của mình đối với người phụ nữ ông yêu thương. Thi phẩm kết thúc thật bất ngờ vừa thấm đượm được cái bi, cái bất hạnh trong nỗi niềm riêng của tác giả, vừa dí dỏm hài hước.
Tấm lòng thương vợ của Tú Xương đối với cả thời quá khứ và hiện tại vẫn là tấm gương sáng cho bao người. Bài thơ giữ nguyên giá trị cùng với ý nghĩa nhân văn sâu sắc về sự yêu thương, trân trọng và thấu hiểu những nỗi đau, sự hi sinh của người phụ nữ cho gia đình. Đồng thời đó cũng là tiếng nói phê phán sự bất công của xã hội phong kiến thối nát, mục ruỗng.
Như vậy, bài thơ Thương vợ là một thi phẩm mang đậm tính nhân văn sâu sắc. Với chất thơ bình dị mà trữ tình mang chút trào phúng, Tú Xương đã thành công trong việc khắc họa một bức chân dung về người phụ nữ Việt Nam lúc bấy giờ, vừa mộc mạc chất phác, vừa cứng rắn mạnh mẽ. Vì vậy quả thật Tú Xương chính là thi nhân viết thơ về vợ hay và cảm động nhất. Ông đã để lại cho đời những áng văn chân thành xúc động và đầy giá trị.
Bài văn cảm nhận về bài thơ "Thương vợ" của Tú Xương số 3
Tú Xương (1870-1907), tên thật là Trần Tế Xương, cuộc đời ngắn ngủi 37 năm của ông gắn liền với giai đoạn đau thương nhất của đất nước khi thực dân Pháp hoàn toàn nắm quyền thống trị trên đất nước Việt Nam, triều đình phong kiến thì sợ hãi, nhu nhược trước kẻ thù, thối nát và khốn nạn với nhân dân. Tú Xương từ nhỏ đã nổi tiếng là người thông minh, sáng dạ, tôn thờ quan niệm “nhập thế tích cực” của Nho học, muốn tham gia vào chốn quan trường để giúp đời giúp nước. Thế nhưng khốn nỗi, cả cuộc đời ông dù gắn liền, tập trung hết tâm huyết vào khoa cử thế nhưng thi đến tận 8 lần mà vẫn bất đắc chí. Cuối cùng chỉ được chức tú tài, hữu danh vô thực, nhà cửa lại mất hết, điều đó đã để lại trong lòng ông những nỗi khốn khổ, đắng cay và phẫn uất vô cùng với cái xã hội Tây-ta thối nát, lẫn lộn.
Những cảm xúc ấy được ông thể hiện rất rõ trong các tác phẩm thơ ca của mình. Dù cuộc đời có nhiều tủi nhục, khổ sở nhưng phúc phận cũng cho ông có được một người vợ hiền, đó là bà Phạm Thị Mẫn, người phụ nữ đại diện cho hình tượng người phụ nữ Việt Nam với sự tần tảo, thủy chung, chịu thương chịu khó, cả đời hết lòng hy sinh cho gia đình. Hiểu được nỗi vất vả của vợ thế nên Tú Xương đã nhiều lần đưa hình ảnh bà vào thơ ca của mình như một hình mẫu điển hình để thể hiện sự trân trọng, yêu thương, và cảm thông với sự vất vả của bà. Điển hình là bài thơ Thương Vợ, một trong những bài thơ được biết đến nhiều nhất của Tú Xương trong mảng thơ trữ tình, bên cạnh lĩnh vực trào phúng vốn là sở trường của ông.
Dẫu là một bài thơ trữ tình thế nhưng Thương vợ vẫn thấp thoáng đâu đó cái nét trào phúng, vốn là nét riêng của Trần Tế Xương không thể lẫn lộn với bất cứ nhà thơ nào. Không chỉ vậy, với đề tài là người vợ thì Tú Xương vốn dĩ đã khác hẳn so với các nhà thơ cùng thời, ông là một trong số các nhà thơ chịu ảnh hưởng sâu sắc của nền Nho học lâu đời nhưng lại có cái nhìn rất khoáng đạt và thương cảm về người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Bên cạnh đại thi hào Nguyễn Du nhìn về người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng bạc mệnh Thúy Kiều với tư tưởng hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc, thì Tú Xương lại có một bước tiến khác khá thú vị và độc đáo khi viết về người vợ tần tảo mưa nắng của mình bằng những câu từ tếu táo, thế nhưng ẩn chứa sâu trong đó là sự cảm thông sâu sắc, sự trân trọng, biết ơn với người vợ kết tóc của mình. Có thể nói rằng Tú Xương là một nhà thơ hiếm trong văn học Việt Nam, với những đề tài mới lạ, với giọng thơ trào phúng sâu sắc bên cạnh cuộc đời nhiều uất hận, cay đắng. Trong bài thơ hình ảnh bà Tú hiện lên thông qua nỗi lòng thương yêu của Tú Xương trước hết là ở hai câu đề.
“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng”
Ở câu khai đề tác giả đã tái hiện bối cảnh thời gian và không gian mưu sinh của bà Tú. Với từ “quanh năm”, gợi cảm giác triền miên, từ ngày này qua ngày khác, mùa này qua mùa khác, năm này qua năm khác, dường như người phụ nữ này chẳng có lúc nào được ngơi nghỉ, đó là một khoảng thời gian rất khắc nghiệt của cả đời bà Tú. Thứ hai là không gian “mom sông”, là chòm đất ở bờ sông nhô ra giữa lòng sông, có thuyền đò neo đậu, rất cheo leo, nguy hiểm không hợp để làm ăn đi lại lâu dài. Ấy thế mà bà Tú vẫn phải xông pha, chen lấn để tranh hàng, để giành khách kiếm miếng cơm manh áo cho cả gia đình. Từ bối cảnh khắc nghiệt, khó khăn như vậy hình ảnh bà Tú hiện lên với công việc buôn bán vất vả và cơ cực vô cùng. Đến câu thừa đề, lại là ý giải thích cho những cái vất vả khó nhọc mà một tay bà Tú phải cáng đáng, ấy là bởi nỗi phải “Nuôi đủ năm con với một chồng”.
Cả gia đình đều trông cậy vào việc bà Tú buôn bán, bà phải gánh trên vai hai gánh nặng, một bên là 5 đứa con thơ dại, một bên là ông chồng, mà ông chồng này là gánh nặng đặc biệt, có một người thôi nhưng chẳng khác nào nuôi thêm 5 đứa con nữa. Viết như vậy, Tú Xương đang có hàm ý mỉa mai, trào phúng chính bản thân mình, mỉa mai bởi bản thân ông vốn là đàn ông sức dài vai rộng thế mà lại không biết san sẻ, đỡ đần cùng vợ nuôi 5 đứa con. Mà đằng này ông lại chẳng khác nào mấy đứa con ngày ngày ăn bám, dựa vào từng đồng tiền khó nhọc vợ kiếm được để sống cuộc đời cay đắng và bất mãn. Từ hai câu thơ trên ta thấy được cảm xúc của nhà thơ không chỉ dừng lại ở nỗi lòng thương vợ sâu sắc mà còn là nỗi tủi nhục, hổ thẹn với vợ và với chính bản thân mình vì sự vô năng bất lực trước cuộc đời, thấy xót xa cho cuộc đời khoa cử vô vọng, không có khả năng đùm bọc vợ con, ngược lại trở thành một gánh nặng để vợ phải một mình gánh gồng tất thảy. Bên cạnh ý giải thích, câu thừa đề này còn bộc lộ thành quả sau bao ngày tháng vất vả của bà Tú.
Điều đó thể hiện thông qua hai từ “nuôi đủ”, không thừa cũng không thiếu, gần giống với câu thành ngữ dân gian “Khéo ăn thì no, khéo co thì ấm”. Có thể thấy rằng bà Tú là một người phụ nữ cực kỳ tảo tần, tháo vát, dù với công việc khó khăn, với hai gánh nặng đè trên đôi vai nhưng một tay bà vẫn cáng đáng đâu vào đó, đảm bảo cho chồng con một cuộc sống đủ đầy. Hoàn thành xuất sắc trách nhiệm của một trụ cột kinh tế trong gia đình, thậm chí vĩ đại hơn nhiều đấng mày râu khác trong việc đảm bảo đời sống vợ con. Có thể nói rằng đằng sau hai chữ nuôi đủ này ta thấy cả một cái sự biết ơn, trân trọng, ngưỡng mộ mà Tú Xương dành cho người vợ kết tóc của mình. Hình ảnh bà Tú còn được tiếp tục tái hiện thông qua hai câu thực.
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”.
Nghệ thuật nổi bật ở đây là nghệ thuật đảo cấu trúc, nhấn mạnh hai từ “lặn lội” và “eo sèo” khi đặt chúng ở đầu mỗi câu thực, đó cũng là hai động thái mưu sinh của bà Tú. Trước hết từ “lặn lội” là một từ tượng hình, gợi ra dáng vẻ vất vả nhọc nhằn xông pha nơi đầu sóng ngọn gió của bà Tú, từ tượng thanh “eo sèo” lại tái hiện hình ảnh của bà Tú trong công việc mưu sinh đời thường, đó những tiếng ì sèo mặc cả, ngã giá, bon chen, giành khách giữa buổi chợ đông, cốt sao để thu được nhiều lợi tức nhất. Tác giả cũng tái hiện lại bối cảnh làm việc của bà Tú, có phần cụ thể và chi tiết hơn. “Khi quãng vắng” là bối cảnh không gian vắng vẻ, heo hút, đồng thời cũng cho chúng ta thấy bối cảnh thời gian khi sáng sớm hoặc khi tối muộn, cả không gian và thời gian đều chứa đựng trong đó nhiều bất trắc nguy hiểm. “Buổi đò đông” cũng là một môi trường làm việc quá khó khăn, lắm bon chen, thị phi, đồng thời cũng ẩn chứa nhiều nguy cơ cho bà Tú trong lúc mải mưu sinh.
Không chỉ dừng lại ở việc tái hiện hình ảnh bà Tú trong lao động bằng những chi tiết tả thực, mà Tú Xương còn dùng một hình ảnh ẩn dụ rất kinh điển trong ca dao Việt Nam ấy là “thân cò”. Hình ảnh này gợi ra thân ảnh bà Tú đang đơn độc, lầm lũi cặm cụi trong công việc mưu sinh trong bối cảnh công việc vất vả, khó nhọc, vô cùng đáng thương. Đồng thời “thân cò” cũng gợi cho người đọc nghĩ về dáng vẻ, thân phận của người lao động, người phụ nữ trong xã hội cũ, ở họ đều có những đặc điểm chung là sự khốn khó, cam chịu và hoàn cảnh tội nghiệp. Chuyển sang hai câu thơ luận hình ảnh của bà Tú tiếp tục hiện lên trong nỗi lòng yêu thương và trân trọng của chồng.
“Một duyên, hai nợ, âu đành phận,
Năm nắng, mười mưa, dám quản công”
Tú Xương đã vận dụng một cách tài tình các thành ngữ dân gian để khắc họa những nỗi vất vả cơ cực của bà Tú trong cả cuộc đời, trong cuộc hôn nhân với Trần Tế Xương. “Một duyên hai nợ”, xuất phát từ thuật ngữ “duyên nợ” của nhà Phật, ông đã sáng tạo bằng cách chêm xen các số từ “một”, “hai”, thể hiện ý nghĩa sâu sắc rằng trong cuộc hôn nhân này, cái duyên thì chỉ có một, nhưng cái nợ thì có tới hai. Và bà Tú thực sự là người chịu nhiều thiệt thòi, bởi duyên ít mà nợ nhiều, hạnh phúc ấm áp chẳng có bao nhiêu, mà cay đắng khổ cực thì nhiều. Bên cạnh thành ngữ “duyên nợ” thì tác giả còn sử dụng thêm thành ngữ “năm nắng mười mưa”, nắng mưa đều là những yếu tố chỉ thời tiết bất lợi, trong bài thơ là ý chỉ sự khắc nghiệt của cuộc đời mà bà Tú phải gánh chịu.
Bên cạnh nghệ thuật dùng thành ngữ, thì Tú Xương còn thể hiện tính cách, tâm hồn của bà Tú trong các vế tiểu đối “âu đành phận”và “dám quản công”, thể hiện sự nhẫn nhịn, cam chịu, không nề hà than thân, trách phận của bà Tú, đồng thời cũng là đặc điểm chung của những người phụ nữ trong chế độ phong kiến, một lòng thờ chồng, thờ con. Nổi bật lên vẻ đẹp tâm hồn của bà Tú ấy là đức hi sinh và lòng vị tha cao cả, xuất phát từ tấm lòng yêu chồng và thương con tha thiết. Như vậy qua sáu câu thơ đầu, bà Tú đã hiện lên với hai đặc điểm vừa đáng thương lại cũng vừa đáng trọng.
Thông qua nỗi lòng thương vợ bộc lộ dọc bài thơ thì hình ảnh ông Tú cũng hiện lên một cách thấp thoáng. Trước hết ông là một người biết yêu thương, quý trọng và biết tri ân vợ, và trong bối cảnh xã hội xưa có được một người đàn ông biết yêu thương quý trọng người bạn đời của mình như thế là không nhiều, bởi họ còn nặng tư tưởng trọng nam khinh nữ, nhất phu đa thê. Tình cảm yêu thương của ông Tú được thể hiện gián tiếp qua việc khắc họa hình ảnh bà Tú, đồng thời thể hiện trực tiếp thông qua lời khen, lời ghi nhận công lao của ông Tú đối vợ “Nuôi đủ năm con với một chồng” theo lối nói hài hước, tếu táo và có chút tự trào.
Tú Xương cũng hiện lên là một người có nhân cách thông qua những lời tự trách “một duyên hai nợ”, ông tự nhận mình là cái “nợ” mà bà Tú phải gánh chịu, phải trả ở kiếp này. Sự tự trách ấy còn được thể hiện ở hai câu thơ cuối bài “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc, Có chồng hờ hững cũng như không!”, đó là tiếng chửi ném vào chính mình bởi thấy áy náy và day dứt vì không hoàn thành trách nhiệm của một người đàn ông trong gia đình, sau đó là ném vào xã hội, cái xã hội để cho sự bất công được hiện diện một cách hiển nhiên. Tiếng chửi và lời tự trách thấp thoáng trong cả bài thơ là xuất phát từ ý thức trách của người chồng, người cha trong gia đình, đồng thời cũng là ý thức về sự bất lực của bản thân khi khi không thể làm gì đỡ đần vợ con, về sự bất đắc chí trong công danh. Sự tự trách cũng là xuất phát từ lòng yêu thương, sự cảm thông sâu sắc của ông Tú dành cho người vợ kết tóc của mình trong công cuộc mưu sinh, trong cuộc hôn nhân không mấy mỹ mãn này với ông.
Qua bài thơ ta thấy hiện lên hình ảnh của một người phụ nữ vừa đáng thương vừa đáng trọng, đồng thời bộc lộ được rõ nét vẻ đẹp tâm hồn của bà Tú với đức hy sinh cao cả, sự đảm đang tháo vát, có lòng vị tha và lòng yêu thương chồng con tha thiết. Bên cạnh đó ta còn thấy được sự yêu thương của ông Tú đối với vợ mình và vẻ đẹp nhân cách của ông qua những lời tự trách, trào phúng.
Bài văn cảm nhận về bài thơ "Thương vợ" của Tú Xương số 8
Nhà thơ Tú Xương tên thật là Trần Tế Xương là một trong những nhà thơ trào phúng của nền văn học Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. Bên cạnh những tác phẩm mang ý nghĩa trào phúng phê phán, lên án xã hội cũ ông còn những tập thơ trữ tình rất độc đáo. Một trong những tác phẩm tiêu biểu có giá trị lớn là bài thơ "Thương vợ".
Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vẵng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không!
Có thể nói ông là một trong những nhà văn, nhà thơ có cuộc đời lận đận trong đường công danh, mặc dù là người thông minh nhưng ông đi thi đến lần thứ tám mới đậu được cái tú tài. Nhà nghèo lại đông con, nghề dạy học lại bấp bênh trong xã hội suy tàn lúc bấy giờ, chính vì thế bà Tú lại chính là người trụ cột trong gia đình lo cái ăn, cái mặc cho chồng con. Người vợ hiền đảm đang ấy đã cho ông cảm hứng sáng tác bài thơ "Thương vợ". Đây cũng là nỗi lòng của chính ông muốn nói với người vợ đảm đang, tần tảo sớm hôm không một lời oán thán. Mở đầu bài thơ Tú Xương đã khái quát phần nào nghề nghiệp của bà Tú và hoàn cảnh gia đình mình:
"Quanh năm buôn bán ở mom sống,
Nuôi đủ năm con với một chồng".
Cảm nhận về bài thơ Thương vợ của Tú Xương
Ông là trụ cột trong gia đình thế nhưng cuộc sống của gia đình lại dự vào việc buôn bán chạy chợ của vợ. Tác giả dùng từ "mom" bao hàm tính chân thực rất rõ, đây là từ gợi hình ảnh rõ nét để người đọc thấy được nỗi gian truân của bà Tú buôn bán quanh năm bên bờ sông Vị, nơi làm ăn là cái thế đất chênh vênh, nhiều nguy hiểm. Câu thơ đầu tác giả cho chúng ta thấy tấm lòng của nhà thơ đối với việc buôn bán khó nhọc của vợ. Thế nhưng công việc buôn bán vất vả ấy lại:
"Nuôi đủ năm con với một chồng"
Câu thơ tả hoàn cảnh rõ ràng "năm con với một chồng" không phải ngẫu nhiên mà ông lại sử dụng số đếm trong thơ. Mà ông đếm ở đây với mục đích vừa tăng thêm gánh nặng, sự vất vả tần tảo của bà Tú vì gia đình. Và đến ngay cả chồng cũng thành số đếm như một nghịch lý tức cười thay vì ít nhất chồng cũng phải nuôi đủ bản thân mình nhưng thực tế bà Tú lại là người nuôi chồng. Hoàn cảnh gia đình đã thế mà bà Tú gánh trên vai năm đứa con đã là vất vả, lại thêm một ông Tú trong nhà nữa. Câu thơ ẩn chứa nỗi niềm chua chát của tác giả về một gia cảnh gặp nhiều khó khăn: đông con và mọt ông chồng không làm được gì quanh năm chỉ đèn sách với thi cử. Để từ đó:
"Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông"
Hai câu thơ tiếp theo ngôn ngữ thơ đã tăng lên cấp độ mới, càng tô đậm thêm nỗi cực nhọc của người vợ. Từng chữ trong câu như những nét vẽ, gam màu nối tiếp nhau, hòa quyện và cùng bổ trợ làm gia tăng nỗi cực nhọc của bà Tú. Người vợ của tú Xương đã "lặn lội" nhưng lại mang "thân cò", rồi có lúc trong hoàn cảnh "quãng vắng". Nỗi cực nhọc kiếm sống mưu sinh ở "mom sông" tưởng như không thể nào nói hết được! Nhà thơ lấy hình ảnh "con cò" trong ca dao cổ: "Con cò lặn lội bờ sông...", "Con cò đi đón cơn mưa...", để tái hiện hình ảnh "thân cò" lầm lũi, đã đem đến cho người đọc bao liên tưởng cảm động về bà Tú, cũng như thân phận vất vả, cực khổ, của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội thời bấy giờ. Hình ảnh lặn lội thân cò được tác giả mô phỏng trong thi ca dân:
"Con cò lặn lội bờ sông
Gánh tạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non"
Hai câu thơ tuy ngắn nhưng lại mang ý nghĩa gợi hình ảnh chân thực về bà Tú: Với tấm thân mảnh dẻ, yếu đuối bà Tú chịu dãi nắng dầm sương, bà còn phải lặn lội sớm trưa tất cả cũng chỉ vì miếng cơm manh áo. Tấm thân cò trong cái phản chiếu của nắng chiều là hình ảnh lẻ loi, hiu quạnh, lúc cần không biết nương tựa vào đâu, chưa nói đến những hiểm nguy bất trắc đối với thân gái dặm trường. Câu thơ mang lại cho độc giả nhiều suy ngẫm, sự đồng cảm đến xót xa, tội nghiệp! Hình ảnh bà Tú đại diện cho những người phụ nữ trong xã hội thối nát bấy giờ. Những người phụ nữ ấy chỉ biết lặng lẽ hi sinh cho chồng cho con, họ cam chịu sự xô đẩy của xã hội, để rồi Tú Xương lại chính là người nói lên tâm tư của vợ:
"Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công"
Hai người nên duyên với nhau được là do duyên phận trời se, vì thế mà bà "âu đành phận". Đành phận lại như một sự bất đắc dĩ, xếp lại, nén xuống những gì bất bình, tủi nhục của bản thân mình đã và đang từng ngày phải trải qua. Câu thơ khép lại bằng âm thanh nặng nề của từ phận lại càng làm cho câu thơ phù hợp với cảm xúc bị dồn nén vào trong. Bà Tú vất vả là thế, dầm mưa dãi nắng nhưng nào dám kể công lao với chồng, với con, mà luôn lặng lẽ dồn nén cam chịu.
"Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không"
Tình cảm của tác giả thương vợ chất chứa trong lòng đến nghẹn thở, lại không thể giúp được người vợ hiền mà nhà thơ tự trách mình. Bản thân ông trở thành một miệng ăn cho vợ nuôi, điềm nhiên hưởng thụ trong khi vợ phải ngược xuôi tần tảo, nghe cũng đã có cái gì đó bất nhẫn. Tất cả tâm tư tình cảm ấy bùng nổ ở hai câu thơ kết "Cha mẹ thói đời..." như một lời chửi đổng với đời và cũng chính là lời xỉ vả mình. Câu thơ thất chua chát, đắng cay ông trách mình, hận mình đã để vợ vất vả, sống khổ cực luôn chạy đôn, chạy đáo lo cho gia đình. Nhưng thực tế bà Tú lại không hề oán trách chồng con một lời nào. Cũng chính sự cam chịu, chịu thương chịu khó mà ông lại càng thấy mình có lỗi, càng thấy oán trách bản thân hơn. Ở vào hoàn cảnh như thế ông coi mình là người ăn ở bạc bẽo với vợ. Bà Tú có chồng mà cũng như không vì bà chính là người nuôi sống gia đình.
Bằng tình cảm chân thành, nghệ thuật sống động, Tú Xương đã miêu tả phẩm chất tốt đẹp của người vợ, người phụ nữ giỏi giang, lam lũ, tần tảo nuôi chồng nuôi con. Bà Tú là đại diện cho những người phụ nữ Việt Nam xưa. Bao nhiêu công lao trong gia đình, ông Tú dành cho bà, ông chỉ nhận về cho mình một chữ "không".
Bài thơ xuyên suốt là tình cảm của tác giả dành cho người vợ hiền, ông dành sự kính trọng, mọi công lao, những gì tốt nhất dành cho bà Tú. Ngôn ngữ thơ dung dị, đời thường, sử dụng nhiều yếu tố dân gian, bài thơ có giá trị nhân văn sâu sắc.
Bài văn cảm nhận về bài thơ "Thương vợ" của Tú Xương số 4
Trong lịch sử văn học nước ta xưa nay, thơ viết về vợ vốn không nhiều. Do đó, thơ hay nghĩa là viết chân thật, sâu sắc và xúc động về đề tài này lại càng hiếm hoi. Vì vậy có thể xem Trần Tế Xương là một trường hợp đặc biệt. Trong thơ mình, ông nói đến vợ rất nhiều lần.
Khi thì lăm le bia đá bảng vàng cho vang mặt vợ. Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ. Đem chuyện trăm năm giở lại bàn. Khi thì Vuốt râu nịnh vợ con bu nó. Lại có lúc Viết vào giấy dán ngay lên cột. Hỏi mẹ mày dốt hay hay. Cao hứng và ngông nghênh hơn, nhà văn đã viết văn tế để tế sống vợ. Nhưng đỉnh cao mảng thơ này của ông phải nói là bài thơ Thương vợ:
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không!
Đây là một bài thơ trữ tình - trào phúng đậm sắc dân gian đầy cảm động. Để bộc lộ lòng thương quý, biết ơn và trân trọng vợ mình, nhà thơ đã cực tả nỗi nhọc nhằn lao khổ của bà, người đàn bà đã một thân một bóng tần tảo nuôi con và chồng. Qua đây, ông ca ngợi đức tính đảm đang, lòng hi sinh thầm lặng cao cả một bậc hiền phụ. Trong hai câu thơ đầu, Tú Xương đã nói về sự vất vả và nhẫn nại của vợ mình một cách tự nhiên, thân mật, dí dỏm và hóm hỉnh. Ông vừa giới thiệu cái gánh nặng chồng con trên vai bà vừa cho thấy một cách gián tiếp tình cảm sâu nặng của mình dành cho vợ:
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Hai câu thơ là một lời chấm công. Trong câu thơ đầu, bản thân công việc buôn bán tuy chưa đủ thể hiện được sự vất vả hay nhẫn nại nhưng hoàn cảnh thời gian (quanh năm) và hoàn cảnh không gian (ở mom sông) thì lại nói khá rõ về điều đó. Quanh năm, chỉ hai tiếng ấy thôi cũng đã chứa đựng biết bao nhiêu là thời gian nối tiếp nhau triền miên không dứt, suốt từ đầu năm đến cuối năm, cho dù mưa gió, nắng nôi, lúc nào cũng như lúc nào, bà vẫn miệt mài buôn bán. Đó là hoàn cảnh thời gian. Còn hoàn cảnh không gian, còn chỗ làm ăn? Đó là mom sông. Mom sông theo giáo sư Lê Trí Viễn là một địa thế thừa của đất liền ba bề là nước, đổ ùm xuống sông lúc nào không biết chừng (Lê Trí Viễn - Những bài giảng văn ở Đại học, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1982). Bà Tú đã phải ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác, buôn bán làm ăn ở cái mom sông chênh vênh không vững vàng gì ấy. Vì sao bà phải vất vả đến như vậy? Câu thơ thứ hai đã trả lời rõ:
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Nhà thơ đã nâng cao vợ mình lên hàng trụ cột của gia đình. Cả một gánh nặng sinh kế đã đặt lên vai người phụ nữ. Bà quanh năm khó nhọc, vất vả, bất kế nguy hiểm, gian nan là để nuôi đủ năm con và một chồng nghĩa là sáu miệng ăn hết thảy chưa kể cả chính mình. Nhưng đồng thời ông cũng đã tự hạ mình xuống thành ngang hàng với lũ con, nói đúng hơn là ông đứng cuối hàng sau năm con để thành ra thứ sáu Với một chồng thể hiện rõ ra ông là ăn theo, ăn ké lũ con. Nhà thơ tự thấy mình là gánh nặng của vợ. Cách nói ấy hàm ý vừa biết ơn vừa tự hào mà lại có chút gì đó hối hận, ăn năn, mỉa mai mình một cách thâm trầm hóm hỉnh. Tiếp theo là hai câu thực nhà thơ đã thể hiện tình thương vợ của mình bằng cách miêu tả cái vất vả, gian nan mà cũng là cái đảm đang của bà Tú:
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông
Mượn hình ảnh cô đơn, vất vả của con cò trong ca dao xưa: con cò lặn lội bờ sông... ông trau chuốt thêm bằng bàn tay nghệ sĩ tài hoa của mình. Nếu ca dao thường dùng hình ảnh con cò để so sánh, ví von gián tiếp về người phụ nữ, nói rõ hơn là người vợ, người mẹ cặm cụi tảo tần thì ở đây Tú Xương đã đồng nhất trực tiếp thân cò với thân phận người vợ. Nhà thơ lại dùng phép đảo ngữ Lặn lội thân cò để nhấn mạnh vào sự vất vả, lam lũ của vợ mình. Đã vậy cái khung cảnh không gian kiếm ăn của thân cò ở đây không phải chỉ là một cái bờ sông bất kì nào, có thể nhộn nhịp đông vui hay lặng lẽ, buồn thiu mà lại được nhà thơ xác định rõ là quãng vắng. Tất cả những điều vừa phân tích đều nhằm để nói và đã nói được cái vất vả gian truân thầm lặng của người vợ mang số phận thân cò.
Câu thơ tiếp theo nói thêm sự vật lộn với sinh kế của bà Tú. Gặp phải buổi đò đông (bến đông đò hay đò đông người) bà đều phải chịu cảnh bị xô đẩy, tranh giành nhau lời qua tiếng lại eo sèo để mặc cả mua bán như ai. vốn con nhà dòng dõi, chẳng gì cũng là bà Tú vậy mà cũng phải lấm láp, phong trần. Nhà thơ hơn ai hết đã thầm cảm thương cho cảnh ngộ và cả sự hi sinh thầm lặng của vợ mình. Chỉ vì gánh nặng áo cơm của chồng con mà bà Tú đã xông pha quên cả hiểm nguy, khó nhọc... Câu thơ này tuy không trực tiếp trích lời ca dao nhưng vẫn đâu đây thấp thoáng ý tình: Con đi mẹ dặn lời này, Sông sâu chớ lội, đò đầy khoan sang. Đó là lời dặn thân gái phải giữ mình. Song ở đây chỉ vì chồng con mà bà Tú phải đành lòng làm ngơ trước lời dặn ấy.
Chỉ với hai câu thơ bằng những từ ngữ gợi tả và cảm động, Tú Xương làm hiện lên rõ nét hình ảnh một người vợ thui thủi làm ăn, một mình toan lo lặn lội trong những khung cảnh không gian và hoàn cảnh thời gian vất vả, gian nan nhất, đáng thương và đầy ái ngại nhất. Nhiều người cũng cho rằng đây là hai câu thơ hay nhất của bài thơ. Theo giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh, với hai câu thơ này Tú Xương chẳng những đã khái quát được nỗi vất vả, cơ cực, nhọc nhằn của bà Tú mà còn gợi lên được khung cảnh buôn bán nơi bãi chợ bến sông của tỉnh Nam Định một thời.
Nếu bốn câu thơ đầu vừa phân tích hoàn toàn là lời ông Tú nói về vợ mình thì bốn câu sau lại thể hiện giọng bà Tú tự than thân, trách phận chính mình. Nói đúng hơn là đến đây nhà thơ không đứng ngoài khách quan để miêu tả nữa, ông đã nhập thân vào nhân vật thảo ra lời bà vợ để than thở giùm bà một cách chủ quan hơn:
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công
Duyên, tiếng nhà Phật có nghĩa rất rộng. Trong mối quan hệ vợ chồng, duyên là cái căn nguyên từ trước, do đó, mà vợ chồng lấy được nhau hoặc lấy phải nhau. Từ ý nghĩa vừa nói, dân gian ta đã làm thành một cặp khái niệm đối lập nhau:
duyên và nợ (Một duyên, hai nợ, ba tình. Duyên dì anh nợ gì tôi, chẳng qua là cái nợ đời chi đây...). Như vậy trong dân gian Một duyên hai nợ là chỉ sự may rủi của đời người con gái. Nhưng ở đây trong thế đối ngẫu với câu dưới. Một duyên hai nợ trong câu thơ của Tú Xương lại có ý nghĩa khác hẳn: một, hai không còn là số đếm nữa mà là số tính, số nhân: duyên chỉ có một mà nợ đến những hai duyên thì ít mà nợ thì nhiều. Bà Tú lấy được ông Tú ngẫm cho kĩ đó cũng là duyên. Ông cũng đỗ đạt hơn người thường một chút. Chỉ có vậy thôi. Chứ còn ông là chồng mà lại dở dở ương, khoán trắng.
Tiền bạc phó cho con mụ kiếm; Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ... thì đúng là một thứ nợ đời. Duyên thì ít mà nợ thì nhiều là như vậy. Cái vất vả, cực nhọc của lặn lội thân cò ở câu thơ trên đến đây đã được nâng lên thành cái vất vả, cực nhọc của một số phận là định mệnh của cả một kiếp người nên nặng nề và cay cực biết bao. Đã là số phận thì phải âu đành. Âu có nghĩa là cam mà đành cũng là cam. Một câu thơ mà những hai lần cam chịu. Vì cam chịu nên Năm nắng mười mưa dám quản công là vậy. Cho dầu nắng mưa đến mấy (Năm nắng mười mưa) bà vẫn không chút e ngại, chẳng tiếc chi công sức của mình. Dám quản công là không những chỉ có ý nghĩa như vừa nói mà còn cho thấy ý khiêm nhường. Nổi lên thêm từ hai câu thơ là đức tính hi sinh, nhẫn nhịn âm thầm của bậc hiền phụ. Đây cũng là đức tính truyền thống của người phụ nữ Việt Nam từ xưa đến nay. Đã thấy tấm lòng thương vợ của nhà thơ là thấm thía và sâu sắc biết mấy. Sau cùng, hai câu kết của bài thơ là một lời chửi rủa:
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không!
Thác lời của bà Tú, nhà thơ đã chửi rủa chính cái bạc bẽo và cái vô tích sự của người chồng nghĩa là của chính mình. Tất cả nỗi thương vợ cùng với sự bất lực giận mình, giận đời đã lắng đọng trong tiếng chửi rủa đầy day dứt, xót xa kia. Nhưng thực sự ông có bạc bẽo, hờ hững với vợ mình không? Điều này khó trả lời.
Nhưng ngẫm cho cùng, bài thơ này đã giải đáp phần nào câu hỏi ấy. Hơn nữa, tự coi mình cũng như không cũng như một người thừa, một kẻ hờ hững sống đấy mà cũng như đã chết thì tuy đó là lời rủa mình nhưng cũng là lời ca ngợi và đề cao công ơn của vợ. Tuy là một lời chửi rủa nhưng hai câu thơ kết vẫn đượm thắm màu sắc vui đùa. Nhà thơ phán xét tự trách mình cũng là cách biểu hiện sự thương cảm sâu xa với vợ. Ông nói ăn ở bạc nhưng lòng ông không bạc, không hờ hững với bà chút nào cả.
Như vậy Thương vợ đúng là một bài thơ hay cho ta hình dung được nỗi lòng thương yêu mênh mông chân thành và sâu sắc của nhà thơ đối với người vợ chịu thương, chịu khó, hi sinh, khó nhọc, vất vả một cách lặng thầm vì gánh nặng chồng con. Với một bài thơ trữ tình giàu hình ảnh, nhạc điệu, ngôn ngữ tự nhiên, dân dã, nhà thơ không những đã thể hiện được tình cảm ấy của mình mà còn tạo nên được một bức chân dung bất hủ có tính truyền thống của người phụ nữ Việt Nam với đầy đủ các đức tính đáng quý là đảm đang, cần cù, nhẫn nại, hi sinh.
Bài văn cảm nhận về bài thơ "Thương vợ" của Tú Xương số 6
Nói đến thơ trào phúng không ai có thể quên ông, một giọng thơ đã kích, phê phán sắc sảo, cay độc, mạnh mẽ hiếm có. Chế Lan Viên từng viết: "Tú Xương cười như mảnh vỡ thủy tinh". Nhưng Trần Tế Xương không chỉ là một nhà thơ hiện thực chủ nghĩa như vậy, nói như Nguyễn Tuân, chất hiện thực ấy chỉ là "chân trái", còn "chân phải" của ông là chất trữ tình. Trân trọng cảm phục và nhớ tới thơ Tú Xương nhiều hơn có lẽ do người đời được nghe nhịp đập của một trái tim chân thành, giàu cảm xúc, biết trọng nhân cách, mang một nỗi đau vời vợi không nguôi. Buồn vì không có tiền để giúp một người ăn mày, một đồng bào cùng cảnh ngộ, ông thề độc: "Cha thằng nào có tiếc không cho". Mang nỗi nhục nô lệ của một tri thức, ông chua chát: "Nhân tài đất Bắc kìa ai đó! Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà"...
Đó là ngoài xã hội, còn trong gia đình ông luôn bị dày vò bởi cảm giác thiếu trách nhiệm, Tú Xương "thương vợ", có chồng mà phải gánh vai trụ cột, ông tự xỉ vả cái vai trò "hờ hững" của mình.
Chắc rằng các cụ ông ngày xưa phần lớn là thương vợ thương con, nhưng vì một quan niệm nào đấy, thường ngại bộc lộ tình cảm của người chồng, nhất là lại thể hiện tình cảm với người vợ một cách trực tiếp qua giấy trắng mực đen, qua văn chương thì lại càng ít. Thế kỉ XIX, có hai nhà thơ cùng người thành Nam, Nguyễn Khuyến và Tú Xương, đã không ngần ngại nói lên tình thương yêu của người chồng đối với vợ ngay khi các bà còn đang sống. Nhưng về chủ để này, Thương vợ của Tú Xương là bài thơ nổi tiếng hơn cả.
Nổi bật trong bài thơ là hình ảnh hai con người: một người vợ tần tảo giàu đức hi sinh và một người chồng biết cảm thông chia sẻ, thương yêu và quý trọng vợ rất mực.
Hai câu thơ đầu giới thiệu về nghề nghiệp của bà Tú cũng như trách nhiệm nặng nề của bà:
Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Buôn bán cùng là một nghề như mọi nghề khác, người ta hành nghề để kiếm sống. Người xưa còn coi đây là nghề duy nhất nếu muốn làm giàu (phi thương bất phú). Nhưng việc buôn bán của bà Tú thì không được thế. Chẳng có cửa hàng, cửa hiệu, quán xá gì, mà chỗ bà "kinh doanh" là ở "mom sông". Hai chữ "mom sông" đã gợi lên hình ảnh một khoảnh đất nhô ra ở bờ sông, có thể nước xuống thì còn, nước lên thì mất, có thuyền qua thì thành chợ không thì thôi, cũng có thể chợ họp một lát vào buổi sáng hoặc buổi chiều. Lèo tèo đôi ba gánh hàng, chỗ dành cho người buôn thúng bán bưng, lưng vốn ít ỏi, lấy công làm lãi, chắc chắn thu nhập chẳng đáng là bao.
Thế mà công việc khó nhọc ấy, bà Tú không chỉ chịu đựng một hai buổi mà phải theo đuổi "quanh năm". Chữ "quanh năm" gợi một thời gian đằng đẵng, là 12 tháng, từ tháng giêng đến tháng chạp, cũng có nghĩa là hết năm này đến năm khác. Cái công việc nặng nề ấy dường như theo đuổi bà Tú suốt cả đời, bởi nó chẳng làm cho bà khá hơn lên để có việc khác nhàn nhã hơn hoặc phát triển việc "buôn bán" lên một cấp độ cao hơn.
Công việc thì nhọc nhằn, thu nhập thì ít ỏi, nhưng bà Tú lại phải lo lắng cho cả một gia đình sáu miệng ăn. Hơn nữa, không phải là sáu mà là "năm con với một chồng", "Năm con" là số nhiều, nhưng dù sao cũng chịu được, lo cho chúng chỉ cần bát cơm, manh áo. Nhưng ông chồng, là "một", nhưng là chi phí bằng cả năm đứa con kia. Có khi còn hơn thế nữa! Mỗi khi ông lều chõng đi thi, tiền lưng gạo bị lại đổ lên đầu vợ, chưa nói đến khi đồng chè đồng rượu, cao hứng còn lên phố đi hát, cũng tiền vợ nốt... Nhiều khoản chi như thế nhưng lúc nào bà cũng lo "đủ". Thật là đảm đang tháo vát biết chừng nào, chiều chồng biết chừng nào!
Được cái tiếng thơm ấy, thật không dễ dàng gì, bà Tú phải đổi bằng biết bao công sức:
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Câu thơ gợi hình ảnh con cò trong những câu ca dao quen thuộc:
... Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non
... Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao
Hình ảnh về một loài chim hiền lành, chăm chỉ âm thầm nhặt nhạnh, kiếm ăn nơi ruộng lúa, bãi sông đã trở thành biểu tượng về những người phụ nữ lam lũ suốt đời vì chồng, vì con, chẳng mấy khi nghĩ đến bản thân mình.
Trong thơ Tú Xương, không phải là con cò mà là thân cò. Không còn là một con vật cụ thể mà là thân phận, số phận, một cái gì rất mỏng manh, nhỏ bé trước biết bao vần vũ của cuộc đời (Thương thay thân phận con rùa /Thân em như chẽn lúa đòng đòng /Thân em như hạt mưa sa...). Yếu đuối quá, bị động quá mà luôn phải lăn lộn, bươn chải. Khi quãng vắng thì lặn lội, buổi đò đông thì chịu cảnh eo sèo. Hai tính từ được đối nhau ở đầu hai câu thơ vừa giàu tính tạo hình vừa giàu tính biểu hiện. Kia một người phụ nữ gầy yếu như thân cò, gánh nặng trên vai, một thân một mình, bước trầy trật trên con đường lầy lội. Hàng cất về rồi, tránh mưa gió thì mất tiền, nên phải lặn lội ra đi. Và kia nữa cũng thân cò ấy lại phải xù lông xù cánh chao chát, cãi cọ tranh mua tranh bán, tranh xuống cho kịp đò, tranh lên cho kịp chợ. Chỗ đông người thì vã mồ hôi, quãng vắng thì trào nước mắt.
Nhưng đó là bà Tú trong con mắt của ông Tú, còn với bà không hề có một lời kêu ca phàn nàn mà là một thái độ chịu đựng vốn thường có của người phụ nữ phương Đông.
Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Những số từ được dùng rất khéo, vừa theo thứ tự tăng dần vừa đối nhau: một, hai, năm, mười, gợi được những khó khăn chồng chất ngày một tăng dần, và sức lực phi thường của người vợ, gánh vác tất cả. Thật là kiên cường nhưng sao mà tội nghiệp! Phần lớn phụ nữ nhờ chồng mà được hưởng niềm sung sướng, còn với bà Tú chỉ là thêm một món nợ cả đời. Nhập thân vào nhân vật Trần Tế Xương nói hộ những nỗi thiệt thòi của vợ nhưng đồng thời cũng thấy rõ cái đức hi sinh của người bạn đời. Kết thúc hai câu thơ cũng là sau những khó khăn được đưa ra là lời khẳng định: âu đành phận /dám quản công. Một thái độ dứt khoát, một sự chấp nhận không cần bàn cãi, một cách ứng xử hiển nhiên. Người phụ nữ Việt Nam là vậy, bà Tú Xương là vậy, họ coi "giang sơn nhà chồng" là việc của mình, họ tự nguyện gánh vác không so đo oán than.
Bà chỉ âm thầm chịu đựng, cho nên ông Tú đã trách hộ bà:
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không.
Lời thơ như là tiếng chửi. Mà là chửi thật: "Cha mẹ thói đời..." Không phải là người vợ chịu nhiều vất vả thiệt thòi chửi mà người chồng tự chửi mình đấy thôi. Chữ "hờ hững" nghe sao mà chua chát. Bà Tú lấy phải một ông chồng bạc bẽo, chẳng giúp gì cho gia đình, cho vợ, chẳng làm được trụ cột lại còn để vợ phải nuôi báo cô. Thật là có chồng mà như không có, thậm chí còn khổ hơn không chồng. Câu thơ có chút vị đắng trong thơ Lấy lẽ của Hồ Xuân Hương:
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm
Cầm bằng làm mướn mướn không công.
Thân này ví biết dường này nhẽ
Thà trước thôi đành ở vậy xong.
Tóm lại, nổi bật trong bài thơ là hình ảnh bà Tú hiện thân của cuộc đời vất vả lận đận, là hội tụ của bao đức tính tốt đẹp: tần tảo, đảm đang, nhẫn nại... quên mình lo toan cho cuộc sống của chồng con.
Có một con người không xuất hiện trực tiếp là ông Tú, nhưng con mắt và trái tim của ông thì luôn luôn hiện hữu. Con mắt ông nhìn thấy rõ mọi nỗi đắng cay cực nhọc hàng ngày, và con tim thì thấu hiểu những nỗi cô đơn, tâm trạng âm thầm chịu đựng của bà. Bài thơ Thương vợ là một bản tự kiểm điểm, tự khiển trách hết sức chân thành và nghiêm khắc của Tú Xương. Mỗi lời thơ như một tiếng thở dài đau xót của một con người rất có ý thức trách nhiệm, nhưng bất lực. Đó là tấm lòng thương yêu cảm phục và biết ơn rất chân thành của người chồng đối với người vợ vì mình mà chịu nhiều đắng cay vất vả.
Bài văn cảm nhận về bài thơ "Thương vợ" của Tú Xương số 5
Nhắc đến những nhà thơ trào phúng trung đại thì người ta nhớ đến đầu tiên có lẽ là Trần Tế Xương. Quả thật thơ ông mang những nét trào phùng đặc biệt nhất, nó không nhẹ nhàng nhưng thâm thúy sâu cay như Nguyễn Khuyến mà nó sâu cay, cười mỉa mai trước những cái sự đời. Cũng giống như Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương cũng có bài thơ tự cười mình, không chỉ cười xã hội mà ông còn cười chính bản thân mình. Và cũng chính vì thế mà Nguyễn Khuyến có bài tự trào thì Trần Tế Xương cũng có bài Thương vợ. Nhan đề bài thơ gợi lên cho ta tình cảm của nhà thơ dành cho người vợ mình nhưng đồng thời nội dung bài thơ còn thể hiện một tiếng cười về bản thân bất tài vô dụng của Trần Tế Xương.
Hai câu thơ mở đầu Trần Tế Xương đã kể lên những nỗi vất vả của người vợ thương yêu của mình. Đó là sự vất vả được hiện lên và mục đích của công việc ấy:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng”
Hình ảnh người vợ của Trần Tế Xương hiện lên giống như những người phụ nữ, người mẹ nào trong hình dáng người phụ nữ ngày xưa với cái nghề buôn bán. Chỉ cần có thế mà biết bao nhiêu hình ảnh giản dị hay lam hay làm của người phụ nữ xưa hiện ra. Đó là hình ảnh người phụ nữ áo nâu váy đụp gánh tất cả những hàng hóa trên đôi vai nhỏ bé của mình ra chợ rồi lại từ chợ về nhà. Người vợ của nhà thơ hiện lên cũng với hình ảnh ấy và công việc ấy đặc biệt rằng công việc ấy được diễn ra thường xuyên qua hai từ “quanh năm”. Người phụ nữ ấy làm việc vất vả quanh năm cũng chỉ một công việc đó từ năm này qua năm khác. Thế nhưng địa điểm không phải trên những mặt đất bằng phẳng mà lại ở mom sông gợi sự vất vả, nguy hiểm. Như vậy vợ nhà thơ là một người không những vất vả mà còn phải đối mặt với nguy hiểm. Thế nhưng bà Tú làm như vậy để được gì, không chỉ nuôi bản thân mình mà bà Tú còn phải nuôi đủ "năm con với một chồng”. Ở đây nhà thơ đang tự cười chính bản thân mình. Chồng cũng trở thành một con số đếm ngang hàng với những đứa con trong gánh nặng của người vợ. Không những thế còn là “nuôi đủ” càng chứng tỏ gánh nặng của người vợ kia. Giờ đây quang gánh kia không chỉ đơn giản là những mặt hàng của bà nữa mà trên đó còn có cả năm con với một người chồng.
Sang hai câu thơ tiếp theo người chồng gánh nặng kia lại tiếp tục thể hiện lòng thương vợ của mình và những vất vả mà bà Tú phải trải qua hàng ngày:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.”
Ông chồng người mà được coi là trụ cột của gia đình không chỉ về tinh thần mà còn về kinh tế nhưng giờ đây lại là gánh nặng của vợ mình. Bà Tú phải lặn lội với những nguy hiểm khi đi vào những con đường vắng mà chỉ có một mình. Hình ảnh con cò trong câu ca dao xưa tượng trưng cho người phụ nữ nghèo khổ lại được nhà thơ sử dụng trong bài thơ của mình. Không biết rằng có biết bao nhiêu những khó khăn và nguy hiểm đang rình dập và nuốt lấy vợ mình. Vượt qua những nguy hiểm khó khăn ấy bà Tú vẫn đi đến chợ mom sông trên những buổi đò eo sèo những lời của người mua kẻ bán. Họ đang mặc cả với nhau từng đồng một để lo cho gia đình mình.
Và rồi nhà thơ nói đến duyên phận của mình với vợ và như thay vợ nói lên cái thở dài chán nản trước một người chồng mà lại gánh nặng như một người con thứ sáu trong nhà:
“Một duyên, hai nợ, âu đành phận,
Năm nắng, mười mưa, dám quản công. ”
Người xưa hay có quan niệm về duyên và nợ, hai người lấy nhau thì là có duyên có nợ từ kiếp trước, còn yêu nhau mà không lấy được nhau thì đó là có duyên nhưng không có nợ. Ở đây bà Tú lại có duyên có cả nợ với nhà thơ nên mới chịu cảnh khó khăn khổ cực như thế. Một chữ duyên, hai chữ nợ, thôi thì đành phận với nhau. Nhà thơ lại thể hiện sự vất vả của vợ mình qua “năm nắng, mười mưa”. Câu thơ ấy như gợi lên sự khó nhọc mà trong ca dao cũng nhắc đến như “một nắng hai sương”. Có thể thấy rằng chính cái số đếm cụ thể ấy đã làm nổi bật lên sự khó nhọc của bà Tú. Thế nhưng Bà Tú còn hiện lên đẹp hơn khi không quản công gánh nặng ấy. Bà thương chồng thương con và hi sinh cho chồng con mà không một lời than vãn.
Nhưng chính sự không than vãn và đức hi sinh ấy khiến cho nhà thơ không thể nào yên lòng được:
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc:
Có chồng hờ hững cũng như không!”
Thương vợ Trần Tế Xương cũng như đang tự cười bản thân mình và hai câu thơ cuối này là tiếng chửi to nhất, sâu cay nhất. Tác giả tự thấy bản thân mình ăn ở bạc không thể giúp đỡ được gì cho người vợ chân yếu tay mềm hơn mình rất nhiều, ngẫm thấy có chồng cũng như không. Phải chăng nhà thơ đang chửi rủa dằn vặt chính bản thân mình vì không thể nào giúp đỡ cho vợ?
Qua đây ta thấy nhà thơ Trần Tế Xương thể hiện sự thương vợ sâu sắc. Bài thơ giống như một bức thư, một dòng nhật kí mà nhà thơ muốn gửi đến vợ mình. Đặc biệt bản thân ông ý thức rõ được sự vô dụng của mình mà tự thấy xấu hổ mà tự chửi chính mình. Nói tóm lại dù thế nào đi nữa thì qua đây chúng ta cũng biết được tâm trạng và tình cảm của Trần Tế Xương dành cho vợ mình.
Bài văn cảm nhận về bài thơ "Thương vợ" của Tú Xương số 1
Thương Vợ là bài thơ mang nghệ thuật trào phúng sâu sắc, cả tác phẩm là tiếng lòng của tác giả về xã hội phong kiến xưa và Tú Xương đã sáng tác lên tác phẩm này để nói về hiện thực xã hội của chế độ phong kiến.
Ngay trong đoạn mở đầu của tác phẩm, tác giả đã nói đến sự vất vả của người vợ đó chính là bà tú, quanh năm phải làm việc chăm chỉ, nơi bà làm việc là mon sông, quanh năm ở đây đã thể hiện sự vất vả, bươn trải vì cuộc sống, bà làm nghề bon bán, nhưng số tiền kiếm được cũng chỉ đủ để nuôi năm con với một chồng. Đáng ra người vợ đi làm chỉ để nuôi con, nhưng bà Tú lại phải nuôi cả chồng:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng”
Buôn bán quanh năm vất vẩ ở mom sông, để nuôi nấng cả gia đình, bà Tú vất vả, đúng là qua đoạn này, tác giả đang thể hiện sự vất vả đó qua tác phẩm, đó là sự vất vả của người vợ, trong tác phẩm này, đoạn thơ này đã nói đến sự vất vả của người vợ trong tác phẩm.
Như trong xã hội cũ, người phụ nữ phải chịu những nỗi đau, khổ cực, sự vất vả của cuộc sống, luôn bị xã hội vùi dập, người phụ nữ trong xã hội cũ phải chịu nhiều bất công, vất vả trong cuộc sống, đoạn này đã thể hiện rõ sự vất vả đó. Tác giả đang mô tả những hy sinh, vất vả mà bà Tú đang gặp phải trong cuộc sống, đó là những nỗi đau thương, vất vả, khổ cực mà người phụ nữ xưa đang phải gánh chịu:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông. ”
Thân phận của người phụ nữ đang so sánh với thân cò, lặng lội khi quãng vắng, với những khó khăn và vất vả đó, hình ảnh người phụ nữ ngày càng hiện lên rõ rệt với những khó khăn, vất vả mà con người đang gặp phải trong cuộc sống, lặn lội với những khó khăn, vất vả, eo sèo mặt nước và những buổi đò đông.
Người đàn ông phải là trụ cột và chăm lo cho đời sống của cả gia đình nhưng trong tác phẩm này, người phụ nữ phải chịu những gánh nặng đó, bà Tý lặn lội, bươn trải lo cho cuộc sống của cả gia đình. Những câu thơ tiếp theo tác giả nói đến những hy sinh vất vả của người vợ, không quản ngại, không quản công những ngày nắng gió, người phụ nữ vẫn hy sinh, chịu đựng để lo cho cả gia đình:
“Một duyên, hai nợ, âu đành phận,
Năm nắng, mười mưa, dám quản công. ”
Duyên số cũng đành phận, được làm vợ chồng ấy cũng là duyên số và ây phận đó là nợ mà hai người đến được với nhau. Thế nhưng bà Tú không hề than vãn gì, sự hy sinh thầm lặng của người phụ nữa được mô tả chi tiết, rõ nét trong tác phẩm, đó là nỗi đau khổ, vất vả của người phụ nữ trong gia đình và cuộc sống của mình:
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc:
Có chồng hờ hững cũng như không!”
Những câu cuối tác giả đang tự trách mình không giúp đỡ được gì cho người vợ của mình, chồng hờ hững là những người chồng không giúp đỡ được gì với gia đình, mà chỉ là những người chồng hờ hững, không có ích gì với gia đình, bài thơ đã mang nặng sự phê phán với chế độ xưa, đề cao và ca ngợi người phụ nữ luôn hy sinh cao đẹp trong xã hội.
Bài thơ thương vợ đã mang nhiều yếu tố trào phúng sâu sắc, đó là những mô tả chân thực, khắc họa sâu sắc nhân vật cũng như hiện thực xã hội lúc bấy giờ.
Bài văn cảm nhận về bài thơ "Thương vợ" của Tú Xương số 10
Trần Tế Xương là một nhà thơ trào phúng thời kỳ trung đại, thơ của ông mang nhiều nét trào phúng khá đặc biệt, để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc. Nó thường thể hiện sự sâu cay mỉa mai trước những sự việc lố bịch, những điều bất công trong cuộc sống.
Nhan đề của bài thơ “Thương vợ” gợi lên cho người đọc cảm nhận về tình cảm của nhà thơ dành cho người vợ thân thương của mình, về người phụ nữ đầu ấp má kề. Nhưng khi đọc bài thơ chúng ta hiểu được rằng đó là một bài thơ trào phúng, thể hiện sự châm biếm của tác giả với những người đàn ông vô dụng trong xã hội. Khi những người đàn ông sức dài vai rộng, khỏe mạnh nhưng lại chẳng làm nên cơm cháo gì, để cho người phụ nữ của mình phải làm trụ cột trong gia đình, thay chồng nuôi con rồi nuôi luôn cả ông chồng vô dụng.
Bài thơ thể hiện nỗi khổ của người phụ nữ, khi lấy phải một ông chồng chẳng tích sự gì, thể hiện nỗi lòng của người đàn ông không may trong sự nghiệp phải nhìn người vợ của mình tần tảo sớm hôm gánh vác việc nhà, mưu sinh.
“Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng”
Hình ảnh người vợ của tác giả xuất hiện trong hai câu thơ với sự tần tảo sớm khuya. Người phụ nữ với hình dáng chăm chỉ miệt mài khuya sớm, làm nghề buôn thúng bán bưng, đầu tắt mặt tối từ nửa đêm gà gáy, mong kiếm được ít tiền nuôi đàn con thơ dại. Hình ảnh người phụ nữ xưa hiện ra giản dị, nhưng chăm chỉ, hay lam hay làm khiến cho người đọc vô cùng xúc động. Đó chính là hình ảnh người phụ nữ áo nâu sòng, váy đụp màu đen, gánh tất cả những nhọc nhằn của cuộc đời trên đôi quang gánh của đời mình.
Người vợ của tác giả Trần Tế Xương cũng hiện lên với hình ảnh tần tảo đó. Đặc biệt công việc ấy thường xuyên xảy ra hết ngày này sang ngày khác trở nên quen thuộc. Trước sự vất vả của người vợ, tác giả vô cùng suy nghĩ cảm thấy thương người vợ sớm hôm tần tảo và tự trách bản thân mình sao quá vô dụng khi không lo được cho vợ con, để vợ mình phải lam lũ, vất vả.
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”
Hình ảnh người phụ nữ trong câu thơ này khiến người đọc liên tưởng tới hình ảnh con cò, một mình lặn lội thân cò đi làm, đi kiếm ăn từ nửa đêm gà gáy. Trong khi đó ông chồng được coi là trụ cột trong gia đình nhưng lại không làm được gì cho vợ con bớt vất vả trong cuộc sống mưu sinh. Khiến cho vợ mình phải lặn lội khuya sớm với biết bao nguy hiểm rình rập. Hình ảnh người phụ nữ trong câu thơ này giống với hình ảnh con cò xưa, người phụ nữ nghèo khổ được nhà thơ sử dụng trong bài thơ vô cùng tinh tế sâu sắc, gợi lên những nỗi niềm xúc động vô bờ bến.
“Một duyên, hai nợ, âu đành phận,
Năm nắng, mười mưa, dám quản công.”
Thời xưa người ta thường quan niệm vợ chồng lấy nhau đều có duyên nợ và căn tu từ kiếp trước “Tu trăm năm mới ngồi chung thuyền, tu nghìn năm mới nên duyên chồng vợ”. Chính vì vậy, vợ chồng phải có duyên phận thì mới thành đôi, không phải ai cũng có thể thành vợ thành chồng của nhau được. Vì vậy, mỗi người phải trân trọng người bạn đời của mình.
Trong hai câu thơ này tác giả Trần Tế Xương sử dụng chữ duyên để lột tả cho việc cam phận của người phụ nữ khi gặp một người chồng không thể mang lại cho mình sự an nhàn sung sướng, khiến cho cuộc sống của mình long đong, khổ sở, những người phụ nữ vẫn cam phận với một chữ duyên số.
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không!”
Bài thơ “Thương vợ” của Trần Tế Xương cũng như bản thân nhan đề của bài thơ, thể hiện sự thương vợ của tác giả. Đồng thời thể hiện những lời mỉa mai châm biếm, của tác giả với những ông chồng vô dụng, với chính bản thân của tác giả, khi không thể làm bờ vai vững chắc cho người phụ nữ của mình, để cho vợ phải lặn lội, sớm khuya tần tảo. Tác giả tự cảm thấy bản thân mình ăn ở bạc, không thể giúp cho người phụ nữ yếu đuối của mình nhiều hơn. Có chồng mà cũng như không, một người chồng không giúp được gì cho vợ thì thật đáng trách.
Bài thơ là lời tự sự, tự vấn lương tâm của tác giả, thể hiện sự thương vợ sâu sắc, thể hiện nỗi lòng cay đắng dằn vặt của tác giả khi không mang tới hạnh phúc cho người phụ nữ của đời mình.