Top 9 Bài văn đóng vai kể lại truyện "Sự tích Hồ Gươm" - Ngữ văn 6 hay nhất

Truyền thuyết “Sự tích Hồ Gươm” vừa giải thích tên hồ Tả Vọng - Hồ Hoàn Kiếm, một cảnh quan, một di tích lịch sử, văn hoá của cố đô Thăng Long, vừa chỉ rõ cuộc khởi nghĩa Lam Sơn là một sự nghiệp cao cả, chính nghĩa thuận theo ý Trời (Thuận Thiên) nên đã toàn thắng. Để hiệu rõ nội dung truyền thuyết về nhiều khía cạnh, bạn đọc có thể tham khảo một số bài văn đóng vai kể lại truyện " Sự tích Hồ Gương" SGK Cánh Diều - Ngữ văn 6 dưới đây:

Bài văn đóng vai Lê Lợi

Ta là Lê Lợi, chủ tướng của nghĩa quân Lam Sơn. Trước tình hình đất nước rối ren trăm bề, giặc Minh hoành hành gây ra bao đau khổ cho nhân dân. Ta đứng lên phát động mọi người yêu nước, có cùng lí tưởng, khát khao đấu tranh chống quân Minh, giành độc lập cho dân tộc, mang lại cho người dân cuộc sống yên bình, ấm no.


Nghĩa quân của ta thu hút đông đảo quần chúng nhân dân lao động nghèo ở nhiều địa phương quy tụ về. Tuy nhiên vẫn có sự chênh lệch lớn về tương quan lực lượng, vũ khí đấu tranh so với quân xâm lược Minh. Cảm động trước tấm lòng nhân nghĩa của nghĩa quân, đồng thời cũng nhận biết được tình cảnh khó khăn mà nghĩa quân đang phải đối mặt, đức Long Vương đã cho ta mượn Gươm báu, và thanh gươm này đã trở thành một trợ thủ đắc lực đưa đến chiến thắng lẫy lừng sau này.


Không thể đứng nhìn đất nước của mình rơi vào tay quân giặc, không chấp nhận cuộc sống của kiếp nô lệ nên ta đã đứng lên phát động bà con cùng đấu tranh chống giặc. Ngay sau những hoạt động tuyên truyền, phát động, lực lượng người theo ta ngày càng đông đảo.


Trong thời gian đầu, nghĩa quân đã gặp phải muôn vàn khó khăn, thách thức, liên tiếp bị quân Minh tập kích, truy sát làm cho nhiều anh em đồng đội đã ngã xuống. Ta và mọi người tuy rất đau lòng nhưng không thể dừng lại hành động đấu tranh chính nghĩa này được. Hôm ấy trong một cuộc sát phạt dã man của quân giặc, ta và một vài người anh em đã chạy vào ẩn nấp trong một ngôi nhà nhỏ trong rừng. Sau khi đã an toàn, ta tìm gặp và cảm tạ chủ nhân của căn nhà, người đó tên là Lê Thận.


Khi đang nói chuyện, ta bỗng thấy có những tia sáng kì lạ thu hút ánh nhìn của mình, nhìn qua thì đó thì ra là một lưỡi gươm sáng loáng. Những thanh gươm tốt ta đã gặp rất nhiều nhưng thanh gươm sắc bén đến mức phát ra thứ ánh sáng kì lạ này thì là lần đầu tiên tôi được nhìn thấy, đặc biệt hơn nữa, trên thân của lưỡi gươm này có khắc dòng chữ Thuận Thiên. Thấy ta tò mò về lưỡi gươm, Lê Thận đã không hề giấu mà mang câu chuyện kéo được lưỡi gươm báu cho ta nghe.

Một lần nọ, trước sự tấn công của quân Minh, ta đã một mình chạy vào rừng. Khi thấy trên ngọn cây cao phát ra thứ ánh sáng lạ kì, ta đến gần thì phát hiện đó chính là một chuôi gươm. Nhớ đến lưỡi gươm ở nhà Lê Thận, ta đem tra gươm vào chuôi thì vừa như in.


Sau đó khi đất nước đã được thái bình, đất nước không còn một bóng giặc, ta lên làm vua. Trong một lần cùng chúng quan bơi thuyền dạo chơi trên hồ Tả Vọng thì bỗng hiện lên một con Rùa Vàng to lớn, đặc biệt là nó không sợ người, bơi sát vào phía mạn thuyền thì cất tiếng đòi gươm. Lúc bấy giờ ta mới biết đây là thanh gươm báu của đức Long Vương cho ta mượn để hoàn thành nghiệp lớn, nay sự nghiệp hoàn thành, nên đòi lại gươm. Ta đã cung kính dâng thanh gươm cho Rùa Vàng, sau đó thì Rùa Vàng biến mất không còn dấu vết.

Hình minh họa
Hình minh họa

Bài văn đóng vai rùa vàng

Ta chính là Rùa Vàng linh thiêng, người hộ mệnh của dân tộc Việt Nam qua hàng ngàn năm lịch sử qua. Vào sáu trăm năm trước, ta đã giúp Lê Lợi đánh tan giặc Minh cứu đất nước khỏi lầm than nhờ vào một thanh kiếm có khắc chữ “Thuận Thiên”. Ấy là ta đã vâng mệnh Long Quân lên cứu nước cứu dân, giúp vị vua hiền tài. Câu chuyện này đã lưu lại thành truyền thuyết lưu danh ngàn năm qua.


Ngày ấy, ta ngụ ở hồ nước lớn đã được hơn ngàn năm. Như thường lệ, cứ vài tháng một lần ta lại ra chỗ đến chỗ Ngọc Sơn bây giờ để xem xét người Việt ta sinh sống ra sao. Bao bước thăng trầm lịch sử, biến cố của dân Nam ta đều thông hiểu như lòng bàn tay. Lần đó bơi đến gần bờ, ta nghe dân thành Thăng Long than trời khóc đất vì bị quân Minh xâm lược đến hoang tàn. Ta ngay lập tức đem câu chuyện kể với Long Quân xin một ân điển cứu nước cứu dân. Và chuyện về gươm thần, tên hồ Hoàn Kiếm sinh ra từ đó.


Bấy giờ ở vùng núi Lam Sơn hiểm trở gập ghềnh có một nghĩa quân nổi dậy chống lại bọn chúng, nhưng những buổi đầu do lực lượng còn non yếu mà nghĩa quân gặp biết bao khó khăn, có khi mấy tuần lương thực hết, vũ khí thiếu thốn… Điều này gây nhiều bất lợi cho việc chiến đấu chống quân thù. Từ câu chuyện của ta đã trình và từ tình hình thực tế lầm than của dân chúng cần tìm một người tài lãnh đạo, Long Quân định cho nghĩa quân mượn thanh gươm thần để họ giết trừ giặc hung.


Vào một đêm trăng sáng, ở một bờ sông vắng Long Quân sai ta cắp gươm thần thả vào lưới đánh cá của Lê Thận - một chàng trai khỏe mạnh có chí khí và có lòng yêu nước, tính tình hiền lành, chất phác. Lê Thận kéo lưới lên thấy nằng nặng, mừng thầm cứ nghĩ là bắt được cá to. Nhưng khi chàng ta thò tay vào lưới lấy ra thì chỉ thấy một thanh sắt vut không đáng giá, bèn vứt luôn xuống sông không đoái hoài và chèo thuyền sang thả lưới ở nơi khác. Chính ta đã thả gươm vào lưới. Đến lần thứ ba khi kéo lưới lên, Thận vẫn thấy thanh sắt của hai lần trước, chàng lấy làm kỳ lạ. Đúng lúc đó, có một ánh chớp lóe lên từ phía xa, chàng nhìn rõ đó là một lưỡi gươm và lấy làm sung sướng.


Về sau chính Lê Thận đã gia nhập quân khởi nghĩa Lam Sơn. Ta đã không nhầm khi tin tưởng con người đó. Đó là chàng trai hăng hái, gan dạ, không ngại nguy hiểm, dũng cảm chiến đấu. Cảm kích vì có một người anh dũng trong nghĩa quân, một hôm chủ tướng Lê Lợi cùng mấy tuỳ tòng đến thăm nhà của Lê Thận. Thanh gươm thần như chủ ý từ trước gặp được người chủ tướng sáng suốt nên đã tự động sáng rực lên trong túp lều tối om không một ánh đèn. Lê Lợi cầm lưỡi gươm lên xem và thấy hai chữ “Thuận Thiên” trên lưỡi gươm.


Song không ai nghĩ đó là một lưỡi gươm thần rồi chuyện đó cũng nhanh chóng bị quên đi. Có một lần Lê Lợi cùng vài người đi qua một khu rừng thấy trên ngọn cây cao có một ánh sáng lấp lánh chiếu rọi vào mắt. Ông trèo lên cây xem thử thì thấy một cái chuôi gươm nạm ngọc quý giá. Bỗng nhớ đến lưỡi gươm nhà Lê Thận, ông mang chuôi về nhà. Ba ngày sau đó, khi gặp lại mọi người trong nhà của Lê Thận, Lê Lợi đem chuyện bắt được chuôi gươm kể lại cho họ nghe. Mọi người đem lưỡi gươm tra vào chuôi thì vừa như in. Như vậy là gươm thần đã tìm được người chủ công sáng suốt xứng đáng cầm gươm thần dẫn dắt nhân dân đánh đuổi giặc dữ giữ gìn bờ cõi. Đến đây thì nhiệm vụ của ta đã hoàn thành, thanh gươm thần đã được đặt vào đúng vào vị trí của nó.


Một năm trôi qua, nghĩa quân của Lê Lợi với gươm thần giúp sức đã tung hoành khắp trận địa, nhuệ khí của nghĩa quân ngày một tăng mạnh, liên tiếp giành được thắng lợi, làm cho giặc Minh bạt vía hồn kinh. Uy thanh của nghĩa quân vang vọng khắp nơi, lấy được nhiều lòng tin của nhân dân. Nhờ có gươm thần, quân ta hăng chiến đấu đã mạnh lại càng thêm mạnh, chiến thắng liên tiếp. Chẳng mấy chốc mà đất nước sạch bóng quân thù, Lê Lợi lên làm vua, lấy hiệu là Lê Thái Tổ.

Sau khi mọi chuyện đã được giải quyết, nước nhà đã sạch bóng quân thù, ta liền vội vã lên đường, thực hiện nhiệm vụ mà Long Quân giao. Khi đoàn thuyền rồng của nhà vua hiện ra trước mắt. Ta từ từ nổi lên mặt nước và bơi ra đón trước mũi thuyền. Ta cất giọng chậm rãi: “Việc đã xong. Xin bệ hạ hoàn gươm lại cho Long Quân”.


Sau khi nghe ta nói, Lê Lợi nâng gươm hướng về phía ta và nói: “Xin Thần Kim Quy về báo lại với Đức Long Quân rằng Lê Lợi thay mặt muôn dân kính cẩn đội ơn Ngài đã cho mượn gươm báu giúp dân, giúp nước. Xin cho chúng dân đổi tên hồ này thành hồ Hoàn Kiếm để đời đời nhớ đến công đức của Ngài”. Nghe xong, ta chậm rãi gật đầu, ngậm gươm thần rồi lặn xuống nước. Một vệt sáng le lói từ mặt hồ trong xanh chiếu lên như sự đồng ý trước lời thỉnh cầu của nhà vua.

Cũng từ lúc đó hồ Tả Vọng được đổi tên thành Hồ Gươm hay Hồ Hoàn Kiếm. Và trong nhân gian vẫn còn lưu truyền sự tích Hồ Gươm cho đến tận ngày hôm nay ghi công một cuộc chiến vẻ vang của dân tộc.

Hình minh họa
Hình minh họa

Bài văn đóng vai rùa vàng

Quân Minh mượn cớ thừa cơ xâm chiếm nước Đại Việt. Chúng dối trời, lừa dân đủ muôn nghìn cớ, coi nhân dân Đại Việt như cỏ rác. Chúng ỷ mạnh hiếp yếu, làm nhiều điều bạo ngược, hung tàn, tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ, đi ngược lại với đạo lý làm người, thật không thể dung thứ. Ta nghe nói vùng Lam Sơn có nghĩa quân nổi dậy chống lại bọn chúng.

Người này có mệnh đế vương. Những buổi đầu thế lực còn non yếu, quân thù đang mạnh nên nghĩa quân nhiều lần thất bại. Lạc Long Quân sai ta mang gươm thần của ta trao cho nghĩa quân để họ dâng cho minh chủ, nâng cao sĩ khí mà giúp họ dẹp giặc, thực thi chính nghĩa.


Nhận lấy gươm báu, ta bồi hồi suy nghĩ. Vào một nọ, ở một bến vắng, ta đã mang gươm bỏ vào lưới của Lê Thận - một chàng trai khỏe mạnh làm nghề đánh cá, có lòng yêu nước thiết tha. Sợ Thận hoảng sợ khi thấy gươm quý, ta đã biến nó thành thanh sắt sét gỉ xấu xí. Hai lần kéo lưới lên không thấy cá. Thận chỉ thấy một thanh sắt, chàng vứt luôn xuống nước và thất vọng. Lần thứ ba, ta lại bỏ vào lưới của Thận. Thấy sự việc lạ lùng, Thận mang thanh sắt về nhà, vứt vào góc tối và không còn nhớ đến nữa.


Về sau, Thận gia nhập nghĩa quân Lam Sơn, chàng xông pha chiến trận, không nề gian nguy. Một hôm chủ tướng Lê Lợi cùng tùy tùng đến nhà Thận. Trong túp lều tối om, một góc nhà bỗng sáng rực lên. Thấy lạ, Lê Lợi lại cầm thanh sắt, thấy đó là thành gươm có khắc hai chữ “Thuận Thiên”. Biết trời đất đã hiển linh báo trước, Lê Lợi vô cùng vui mừng.

Quân thù vẫn hoành hành, nghĩa quân thì gặp nhiều gian nan, có khi mấy tuần lương cạn, mỗi người một ngả. Một hôm Lê Lợi một mình thoát khỏi vòng vây của giặc, lạc vào trong rừng. Đang đi, bỗng thấy trên ngọn cây có ánh sáng lạ, Lê Lợi nhìn kỹ thì thấy một chuôi gươm nạm ngọc. Nhớ đến lưỡi gươm nhà Lê Thận, liền cho mang chuôi gươm về. Về đến doanh trại, Lê Lợi đem chuyện lạ nói với các tướng lĩnh:


- Vừa nói trên đường, ta bắt được một chuôi gươm nạm ngọc, tỏa sáng lấp lánh, ta e rằng chuôi gươm này với lưỡi gươm

kia ở nhà Lê Thận có liên quan. Phải chăng trời thử lòng trao cho chúng ta mệnh lớn! Nếu vậy ta cùng anh em phải gắng chí, khắc phục gian nan…


Lê Thận đem lưỡi gươm tra vào chuôi thì vừa như in. Chàng nâng gươm nói với Lê Lợi:


- Đây là ý trời lòng dân muốn phó thác cho minh công việc lớn. Chúng tôi nguyện đem máu xương của mình phò minh công, cùng với thanh gươm thần này báo đền nợ nước.


Từ đó, hùng khí nghĩa quân ngày một tăng. Trong tay Lê Lợi, thanh gươm thần tung hoành khắp các trận địa, làm cho quân Minh bạt vía kinh hồn. Chiến công liên tiếp, uy danh của nghĩa quân vang dội. Quân Minh ngày càng kế cùng lực kiệt cho đến lúc phải đầu hàng. Non sông lại thu về một mối, nhân dân khắp chôn lại vui hưởng thái bình.


Khi Đại Việt đã sạch bóng quân giặc, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế, đất nước đã thái bình. Thần lạc Long sai ta đi lấy lại gươm thần. Nhân lúc nhà vua cùng các đại thần du thuyền trên hồ Tả Vọng, ta hiện lên trước thuyền. Vì cảm được linh khí mà thanh gươm bắt đồng động đậy, khẽ rung lên. Thấy ta, nhà vua cùng các đại thần vô cùng kinh ngạc. Nhà vua cho thuyền nhẹ lại. Ta bơi lại mạn thuyền tâu:


- Xin bệ hạ hoàn lại gươm cho Long Quân.


Ngay lập tức nhà vua rút gươm đưa cho ta. Ta vội đón lấy thanh gươm và lặn xuống. Cũng từ đó nhân dân quanh vùng đổi tên hồ Tả Vọng thành hồ Gươm, hay hồ Hoàn Kiếm để ghi nhớ sự tích ấy.

Hình minh họa
Hình minh họa

Bài văn đóng vai Lê Lợi

Trong thời gian nhân dân nước Nam bị giặc Minh đàn áp. Lúc này nghĩa quân Lam Sơn do tôi đứng đầu đã đã nổi dậy chống lại chúng, nhưng buổi đầu thế lực còn non yếu nên nhiều lần bị giặc đánh cho tan tác. Thấy vậy Đức Long Quân đã quyết định cho tôi mượn thanh gươm thần để tôi giết giặc.


Hồi ấy ở Thanh Hóa có một người làm nghề đánh cá tên là Lê Thận. Một đêm nọ. Thận thả lưới ở một bến vắng như thường. Tự nhiên trong một lần kéo lưới, chàng thấy nằng nặng, trong bụng mừng thầm chắc là có cá to. Nhưng khi thò tay bắt cá. Thận mới biết đó là một thanh sắt. Chàng vứt luôn xuống nước rồi lại thả câu ở một chỗ khác.


Lần thứ hai cất lưới lên cũng thấy nặng tay. Thận không ngờ thanh sắt vừa rồi lại chui vào lưới mình. Chàng lại nhặt lên và ném xuống sông. Lần thứ ba vẫn là thanh sắt ấy mắc vào lưới. Lấy làm quái lạ, Thận ghé mồi lửa lại nhìn xem. Bỗng chàng reo lên một mình:


- Ha ha! Một lưỡi gươm!


Thận về sau gia nhập quân đoàn khởi nghĩa Lam-sơn của chúng tôi. Chàng đã mấy lần vào sinh ra tử ở nơi trận mạc để diệt lũ cướp nước. Một hôm, tôi cùng mấy người tùy tòng đến nhà Thận. Trong gian nhà tối om, thanh sắt hôm đó chợt sáng quắc lên ở một xó nhà. Lấy làm lạ, tôi bèn đến gần cầm lấy xem và nhận ra chữ "Thuận Thiên" khắc sâu vào lưỡi. Song tất cả mọi người đều không biết đó là báu vật.


Một hôm bị giặc đuổi, tôi và các tướng đang chạy tháo thân mỗi người một ngả. Lúc đi qua một khu rừng,tôi bỗng thấy ánh sáng trên ngọn cây đa. Lúc đó tôi đã trèo lên mới biết đó là cái chuôi gươm nạm ngọc. Nhớ tới lưỡi gươm ở nhà Lê Thận, tôi rút lấy chuôi gươm dắt vào lưng.


May mắn thay ba ngày sau tôi đã gặp lại tất cả người anh em của tôi, trong đó có Lê Thận. Khi lắp lưỡi vào với chuôi thì kỳ lạ thay, vừa vặn khớp nhau. Tôi bèn kể lại câu chuyện cho tất cả mọi người nghe. Sau khi nghe xong đều hồ hởi vui mừng. Lê Thận nâng gươm lên ngang đầu nói với tôi:


- Đây là thần có ý phó thác cho minh công làm việc lớn. Chúng tôi nguyện đem xương da của mình theo minh công và thanh gươm thần này để báo đền xã tắc!


Từ đó khí thế của nghĩa quân ngày một tăng. Thanh gươm thần tung hoành cùng với tôi trên mọi trận địa và làm cho quân Minh chạy mất. Chẳng mấy chốc tiếng tăm của quân Lam-sơn lan khắp nơi. Chúng tôi không phải trốn tránh trong rừng nữa mà xông xáo đi tìm giặc và cũng không phải ăn uống khổ cực như trước nữa, đã có những kho lương thực của giặc mới cướp được tiếp tế cho chúng tôi. Gươm thần đã mở đường cho đoàn quân của chúng tôi đánh tràn ra mãi cho đến lúc không còn bóng một tên giặc nào trên đất nước.


Sau khi đuổi giặc Minh về được một năm, ngày hôm ấy tôi đã là một nhà vua và cưỡi thuyền rồng dạo quanh hồ Tả Vọng trước kinh thành. Nhân dịp đó, Long quân sai rùa vàng lên đòi lại thanh gươm thần. Khi chiếc thuyền chèo ra giữa hồ thì tự nhiên có một con rùa lớn nhô đầu và mai lên khỏi làn nước xanh. Nhìn thấy vậy tôi đã ra lệnh cho thuyền đi chậm lại. Khi đang đứng trên thuyền, thì tôi bỗng nhận thấy lưỡi gươm đeo bên mình cũng đang cử động. Con rùa vàng không sợ người, nhô thêm nữa, tiến sát về phía thuyền của tôi. Nó đứng nổi lên trên mặt nước và nói:


- Bệ hạ hoàn gươm cho Long quân!


Nghe nói thế nhà tôi bỗng hiểu ra bèn thò tay rút gươm ra khỏi bao. Chỉ trong nháy mắt mà thanh gươm trong tay tôi đã không thấy đâu. Hóa ra là thanh gươm đã được rùa há miệng đớp lấy ngang lưỡi rồi. Cho đến khi gươm và rùa lặn xuống, tôi vẫn thấy có vệt sáng le lói dưới mặt nước hồ xanh.


Khi những chiếc thuyền của bá quan tiến lên kịp thuyền rồng thì tôi liền báo ngay cho họ biết:


- Đức Long quân cho chúng ta mượn thanh gươm thần để trừ giặc Minh. Nay đất nước đã thanh bình, Người sai rùa lấy lại.

Và từ đó, chúng tôi đã gọi hồ này là hồ Gươm hoặc Hồ Hoàn Kiếm.

Hình minh họa
Hình minh họa

Bài văn đóng vai Lê Lợi

Tôi là Lê Lợi, là chủ tướng của nghĩa quân Lam Sơn. Tôi luôn đau đáu với những nỗi đau thương, mất mát, sự hi sinh mà nhân dân phải chịu khi giặc Minh sang xâm lược nước ta. Chứng kiến tình cảnh ấy, tôi không khỏi đau đớn.


Tôi tập hợp những người hùng, quân nhân giỏi về cả trí và lực để phụng sự sự nghiệp kháng chiến. Rất nhiều tráng sĩ từ khắp mọi nơi đã sẵn sàng đến gia nhập vào nghĩa quân và mong muốn được hết mình vì sự nghiệp của dân tộc. Trong những ngày đầu kháng chiến, nghĩa quân luôn thất bại liên tiếp vì lực lượng còn mỏng, chưa có kinh nghiệm chiến đấu và cũng vì quân nhân ta có sự chênh lệch lớn về lực lượng, trang bị, vũ khí với quân địch.


Tôi lo lắng trước tình hình an nguy của đất nước và vẫn luôn suy nghĩ để tìm ra phương pháp tiêu diệt kẻ thù một cách nhanh chóng, bớt tiêu hao nhân lực nhiều nhất. Một ngày, có một tráng sĩ đến doanh trại nghĩa quân, tự nguyện đầu quân cho nghĩa quân Lam Sơn. Đó là Lê Thận, một người tráng sĩ khỏe mạnh và có tinh thần yêu nước, tinh thần kháng chiến đáng tự hào. Một lần, Lê Thận nói với tôi câu chuyện về thanh gươm kì lạ mà anh ba lần kéo lưới được trong một lần đánh cá. Anh nghĩ đó chắc hẳn là một vật báu trời ban. Tôi tò mò về thanh gươm nên đã nói Lê Thận cho chiêm ngưỡng thanh gươm ấy.


Khi về đến nơi Lê Thận ở trước đây, tôi nâng thanh gươm lên, thanh gươm bỗng sáng rực và lộ rõ hai chữ "Thuận Thiên" trên thân gươm. Biết được đây là gươm quý, vật trời ban, tôi và Lê Thận cùng đồng lòng mang thanh gươm về để ra quân chiến đấu. Một lần, khi đi ngang qua khu rừng, tôi phát hiện trên cây có một chuôi gươm. Nghĩ tới thanh gươm ở nhà, tôi lấy xuống và kì lạ thay, khi tra vào gươm vào chuôi thì vừa y như đúc. Tôi dùng thanh gươm này để tiêu diệt kẻ thù, đánh đến đâu, giặc giã đến đấy. Chẳng bao lâu, nghĩa quân Lam Sơn đã tiêu diệt được hết giặc Minh, đánh đuổi chúng về nước.


Khi đất nước thanh bình, tôi được nhân dân suy tôn lên làm vua. Trong một lần dạo chơi hồ ở hồ Tả Vọng, bỗng hiện lên một con Rùa Vàng lớn. Con rùa ấy nhô lên khỏi mặt nước và cất tiếng nói: "Xin bệ hạ trả gươm cho Long Quân". Thấy vậy, thanh gươm được giắt bên người tôi bỗng rung lên. Tôi tháo gươm ra dâng cao lên, rùa ngay lập tức há miệng đớp lấy thanh gươm rồi lặn xuống nước. Tôi biết đó là công ơn của Đức Long Quân đã cho mượn gươm để tôi đánh đuổi giặc thù. Từ đó, tôi cho đổi tên hồ Tả Vọng thành Hồ Gươm hay Hồ Hoàn Kiếm, tức hồ trả gươm.

Hình minh họa
Hình minh họa

Bài văn đóng vai rùa vàng

Ta là Rùa Vàng, một vị quan dưới trướng Lạc Long Quân. Hôm ấy, trong lúc ta đang ghi chép sổ sách trong thư phòng thì được tin Đức Long Quân triệu kiến gấp. Ta bèn tức tốc vâng mệnh, đến điện gặp Ngài. Vừa tới nơi ta đã nghe giọng nói như sấm rền của Long Quân:


- Ngày mai, lúc Lê Lợi cưỡi thuyền rồng trên hồ Tả Vọng dạo chơi, ngươi hãy nổi lên đòi lại thanh gươm thần cho ta.


Vâng mệnh Long Quân ta lui về thư phòng, chuẩn bị ngày mai thực thi mệnh lệnh. Nhớ lại năm xưa, vào thời giặc Minh đặt ách đô hộ ở nước Nam, nhân dân cực khổ vô cùng. Bởi bọn giặc vô cùng hung ác, chúng coi người dân như cỏ rác, làm nhiều điều bạo ngược, thiên hạ ai ai cũng căm giận đến tận xương tuỷ. Bấy giờ ở vùng Lam Sơn, có nghĩa quân nổi dậy chống lại chúng. Nhưng trong buổi đầu thế lực còn non yếu nên đã nhiều lần thất bại. Thấy vậy, để giữ đúng lời hứa với nàng Âu Cơ năm xưa “khi có việc cần thì giúp đỡ lẫn nhau”, Đức Long Quân đã quyết định cho nghĩa quân mượn thanh gươm thần mà Ngài vẫn đeo bên người để con cháu đánh đuổi giặc ngoại xâm, giành lại đất nước. Lúc đó chính ta là người mang gươm cho Lê Lợi mượn.


Ta đã tìm hiểu rất kĩ và biết rằng ờ vùng Thanh Hoá có một người đánh cá tên là Lệ Thận, tính tình hiền lành, chất phác, sau này sẽ tham gia nghĩa quân nên ta quyết định chọn chàng làm sứ giả trao gươm báu. Như thường lệ, vào một đêm trăng sáng, gió thổi mát lạnh, Lê Thận đem lưới thả xuống sông bắt cá. Đã chờ sẵn từ lâu, ta bí mật bỏ lưỡi gươm vào trong lưới của anh ta. Lúc kéo lưới lên, thấy nằng nặng, chàng đã mừng thầm, chắc hẳn là có cá to. Nhưng khi thò tay xuống chẳng thấy cá đâu mà chỉ thấy gươm báu dưới dạng một thanh sắt chàng, bèn vứt đi và lại thả lưới tiếp. Phải vất vả ba lần ta mới khiến anh chàng nhận ra đó là lưỡi gươm và chịu mang về.


Quả nhiên, về sau Lê Thận gia nhập đoàn quân khởi nghĩa Lam Sơn. Chàng hăng hái, gan dạ, không nề nguy hiểm. Vì vậy, một hôm chủ tướng Lê Lợi cùng mấy tuỳ tòng đến nhà Thận. Thanh gươm thần gặp được chủ tướng nên tự động sáng rực lên trong túp lều tối om. Lấy làm lạ, Lê Lợi cầm lên xem và thấy hai chả “Thuận Thiên” khắc sâu vào lưỡi gươm. Song chuyện đó cũng nhanh chóng bị quên đi, không ai biết đó là báu vật.


Cho tới một hôm, bị giặc đuổi, Lê Lợi và các tướng sĩ rút lui mỗi người một ngả. Lúc chạy ngang qua một khu rừng, Lê Lợi bỗng thấy có ánh sáng trên ngọn cây đa. Ông trèo lên mới biết đó là một chuôi gươm nạm ngọc (Đó chính là phẩn chuôi của thanh gươm thần vốn do Đức bà Âu Cơ cất giữ. Người cho chim thần đem đến đặt trên ngọn đa). Lê Lợi nhớ đến phần lưỡi gươm ở nhà Lê Thận bèn lấy chuôi gươm dắt vào lưng.


Ba ngày sau, khi gặp lại mọi người trong nhà Thận, Lê Lợi bèn đem chuyện bắt được chuôi gươm kể lại cho họ nghe. Và khi đem lưỡi gươm tra vào chuôi thì vừa như in.


Lê Thận bèn nâng gươm lên ngang đầu, cung kính nói với mọi người:


- Đây là ý trời phó thác cho minh công làm việc lớn. Chúng tôi nguyện đem xương thịt của mình theo minh công, cùng thanh gươm thần này để báo đền Tổ quốc!


Đến đây, nhiệm vụ của ta đã hoàn thành, thanh gươm thần đã được đặt vào đúng vào vị trí của nó. Thế mà cũng đã một năm trôi qua rồi. quả nhiên từ khi có thanh gươm thần giúp sức, nhuệ khí của nghĩa quân ngày một tăng mạnh, liên tiếp giành được thắng lợi, làm cho quân Minh bạt vía, kinh hồn. Lê Lợi giờ đã lên làm vua, lấy hiệu là Lê Thái Tổ. Miên man trong những kỉ niệm của một năm trước, ta không ngờ trời đã sáng. Ta liền vội vã lên đường, thực hiện nhiệm vụ mà Long Quân giao. Kia rồi! Đoàn thuyền rồng đã hiện ra trước mắt. Ta từ từ nổi lên mặt nước và bơi ra đón trước mũi thuyền. Ta cất giọng chậm rãi: “Xin bệ hạ hoàn gươm lại cho Long Quân”.


Sau khi nghe ta nói, Lê Lợi nâng gươm hướng về phía ta và nói: “Xin Thần Kim Quy về báo lại với Đức Long Quân rằng Lê Lợi thay mặt muôn dân kính cẩn đội ơn Ngài đã cho mượn gươm báu giúp dân, giúp nước. Xin cho chúng dân đổi tên hồ này thành hồ Hoàn Kiếm để đời đời nhớ đến công đức của Ngài”. Nghe xong, ta bèn ngậm gươm thần rồi lặn xuống nước.

Trở về Long Cung, ta tâu lại những điều Lê Lợi đã nói với Long Quân. Người rất vui và hài lòng. Người giao cho ta nhiệm vụ hàng năm nổi lên mặt hồ một lần để xem xét dân tình, kịp thời báo cho người khi con cháu lâm nguy. Ta rất đỗi vinh hạnh nhận sứ mệnh cao cả đó.

Hình minh họa
Hình minh họa

Bài văn đóng vai Lê Thuận

Ta vốn sinh ra và lớn lên ở làng Chài ven biển Thanh Hoá. Công việc chính của ta là ngày ngày đi thả lưới kiếm cá để sinh sống. Vào một đêm như thường lệ ta thả lưới trên một bến vắng khi kéo lên thấy nằng nặng trong lòng ta chắc mẩm được mẻ cá to. Ta thò tay vào bắt cá nhưng chỉ thấy có một thanh sắt. Ta quăng lại xuống nước rồi lại thả lưới ở một chỗ khác.

Lần thứ hai khi kéo lưới lên vẫn thấy nặng, ta khòng ngờ thanh sắt ấy lại mắc vào lưới của mình Ta lại cầm lấy và quẳng thanh sắt ra thật xa. Lần thứ ba, khi kéo lên thanh sắt ấy lại mắc vào lưới. Ta thấy lạ quá. Cứ như có phép lạ, thanh sắt cứ tìm lưới của ta mà chui vào nên bèn nhận thanh sắt lên đem lại gần mồi lửa để nhìn xem. Ta sung sướng reo to: Ha ha. Một lưỡi gươm!


Cầm lưỡi gươm lên suy nghĩ một lúc lâu rồi ta chợt hiểu đây là ý trời đã ban tặng cho ta. Lúc đó, trên đất nước ta, bọn giặc Minh vô cùng tàn ác, chúng coi dân ta như cỏ rác, làm nhiều điều bạo ngược, thiên hạ căm giận chúng đến tận xương tuỷ. Nghĩa quân Lam Sơn do chủ tướng Lê Lợi chỉ huy đã nhiều lần đánh lại, nhưng có lẽ vì thế lực còn non yếu nên đã thua. Ta nghe nói có lần Lê Lợi cùng - nghĩa quân bị giặc bao vây hàng tháng trời ở vùng núi Chí Linh cuối cùng phải thịt cả ngựa để lấy lương thực nuôi quân. Nghĩ đến đây, trong ta bỗng sôi sục lên lòng căm thù giặc. Ta quyết đinh ra nhập đoàn quân Lam Sơn giúp Lê Lợi đánh giặc cứu nước. Tài võ nghệ của ta sau một thời gian ngắn luyện tập thôi đã được Lê Lợi và mọi người rất phục. Rồi một lần, ta dem chuyện lưỡi gươm ra kể với chủ tướng Lê Lợi. Một hôm, chủ tướng Lê Lợi cùng mấy người tuỳ tùng về thăm nhà ta. Trong túp lều tối om, thanh sắt hôm đó tự nhiên sáng rực lênằ Lấy làm lạ Lê Lợi cầm lên xem và thấy có hai chữ “Thuận Thiên” khắc sâu vào lưỡi gươm. Song tất cả mọi người vẫn không biết đó là báu vật.


Một hôm, bị giặc đuổi Lê Lợi và các tướng rút lui mỗi người một ngả. Ta nghe Lê Lợi kế rằng lúc đi qua một khu rừng, ông bỗng thấy có ánh sáng lạ trên ngọn cây. Ông trèo lên mới biết đó là một chuôi gươm nạm ngọc. Nhớ tới lưỡi gươm ở nhà ta, chủ tướng đã lấy chuôi dắt vào thắt lưng đem về.


Khi đem tra gươm và chuôi thì lạ thay vừa như in, ta nâng gươm lên ngang đầu nói với Lê Lợi:


- Đây là trời phó thác cho minh công làm việc lớn. Chúng tôi nguyện đem xương thịt của mình theo minh công cùng với thanh gươm thần này để báo đền Tổ Quốc!


Từ đó, nhuệ khí của nghĩa quân ngày một tăng. Trong tay Lê Lợi, thanh gươm thần tung hoành khắp các trận địa, làm cho quân Minh bạt vía. Uy thế của nghĩa quân vang khắp mọi nơi. Họ không phải trốn tránh như trước nữa, đã có những kho lương thực mới chiếm được của giặc tiếp tế cho họ. Gươm thần đã mở đường cho họ đánh tràn mãi ra, cho đến lúc không còn một tên giặc nào trên đất nước.


Đất nước thanh bình, nhân dân nô nức, vui mừng tôn Lê Lợi lên ngôi vua. Sau khi làm vua, Lê Lợi đă cho ta làm quan trong triều, chuyên quản lí quân đội. Một-năm sau, Lê Lợi rủ ta đi dạo quanh hồ Tả Vọng. Khi thuyền rồng tiến ra gần giữa hồ, tự nhiên có một con rùa lớn nhô đầu và mai lên khỏi mặt nước. Theo lệnh vua, thuyền đi chậm lại. Đứng ở mạn thuyền, vua thấy lưỡi gươm thần mang trên người động đậy. Con Rùa Vàng không sợ người, nhô đầu lên cao nữa và tiến về phía thuyền vua. Nó đứng nổi trên mặt nước và nói: “Xin bệ hạ hoàn gươm cho Long Quân”. Bấy giờ ta mới hiểu Long Quân đã cho mượn gươm thần để nghĩa quân diệt giặc.


Sau khi nghe Rùa Vàng nói, vua nâng gươm hướng về phía rùa. Nhanh như cắt, rùa há miệng đớp lấy thanh gươm và lặn xuống nước. Gươm và Rùa đã chìm đáy nước mà ta vẫn còn thấy vật gì sáng le lói dưới mặt hồ xanh. Từ đó hồ Tả Vọng được vua và nhân dân gọi là Hồ Gươm hay hồ Hoàn Kiếm

Hình minh họa
Hình minh họa

Bài văn đóng vai Lê Lợi

Tôi sinh ra tại một làng chài. Hằng ngày, tôi thả lưới để bắt tôm cá nuôi sống bản thân và kiếm ăn qua ngày. Hôm đó, vào buổi đêm, tôi thả lưới trên một bến bãi vắng vẻ. Tôi cảm thấy sức nặng của mẻ lưới đó và tin chắc mình đã kéo được một mẻ lưới to đầy cá.


Tôi kéo lưới lên nhưng đó chỉ là một thanh sắt. Tôi bực tức quăng vội thanh sắt đó xuống và cố kéo một mẻ lưới khác. Đến lần tiếp theo, vẫn là sức nặng như hồi lần một, tôi chắc mẩm nhất định lần này sẽ là một mẻ cá to. Tôi tự nhủ chẳng nhẽ ông trời lại phụ lòng mình, t tiếp tục kéo lưới lên nhưng thanh sắt đó lại xuất hiện. Tôi dùng hết sức ném thanh sắt đó ra xa vì tức giận khi cả hai lần kéo vẫn như vậy. Lần thứ ba, tôi kéo lưới lên, thanh sắt ấy lại xuất hiện. Tôi tự nghĩ không thể có chuyện trùng hợp đến lạ kì như vậy được. Tôi kéo lưới lên, nhìn kĩ hóa ra đó không phải là một thanh sắt mà là một lưỡi gươm. Tôi tin đây là ý trời ban, vì không phải ngẫu nhiên mà thanh sắt tự chui vào lưới mình đến ba lần.


Thời ấy, giặc Minh sang xâm lược nước ta. Chúng giết người, cướp của không bỏ sót một ai. Lê Lợi lúc ấy là chủ tướng của nghĩa quân Lam Sơn, đã mạnh dạn đem quân nhiều lần đánh đuổi giặc Minh nhưng chưa thành. Tôi căm phẫn tội ác của giặc và muốn đồng lòng, giúp sức cho chủ tướng Lê Lợi làm nên việc lớn. Vì thế, tôi đã đầu quân cho đội quân của Lê Lợi. Tôi đem chuyện kéo lưới được lưỡi gươm cho chủ tướng nghe. Lê Lợi tò mò muốn xem thử thanh gươm. Lúc ấy, thanh gươm đặt vào tay Lê Lợi bỗng sáng chói, tỏa sáng, rõ ràng khắc hai chữ Thuận Thiên.


Một lần, khi đi ngang qua một khu rừng, Lê Lợi bỗng thấy có một thứ ánh sáng lạ kì trên ngọn cây. Khi quan sát lấy xuống mới biết đó là chuôi của một thanh gươm. Nhớ tới lưỡi gươm khi nọ, Lê Lợi bèn lấy xuống mang về. Kì lạ thay, thanh gươm tra vào chuôi vừa y như đúc. Biết đây là báu vật trời ban để đánh đuổi giặc Minh, Lê Lợi trân quý và đồng lòng hợp sức quân dân lại để làm một trận đánh lớn. Thanh gươm như có uy quyền, có sức mạnh phi thường, đi đến đâu nghĩa quân diệt trừ giặc tận gốc đến đó.


Khi đất nước được thanh bình, Lê Lợi được suy tôn lên ngôi vua. Sau đó, trong một lần tôi cùng được theo hầu nhà vua đi dạo quanh hồ Tả Vọng. Khi thuyền đến gần hồ, có một con rùa vàng nhô lên mặt nước. Rùa bèn đến gần thuyền và nhô lên nói: "Xin hoàn gươm cho Long Quân". Lúc ấy, cả tôi và Lê Lợi mới vỡ lẽ đó là báu vật mà Long Quân cho mượn để diệt giặc.


Sau khi nghe Rùa Vàng nói, vua nâng gươm về phía rùa. Rùa vàng há miệng đớp lấy thanh gươm và lặn sâu xuống nước. Từ đó, hồ này được gọi là Hồ Gươm hay Hồ Hoàn Kiếm, tức trả lại kiếm.

Hình minh họa
Hình minh họa

Bài văn đóng vai Lê Lợi

Vào thời giặc Minh đô hộ ở nước ta chúng coi nhân dân như cỏ rác, làm nhiều điều bạo ngược. Bấy giờ ở vùng Lam Sơn, nghĩa quân của ta nổi dậy chống lại chúng, thế lực còn non yếu nên nhiều lần bị thua. Thấy vậy Long Quân quyết định cho nghĩa quân của ta mượn gươm thần để giết giặc.


Hồi ấy, ở Thanh Hoá có một người làm nghề chài lưới quanh năm để nuôi thân, tên là Lê Thận. Một đêm nọ, anh ta thả lưới ở một bến vắng như mọi hôm. Khi kéo lên, Thận nghĩ là được mẻ cá to. Nhưng khi thò tay vào bắt cá, Thận chỉ thấy một thanh sắt. Thận liền vứt ngay xuống nước, rồi lại thả lưới ở một chỗ khác.


Lần thứ hai cất lưới lên, Thận lại thấy thanh sắt đó mắc vào lưới. Lần thứ ba, vẫn. thanh sắt đó mắc vào lưới. Thấy sự lạ, Thận bèn đưa thanh sắt lại gần mồi lửa. Bỗng chàng reo lên:


- Ha ha! Một lưỡi gươm!


Sau này, Thận gia nhập nghĩa quân khởi nghĩa Lam Sơn. Lê Thận thông minh gan dạ, dũng cảm, không nề gian nan, nguy hiểm nên ta rất quý mến. Một ngày nọ, ta và mấy người lính đến nhà Thận. Trong túp lều rách nát, tối om, bỗng thanh sắt sáng rực lên ở góc lều. Lấy làm lạ, ta cầm lên xem thấy hai chữ “Thuận thiên” khắc sâu trên mặt kiếm. Song tất cả bọn ta vẫn không biết đó là báu vật.


Một hôm, bị giặc đuổi, ta và các tướng rút lui mỗi người một ngả. Đến một gốc đa cổ thụ, thấy vật gì sáng lóe trên cây ta bèn trèo lên xem, thì ra đó là một chuôi gươm nạm ngọc. Nhớ đến lưỡi gươm nhà Lê Thận, ta bèn rút lấy chuôi dắt ở lưng và trở về. Vài hôm sau, ta gặp mọi người trong nghĩa quân và kể lại cho họ nghe câu chuyện bắt được chuôi gươm. Lúc đem tra gươm vào chuôi thì vừa như in. Lê Thận cầm gươm lên và nói với ta:


- Đây là trời có ý phó thác cho minh công làm việc lớn. Chúng tôi nguyện hy sinh tính mạng cho đất nước và cùng thanh gươm thần này để báo đền Tổ quốc!


Từ đó nhuệ khí của nghĩa quân ngày càng tăng. Trong tay ta, thanh gươm tung hoành mọi trận địa, làm cho giặc kinh hồn bạt vía. Uy thế của nghĩa quân vang khắp nơi. Nghĩa quân không phải trốn tránh như trước nữa mà xông xáo đi tìm giặc. Chúng ta không phải ăn uống khổ cực nữa mà đã có những kho lương mới chiếm được tiếp tế cho nghĩa quân. Gươm thần mở đường cho chúng ta đánh tràn ra khắp đất nước đến khi không còn bóng giặc nào trên đất nước ta nữa. Dẹp giặc xong, ta được phong lên ngôi vua.


Năm sau, vào một buổi sáng đẹp trời ta cùng các tuỳ tùng cưỡi thuyền rồng dạo quanh hồ Tả Vọng. Đúng lúc đó Đức Long Quân sai Rùa Vàng lên đòi lại thanh gươm thần. Khi thuyền Rồng tiến ra giữa hồ, tự nhiên có một con rùa lớn nhô đầu và mai lên khỏi mặt nước. Theo lệnh của ta, thuyền đi chậm lại. Đứng trên mạn thuyền, ta thấy lưỡi gươm thần đeo bên người tự nhiên động đậy. Con Rùa Vàng không sợ người, nhô đầu lên và tiến về phía thuyền. Nó đứng nổi trên nước và nói: “Xin bệ hạ hoàn lại gươm cho Long Quân!”.


Ta nâng gươm hướng về phía Rùa Vàng. Nhanh như cắt, rùa há miệng đớp lấy gươm và lặn xuống nước. Gươm và rùa đã chìm xuống đáy nước, người ta vẫn thấy vật gì sáng le lói dưới đáy hồ xanh.


Từ đó ta gọi hồ Tả Vọng là hồ Gươm hay hồ Hoàn Kiếm. Nhân dân cũng nhân sự tích này mà gọi hồ Tả Vọng bằng cái tên mới là hồ Hoàn Kiếm.

Hình minh họa
Hình minh họa

Bình luận

Có Thể Bạn Quan Tâm ?