Có thể nói, ở mỗi thời đại, văn học đều là tấm gương phản chiếu lên được mặt tốt và mặt xấu của xã hội. Khai thác và đào sâu vào những vấn đề thuộc về nội tâm của con người. Tác phẩm "Chinh phụ ngâm" là một điển hình tiêu biểu như thế, đặc biệt là mười sáu câu đầu đoạn trích "Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ". Đoạn trích phản ánh lên tội ác của những cuộc chiến tranh phi nghĩa đã làm cho người chinh phụ phải rơi vào tình cảnh cô đơn lẻ loi, tâm trạng đau khổ khắc khoải khôn nguôi. Hãy cùng thả lòng mình đến với 16 câu đầu đoạn trích "Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ" để cảm nhận rõ nét hơn nỗi cô đơn của người vợ có chồng đi chinh chiến. Dưới đây là những bài văn phân tích 16 câu đầu bài thơ "Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ" trong Ngữ văn 10 hay nhất mà Toplist đã sưu tầm và tổng hợp.
Bài tham khảo số 5
Trong đề tài viết về chiến tranh, người ta thường viết nhiều về những tráng sĩ, những anh hùng đã chiến đấu, đã hi sinh vì non sông, đất nước. Rất ít tác giả viết về hình ảnh những người vợ, những người mẹ mòn mỏi chờ đợi tin tức của chồng mình, của con mình. Và có ai biết được rằng cái sự chờ đợi đó dường như là vô vọng, bế tắc bởi lẽ: “Cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi”. Cảm thông trước cảnh buồn khổ của những người chinh phụ, Đặng Trần Côn đã sáng tác tác phẩm Chinh phụ ngâm bằng chữ Hán và Đoàn Thị Điểm đã dịch bài thơ này ra chữ Nôm. Trong bản dịch này, có thể thấy xuất sắc nhất là đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ”. Đặc biệt là 16 câu thơ đầu tiên.
Ngay những câu đầu của tác phẩm Chinh phụ ngâm, tác giả đã vẽ nên cảnh chia tay giữa người chinh phụ và chinh phu: “Áo chàng đỏ tựa ráng pha, Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in”. Nói như thế có nghĩa là khi người chồng đã đi chinh chiến nơi biên ải xa xôi, người vợ phải ở nhà. Đó là hoàn cảnh của người chinh phụ trong hiện tại. Không những nêu lên hoàn cảnh hiện tại của người chinh phụ, 16 câu thơ đầu còn khắc họa hình ảnh của người vợ trẻ giữa không gian và thời gian. Về không gian, tác giả đã vẽ ra trước mắt chúng ta về hiên vắng, ngoài rèm, trong rèm. Đó là không gian hiu quạnh và vắng vẻ vô cùng.
Không chỉ thế, thời gian trong đoạn thơ này cũng được vẽ nên, đó là trục thời gian trôi chảy. Các hình ảnh hoa đèn, tiếng gà eo óc đã vẽ nên cái trục thời gian tuần hoàn: từ đêm đến đêm khuya và trời dần trở về sáng. Nói như thế có nghĩa là người chinh phụ đã thức suốt năm canh để chờ đợi, ngóng trông và gặm nhấm nỗi cô đơn, sầu muộn của mình.
Tóm lại, đoạn trích đã cho ta thấy được hình ảnh của người chinh phụ nổi bật giữa không gian và thời gian. Vậy giữa cái khoảng không gian quạnh vắng, cô đơn chiếc bóng ấy, giữa thời gian lê thê của năm canh ấy người chinh phụ đã làm gì?
Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
Hai câu thơ đầu đã cho chúng ta thấy hình ảnh của người chinh phụ với những hành động thật lạ kì. Người chinh phụ dạo hiên, người chinh phụ ngồi rèm. Thế nhưng, nàng dạo hiên mà thầm gieo từng bước, nàng ngồi rèm mà rủ thác đòi phen. Đó là hành động quanh quẩn, được lặp lại nhiều lần. Có thể thấy hành động này bất thường bởi lẽ nàng dạo hiên mà đếm từng bước chân. Nàng ngồi trước cửa sổ mà hết hạ rèm xuống rồi kéo rèm lên.
Hành động vô thức ấy cứ lặp đi lặp lại để cho thấy được rõ ràng bên trong người chinh phụ đang chất đầy tâm trạng. Nàng ngồi rèm, nàng dạo hiên không phải đề hòa mình với thiên nhiên, mà là để trông ngóng một điều gì đó. Có thể thấy, 2 câu thơ đầu đã đặc tả được sự cô đơn, lẻ loi, vắng bóng cũng như hé mở tâm trạng bên trong của người vợ trẻ này. Nàng đang chờ đợi, ngóng trông điều gì mà lòng thổn thức không yên. Và đến những câu thơ tiếp theo thì tâm sự của người chinh phụ đã được hé mở:
Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?
Cụm từ “thước chẳng mách tin” hé lộ mọi tâm trạng của người chinh phụ. Thì ra người vợ trẻ ấy đang chờ đời con chim thước – con chim báo tin lành, tin của người chồng nơi biên ải xa xôi. Thế nhưng, con chim thước không đến và người chồng cũng bặt vô âm tín.
Tiếp theo đó, tác giả đã sử dụng thủ pháp đối lập giữa ngoài rèm với trong rèm và câu hỏi tu từ: “Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?”. Chính cái thủ pháp đối lập và câu hỏi tu từ, một lần nữa cho chúng ta thấy được cái tâm trạng trách móc, buồn bã của người chinh phụ.
Bên cạnh đó, ta còn cảm nhận được sự tuyệt vọng của người vợ đang mòn mỏi chờ đợi tin tức của chồng. Những câu thơ đầu vẽ nên tình cảnh của người chinh phụ trong lẻ loi, cô đơn, vô vọng. Người chinh phụ ấy thật đáng thương biết bao. Và đáng thương hơn nữa khi nàng chỉ biết làm bạn với ngọn đèn:
Đèn có biết dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Với thủ pháp điệp từ: “đèn biết chăng”; “đèn có biết”. Tác giả đã vẽ nên dòng tâm trạng triền miên, day dứt, không nguôi của người vợ trẻ. Thêm vào đó, với câu hỏi tu từ” đèn có biết dường bằng chẳng biết” như là một nỗi ám ảnh, như là một tiếng lòng thổn thức không nguôi của người chinh phụ. Hai câu thơ này đã cho ta thấy tâm trạng buồn rầu, xót xa của người vợ khi chờ đợi mãi mà chưa có tin tức gì. Không chỉ thế, 2 câu thơ với câu hỏi tu từ đã tạo nên một dòng chảy tâm trạng triền miên, day dứt. Và dòng tâm trạng ấy lại trở nên dai dẳng hơn nữa, triền miên hơn nữa khi nó đặt giữa một không gian và thời gian chẳng bao giờ ngừng và đứt đoạn:
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương.
Bên cạnh việc sử dụng phép điệp, câu hỏi tu từ, đoạn thơ còn sử dụng nhiều hình ảnh mang tính ước lệ tượng trưng: hoa đèn, bóng người và cạm từ như bi thiếp, buồn rầu. Với những hình ảnh và cụm từ ấy, tác giả một lần nữa cho ta thấy sự cô đơn, sầu muộn. Đặc biệt hình ảnh hoa đèn khiến ta liên tưởng đến những câu ca dao thật hay thật đẹp về chuyện tình yêu:
Khăn thương nhớ ai,
Khăn rơi xuống đất.
Khăn thương nhớ ai,
Khăn vắt lên vai.
Khăn thương nhớ ai,
Khăn chùi nước mắt.
Đèn thương nhớ ai,
Mà đèn không tắt.
Mắt thương nhớ ai,
Mắt ngủ không yên.
Đêm qua em những lo phiền,
Lo vì một nỗi không yên một bề…
Cô gái trong bài ca dao hay người vợ trẻ trong chinh phụ ngâm khúc đều phải mòn mỏi từng ngày, từng tháng, từng năm để ngóng trông tin tức của người yêu, người chồng. Không chỉ thế, hình ảnh hoa đèn và bóng người khá thương còn gợi ta liên tưởng đến chuyện người con gái nam xương của nguyễn dữ. Cả vũ nương trong tác phẩm này và người chinh phụ của Đặng Trần Côn. Cảnh vật trong đoạn trích này vẫn không thay đổi, nhưng thời gian lại trôi chảy tuần hoàn:
Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên.
Cụm từ âm thanh “gà eo óc” đã diễn tả được sự trôi chảy của thời gian. Nếu như ở các câu thơ trước xuất hiện hình ảnh đèn-báo hiệu đã tối, hoa đèn – báo hiệu đã khuya, và cuối cùng là tiếng gà – báo hiệu trời đã sáng. Không chỉ có âm thanh tiếng gà eo óc mà còn có cả không gian qua hình ảnh lá hèo. Hình ảnh hòe phất phơ rủ bóng bốn bên gợi lên một không gian vắng lặng, tĩnh mịch, hoang vắng. Người xưa đã nói: Thức đêm mới biết đêm dài. Phải thức đêm mới biết được cái khoảng thời gian ấy trôi qua một cách lê thê. Người chinh phụ đã cảm nhận được dòng thời gian trôi chảy:
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.
Thủ pháp so sánh “trích thơ” cùng với các từ láy đằng đẵng dằng dặc đã cho chúng ta cảm nhận được cái âm điệu sầu não, day dứt của đoạn thơ. Không chỉ tạo nên cái âm điệu sầu não, tác giả đã sử dụng thủ pháp lấy cảnh ngụ tình để thể hiện nỗi cô đơn, vắng bóng, sầu khổ của người chinh phụ. Nỗi nhớ ấy dài lê thẻ tựa cả một năm. Không những dài mà nỗi nhớ ấy còn rộng, sâu tự biển cả rộng lớn. Ai có thể thấy được bờ bến của biển khơi, ai có thể thấu được cái lòng đại dương kia đến tận đâu. Tấm lòng của người chinh phụ được ví von với những hình ảnh mang đậm sắc thái biểu cảm như thế.Người chinh phụ cố gắng tìm mọi cách để vượt ra khỏi vòng vây của cảm giác cô đơn đáng sợ nhưng vẫn không sao thoát nổi.
Hương gượng đốt hồn đà mê mải,
Gương gượng soi lệ lại châu chan.
Trong đoạn thơ này tác giả đã liệt kê hàng loạt hành động của người chinh phụ. Người chinh phụ đốt hương,soi gương, gảy đàn. Thế nhưng những hành động ấy đều gượng gạo và miễn cưỡng. Nằng làm đó nhưng đó là hành động của người có xác mà không hồn. nàng làm đó nhưng bên trong tư tưởng tâm trí lại nghĩ về điều khác. Người chinh phụ đốt hương cầu mong hạnh phúc gia đình, nhưng nàng đốt hương mà hồn đà mê mải. Nàng soi gương nhưng soi gương làm chi, trang điểm làm gì khi không có chồng bên cạnh. Hình ảnh người chinh phụ soi gương khiến ta liên tưởng đến bài thơ Khuê oán của vương xương linh. Trong bài thơ này, tác giả đã khắc họa hình ảnh người chinh phụ trang điểm sau đó lên lầu để ngắm cảnh. Nhưng lên đến lầu mới nghiệm ra nhiều điều:
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc,
Hối giao phu tế mịch phong hầu.
(Chợt thấy màu dương liễu tốt tươi ở đầu đường,
Bỗng hối hận đã để chồng đi tòng quân để kiếm phong hầu.)
Khi trông thấy dáng liễu bên đường mới nhận ra thời gian trôi chảy vô tình, nhan sắc của nàng dần tàn phai và người chồng ngày ra đi chưa biết ngày trở về. Nhân vật trữ tình còn gảy đàn. Nàng gảy đàn để tìm đến thú vui tao nha. Mong rằng tiếng đàn kia sẽ làm vơi bớt nỗi muộn phiền. Thế nhưng, gảy đàn mà lại dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng:
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng.
Câu thơ sử dụng điển tích dây uyên và phím loan. Chính 2 điển tích này đã diễn tả tâm trạng tiếp theo của người chinh phụ. Không chỉ cô đơn, không chỉ lẻ loi, không chỉ sầu muộn mà lúc này đây tràn đầy nỗi lo lắng và sợ hãi. Nàng sợ dây uyên ngại chùng sợ điềm gở sẽ đến, sợ vợ chồng chia lìa xa cách.
Người chinh phụ cố gắng tìm mọi cách để vượt ra khỏi vòng vây của cảm giác cô đơn đáng sợ nhưng vẫn không sao thoát nổi. Nàng gắng gượng điểm phấn tô son và dạo đàn cho khuây khỏa nhưng càng lún sâu hơn vào sự tuyệt vọng. Chạm đến đâu cũng là chạm vào nỗi đau, chạm vào tình cảnh lẻ loi đơn chiếc. Khi Hương gượng đốt thì hồn nàng lại chìm đắm vào nỗi thấp thỏm lo âu. Lúc Gương gượng soi thì nàng lại không cầm được nước mắt bởi vì nhớ gương này mình cùng chồng đã từng chung bóng, bởi vì phải đối diện với hình ảnh đang tàn phai xuân sắc của mình. Nàng cố gảy khúc đàn long phụng sum vầy thì lại chạnh lòng vì tình cảnh vợ chồng đang chia lìa đôi ngả, đầy những dự cảm chẳng lành: Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng. Rốt cuộc, người chinh phụ đành ngẩn ngơ trở về với nỗi cô đơn đang chất ngất trong lòng mình vậy.
Sắt cầm, uyên ương, loan phụng là những hình ảnh ước lệ tượng trưng cho tình yêu nam nữ, tình nghĩa vợ chồng. Nay vợ chồng xa cách, tất cả đều trở nên vô nghĩa. Dường như người chinh phụ không dám đụng tới bất cứ thứ gì vì chúng nhắc nhở tới những ngày đoàn tụ hạnh phúc đã qua và linh cảm đến sự chia Hai đôi lứa trong hiện tại. Tâm thế của nàng thật chông chênh, chơi vơi khiến cho cuộc sống trở nên khổ sở, bất an. Mong chờ trong nỗi sợ hãi và tuyệt vọng, hồng chí còn biết gửi nhớ thương theo cơn gió.
Với thể thơ song thất lục bát, cách dùng từ, hình ảnh ước lệ, điệp từ điệp ngữ, nghệ thuật miêu tả nội tâm, 16 câu thơ đã thể hiện một cách tinh tế những cung bậc sắc thái tình cảm khác nhau của nỗi cô đơn buồn khổ ở người chinh phụ, luôn khao khát được sống trong hạnh phúc, tình yêu lứa đôi. Đoạn trích còn thể hiện tấm lòng yêu thương, cảm thông sâu sắc của tác giả với những khát khao hạnh phúc chính đáng của người thiếu phụ, cất lên tiếng kêu nhân đạo, phản đối chiến tranh phi nghĩa.
Bài tham khảo số 8
Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ là một đoạn trích tiêu biểu trong tác phẩm Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn. Đoạn trích không chỉ thể hiện được tâm trạng của người phụ nữ có chồng đi lính mà còn có nhiều nét đặc sắc về nghệ thuật. Với ngòi bút sâu sắc và khéo léo tác giả đã phản ánh một hiện thực xã hội về chiến tranh, nó không chỉ ảnh hưởng tới người trực tiếp tham gia chiến đấu mà nó còn ảnh hưởng tới người thân của họ mà cụ thể là người vợ.
Trước hết đoạn trích thể hiện nỗi cô đơn tủi phận, nỗi thương nhớ buồn thương mong muốn gửi tới chàng tấm lòng vàng của người phụ nữ. Những hành động, cử chỉ, trạng thái tâm trạng được tăng tiến dần thể hiện nỗi cô đơn buồn tủi chuyển dần thành nỗi bi ai, buồn rầu, tuyệt vọng:
“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?
Đèn có biết, dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương!”
Hành động dạo hiên vắng cho thấy người phụ nữ đang cô đơn, quanh quẩn với thềm với chiếc rèm và cây đèn hoa nọ. Nàng không thể làm gì và cũng không thiết làm gì. Nàng dạo từng bước một, như gieo mình buông thả mặc cho bước chân đi tới đâu, cũng không mảy may đến độ dài rộng của chiếc bậc để khỏi bị ngã. Hành động này thể hiện tâm trạng thơ thẩn thẫn thờ của nàng khi thiếu vắng chàng. Hết gạo thì lại ngồi, trong lòng nỗi băn khoăn, nhớ nhung cứ dằng dặc. Nàng ngồi trong chiếc rèm rồi chờ con thước báo tin chồng nhưng chỉ tuyệt vọng. Nàng tự hỏi đèn thường xuyên thức cùng nàng mong ngóng tin chồng thì liệu đèn có biết được nỗi lòng của nàng. Đèn chỉ là vật vô tri vô giác làm sao có thể hiểu thấu được lòng nàng. Tâm trạng nàng thay đổi từ thẫn thờ đến trông mong, bi thiết và buồn rầu tuyệt vọng.
Nàng chờ đợi trông mong rồi thức cả năm canh dài, một khắc trôi qua dài như một năm, mối sầu được thế càng giăng kín trong lòng người thiếu phụ. Nàng ngắm nhìn cảnh vật mà tự thương lấy bản thân mình. Buồn là thế nàng gượng cả đốt hương, vì càng đốt thì nàng hồn nàng càng như mê mệt, nàng gượng cả soi gương vì sợ nhìn thấy chính mình lại nước mắt thương thân. Muốn đánh đàn để vơi đi nỗi nhớ, để bày tỏ lòng mình với trời đất nhưng lại kinh ngại dây tơ hông, loan phượng đứt chùng:
“Hương gượng đốt, hồn đà mê mải,
Gương gượng soi, lệ lại chứa chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng”
Như vậy, nhà thơ đã vẽ lên một bức tranh người và cảnh đẹp nhưng buồn. Bức tranh ấy có hình ảnh của những bông hòe ủ rủ bốn bên, mềm mại những yếu ớt, có những hạt mưa phùn rơi trên thềm vắng. Người con gái như đang chuyển động từ dạo bước rồi ngồi rồi lại mong ngóng trông xa. Người thiếu phụ ấy vẫn còn trẻ nhưng lại đang đối mặt với nguy cơ trở thành một người phụ nữ góa chồng. Nàng cô đơn một phần thì thương nhớ lo lắng đến hơn mười phần.
Bài tham khảo số 6
Chinh Phụ Ngâm là một trong những tác phẩm văn học trung đại xuất sắc nhất trong lịch sử văn học Việt Nam mà ở đó, lồng ghép những mạch cảm xúc, câu chuyện thấm đẫm nỗi bi thương về thân phận người phụ nữ thời kỳ lúc bấy giờ, đồng thời gián tiếp miêu tả chân thực bức tranh hiện thực xã hội cay đắng, bất công.
"Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen."
Không gian hiên vắng, ngay từ những vần thơ đầu đã gieo vào lòng người đọc những cảm nhận u buồn, kết hợp với các động từ như "dạo, gieo từng bước", cho thấy những bước chân nặng nề mang đầy tâm trạng bâng khuâng, lo lắng, bồn chồn, thấp thỏm của người phụ nữ dưới mái hiên nghèo, những ngày động cứ lặp lại vô nghĩa, càng thể hiện sự hoang hoải và trống rỗng trong tâm trí. Và rồi dường như, nhân vật đang phân tâm để đối thoại độc thoại với chính mình, mà lại vừa có cảm giác như một lời trách móc:
"Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng.
Đèn có biết dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi."
Bắt đầu từ đây, người chinh phụ bộc lộ nỗi lòng cô đơn và sự nhớ mong, nhớ thương khôn xiết đến người chinh phụ nơi chiến trận phương xa. Nàng không chỉ mang nỗi nhớ đơn thuần, mà còn mang trong lòng sự khắc khoải khôn nguôi, trằn trọc khi không nhận được tin tức về người chinh phụ. Hình ảnh chim thước - loài vật báo tin tốt lành xuất hiện chính là sự minh họa rõ nhất cho nỗi lòng ấy. Nghệ thuật đối lập "ngoài rèm" và "trong rèm" để cho thấy nỗi cô đơn ấy bao trùm mọi không gian, thậm chí lan thấm vào nhuốm vào màu không gian một sắc buồn ảm đạm. Càng nhớ, càng mong mỏi được giãi bày, và ngọn đèn trở thành người tri kỉ trong vò võ cô đơn để người chinh phụ tâm sự. Ca dao xưa đã từng có bài ca dao khăn thương nhớ ai, cũng miêu tả hoàn cảnh của người phụ nữ trong vò võ đêm trường, một mình bầu bạn với ngọn đèn khuya, chính ngọn đèn khuya leo lét, lạnh lẽo càng nhấn mạnh thêm tình cảnh trơ trọi lẻ loi của người chinh phụ:
"Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương."
Người chinh phụ tự thương cho thân phận mình, bỗng nhận thấy trong bóng đèn dầu kia phản chiếu lên bức tường với số phận, thân phận mình như nhập hòa làm một, nỗi buồn mượn ngọn đèn để san sẻ nhưng cũng chẳng thể thỏa nỗi nhớ mong, niềm khát khao đồng điệu.
“Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên.
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa."
Không gian khi càng về sáng, càng yên tĩnh, đó cũng là không gian mà tâm trạng những người cô đơn càng thêm đơn độc, lẻ loi biết nhường nào. Cảnh vật xung quanh cũng heo hút, phất phơ, các từ eo óc, phất phơ, càng gợi cho ta cảm giác rằng người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Nỗi nhớ vốn vô hình, vốn không thể cân đong đo đếm, nay được định lượng hóa bằng sự đằng đằng của tháng năm, bằng sự rộng dài của dòng thời gian trường cửu, càng thêm quay quắt và trở nên trơ trọi. Và giờ đây, nỗi nhớ đã trở thành mối sầu tựa miền ải xa, nghĩa là nó không chỉ thuộc về cảm xúc, mà còn đang mang những âu lo, khắc khoải, rợn ngợp về tương lai.
Những phím đàn gảy lên càng gợi cảm giác về sự đơn độc, về sự hoang hoải trống vắng trong tâm hồn, và tràn ngập những nỗi sợ hãi về tương lai. Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, tác giả đã lột tả một cách sống động chân thực cảm xúc cô đơn và nỗi nhớ thương khắc khoải đến quặn thắt của người chinh phụ, đồng thời qua đó gián tiếp vạch trần tội ác của chế độ chiến tranh phi nghĩa năm xưa, khiến gia đình phải tan tác, đau thương.
Bài tham khảo số 7
Trong văn học trung đại, để lên án sự suy tàn của xã hội phong kiến cũng như ngợi ca những khát khao niềm hạnh phúc của con người, nhiều thi nhân đã gửi gắm tâm sự, nỗi bất bình của mình vào các bài thơ, khúc ngâm. Thời Đường ở Trung Quốc, Vương Xương Linh oán ghét cuộc chiến tranh phi nghĩa, mà viết Khuê oán. Thời Lê ở nước ta, Đặng Trần Côn cảm thông thâm thúy trước số phận những người dân phụ nữ có chồng đi lính mà làm ra tuyệt tác Chinh phụ ngâm. Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ thuộc tác phẩm trên đã chạm đến trái tim người đọc khi tái hiện hoàn cảnh cô độc, nỗi nhớ thương da diết của người phụ nữ ước mơ niềm hạnh phúc đoàn tụ.
Chinh phụ ngâm ra đời vào tầm khoảng thế kỷ XVIII, đầu đời Lê Hiển Tông, trào lưu khởi nghĩa nông dân diễn ra liên miên, triều đình điều binh lính đi dẹp loạn. Từ đấy nhiều gia đình chịu cảnh chia lìa, kẻ ở người đi, không hẹn ngày tái ngộ. Số phận và thảm kịch của những con người nhỏ bé trong cái xã hội phong kiến đang đứng bên bờ vực thẳm ấy đã lay động trái tim của Đặng Trần Côn.
Trong khúc ngâm viết bằng chữ Hán của ông có 476 câu thơ, tuân theo thể trường đoản cú. Khi Đoàn Thị Điểm dịch sang chữ Nôm đã chuyển tác phẩm về thể thơ song thất lục bát, dùng âm điệu réo rắt, thiết tha của thể thơ dân tộc bản địa góp phần thể hiện tình cảnh và tâm trạng của người phụ nữ có chồng đi lính. Sở dĩ Hồng Hà nữ sĩ trung thành với chủ với nguyên tác và có nhiều sáng tạo trong quá trình dịch bởi dịch giả đã ở cùng một hoàn cảnh với nhân vật trữ tình: sau lúc cưới không lâu, chồng bà là Nguyễn Kiều phải đi sứ Trung Quốc, chính vì thế, bà thấu hiểu cảnh sống cô đơn, tẻ nhạt với những buồn lo, nhung nhớ của người chinh phụ.
Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ viết về tình cảnh và tâm trạng người chinh phụ phải sống cô đơn, buồn khổ trong thời gian dài người chống đi đánh trận, không có tin tức, không rõ ngày quay trở về. Tình cảnh lẻ loi, nỗi cô đơn bủa vây của người chinh phụ, nỗi thương nhớ người chồng phương xa, sự khao khát niềm hạnh phúc lứa đôi… là những ý chính khi phân tích Chinh phụ ngâm.
Sau thời điểm tiễn chồng ra trận, người chinh phụ bơ vơ chốn khuê phòng vắng lặng, lạnh lẽo, nỗi khổ tâm của nàng được bộc lộ qua hành động và ngoại cảnh:
“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?”
Người chinh phụ rải bước trong hiên vắng, vừa đi vừa thầm đếm bước tiến mình, như đếm từng ngày chồng đi. Những bước tiến lặng lẽ của nàng nặng trĩu u sầu, đong đầy thương nhớ, như bước tiến người cung nữ trong Cung oán ngâm của Nguyễn Gia Thiều: “Ngán trăm chiều bước lại ngẩn ngơ”.
Trong những buổi đi dạo của nàng không còn vẻ ung dung, an nhàn mà thay vào đó là sự việc ngán ngẩm, buồn chán – tâm trạng khác hẳn với Thúy Kiều khi bước đi tìm người yêu: “Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”. Nàng Kiều đi tìm tình quân trong thú vui sướng, niềm hạnh phúc ngập tràn, còn người chinh phụ vừa đi vừa gặm nhấm nỗi cô đơn, lo lắng cho việc an nguy của người thân chốn biên ải xa xôi.
Nàng hết dạo hiên, lại ngồi buồn, cuốn rèm, buông rèm. Những hành động vô nghĩa ấy được lặp đi tái diễn trong vô thức, nàng chẳng còn bận tâm mình đang làm gì bởi tâm trí nàng giờ dồn hết vào người chồng đang tòng quân. Thẩm mỹ và làm đẹp sử dụng từ ngữ “vắng”, “thưa” vẽ ra không gian trống trải, thưa thớt tình thương yêu, càng tô đậm sự lẻ loi, buồn bã, bồn chồn của nhân vật trữ tình.
Người chinh phụ không chỉ buồn nhớ, lo lắng cho chồng mà còn trông ngóng tin chàng. Nàng đợi tin lành của chim thước sẽ xoa dịu nỗi không an tâm, nhưng chim thước không tới. Nàng lại trở bóng đèn, hỏi đèn mà hỏi lòng. Phân tích Chinh phụ ngâm sẽ thấy nàng nhận ra rằng càng hi vọng, mòn mỏi trông chờ thì sẽ càng hụt hẫng, tuyệt vọng.
Khát khao sum vầy đoàn tụ, khát khao hơi ấm gia đình của nàng càng khiến nàng đau đớn, thất vọng. Vướng mắc tu từ và điệp từ “rèm” tái diễn ba càng đẩy nàng vào bế tắc, cái bế tắc của xã hội phong kiến suy tàn, của triều đình loạn lạc khiến niềm tin của con người về tình yêu, niềm hạnh phúc không còn giá trị. Chao ôi, người chinh phụ mới đáng thương làm thế nào!
Phân tích Chinh phụ ngâm sẽ thấy người chinh phụ hết mong ngày, lại mong đêm, khi bóng tối cô đơn tịch mịch kéo xuống bao trùm lấy nàng, nàng chỉ có thể làm bạn với bóng đèn:
“Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?
Đèn có biết dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Rầu rĩ nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương.”
Điệp ngữ bắc cầu “đèn biết chăng”, “đèn có biết” khiến nỗi buồn đau, thương nhớ của người chinh phụ thêm da diết, day dứt. Trong tâm trạng đó, nàng đối diện với ngọn đèn dầu, mong muốn được thấu hiểu, được chia sẻ tâm tư…
Khi phân tích Chinh phụ ngâm, ta thấy hình ảnh cây đèn dầu cũng xuất hiện trong những tác phẩm văn học dân gian và văn học trung đại khác. Ca dao có câu “đèn thương nhớ ai/ mà đèn không tắt”, thể hiện nỗi nhớ nhung tha thiết của người con gái với những người mình yêu. Trong Chuyện người con gái Nam Xương, Vũ Nương cũng lấy ngọn đèn dầu để xóa giải nỗi cô đơn khi Trương Sinh đi lính.
Nhưng đến Chinh phụ ngâm, ý nghĩa biểu tượng của ánh đèn dầu không chỉ tạm dừng ở đó. Đặng Trần Côn mượn cây đèn đang tàn mà ẩn dụ sự trôi đi nhanh chóng của thời gian, sự tàn lụi, héo hon của kiếp người. Nhà thơ như đang muốn nói: cuộc đời chỉ là kiếp hoa đèn mong manh dang dở. Chính vì vậy, vật vô tri vô giác là cây đèn cháy đỏ khắc khoải, cháy đến tàn bấc dầu kia không những không thể đồng cảm với nỗi đau buồn, tình cảnh cô đơn, lẻ loi người chinh phụ mà càng khiến nàng vô vọng khôn cùng.
Tâm trạng của nhân vật trữ tình được khắc họa bằng những tính từ chỉ cảm xúc: “bi thiết”, “rầu rĩ”, “thương”. “Bi thiết” được hiểu là sự việc bi thương, thảm thiết. Từ “thiết” theo nghĩa Hán Việt còn tồn tại nghĩa là cắt, mài. Những suy tư muộn phiền của người chinh phụ khao khát được bộc lộ, được thấu hiểu.
Nhưng trong tình cảnh cô độc vắng tẻ của nàng biết lấy ai để trút bầu tâm sự. Nàng chỉ biết dồn nén những cảm xúc ấy, cảm nhận nỗi đau như thể trái tim bị cứa, mài. Qua việc cảm nhận tâm sự của người chinh phụ khi đối diện với ngọn đèn, người đọc trầm trồ ngợi ca tài năng nghệ thuật và thẩm mỹ trong miêu tả tâm trạng của tác giả!
Ngọn đèn tắt, bỏ lại người chinh phụ cô quạnh trong đêm dài tịch mịch u sầu:
“Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên.”
Một đêm dài năm canh, người chinh phụ vì trông ngóng người chinh phụ, thức trọn năm canh, nghe tiếng gà gáy mà sợ hãi, rầu rĩ. Cái âm thanh “eo óc” ấy thưa thớt, ghê rợn, tang tóc, khó chịu, từng tiếng từng tiếng vang lên rõ mồn một, đối lập với việc tĩnh lặng, trầm lắng trong tâm nàng. Tiếng gà gáy trong đêm gợi ra khoảng trống không gian mênh mông, hiu quạnh, khiến người phụ nữ cô đơn, lẻ loi trở nên nhỏ bé, đáng thương. Thẩm mỹ và làm đẹp lấy động tả tĩnh đẩy tâm trạng người chinh phụ lên một nấc thang mới, khiến nó đau đớn hơn, cô độc hơn, dày vò nàng hơn.
Không chỉ có tiếng gà gáy khiến nàng trằn trọc, bóng “hòe phất phơ” cũng khiến người chinh phụ suy tư, lo nghĩ. Vây quanh người chinh phụ là những bóng vía mập mờ lay động trong đêm, như ẩn như hiện, như có như không. Từ láy gợi hình “phất phơ” càng tăng thêm tính mơ hồ, hư ảo của cảnh vật, của tin tức về người chồng ngoài biên ải, của những buổi đoàn tụ, sum họp gia đình trong mơ ước ấy, nàng càng mong chờ, càng cảm thấy xa xôi.
Phân tích Chinh phụ ngâm, ta thấy hình ảnh cây hòe trong câu thơ trên gợi nhắc về bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi: “Hòe lục đùn đùn tán rợp giương”. Cây hòe của Nguyễn Trãi đẹp, căng tràn nhựa sống, gợi nên sự vui tươi của buổi chiều mùa hạ, khác hẳn với vẻ buồn bã, u sầu của cây hòe đặt trong đêm khuya thanh vắng trong khúc ngâm của Đặng Trần Côn. Từ đó ta thấy nghệ thuật và thẩm mỹ dùng từ của tác giả, từ tính từ “phất phơ” đến động từ “rủ”, tất cả mang sắc thái chán chường, ủ rũ.
Trong không gian vắng lặng, thời gian đã đi qua màn đêm, người chinh phụ ôm nỗi nhung nhớ, thấm thía về thảm kịch đời mình:
“Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.”
Vắng chồng, cuộc sống của người chinh phụ thật tẻ nhạt, buồn chán và nặng nề với những thương nhớ đong đầy từng khắc, cô đơn bủa vây từng giờ. Những ngày tháng này, thời gian trôi đi thật chậm chạp, như muốn gặm nhấm chuỗi ngày sầu bi của nàng. Một ngày không còn được đo bằng vài canh, mấy khắc, mà được tính đếm bằng cả năm dài “đằng đẵng”.
Từ láy “đằng đẵng” kéo dãn dài thời gian, kéo dãn dài nỗi buồn và tình cảnh lẻ loi của người phụ nữ có chồng ra trận. Nàng giờ ở vào hoàn cảnh của Kim Trọng khi thương nhớ Thúy Kiều: “Sầu đong càng lắc càng đầy/ Ba thu dọn lại một ngày dài ghê!” Trong những ngày tháng khó khăn này, người chinh phụ ngẫm về cuộc hôn nhân gia đình dang dở, về cuộc đời không được hưởng niềm hạnh phúc trọn vẹn, khiến nàng đã sầu lại càng sầu thêm. Quả đúng là “sầu đong càng lắc càng đầy”, nỗi buồn của người chinh phụ càng triền miên, không có kết quả cuối cùng.
Phân tích Chinh phụ ngâm sẽ thấy tác giả đã so sánh tâm tư của nàng với hình ảnh ước lệ “miền biển xa”, những lo lắng, buồn thương, đau xót của người chinh phụ vượt ra ngoài giới hạn về không gian và thời gian. So sánh với bản chữ hán của Đặng Trần Côn “Sầu tự hải/ Khắc như niên”, ta thấy Đoàn Thị Điểm không chỉ trung thành với chủ với nguyên tác mà còn tồn tại những sáng tạo riêng trong quá trình dịch, giúp người đọc đơn giản và giản dị hiểu, đơn giản và giản dị đồng cảm hơn với nhân vật trữ tình.
Người chinh phụ chán ghét thời gian trôi chậm chạp, cố vùng thoát khỏi chuỗi ngày cô đơn, lẻ loi dai dẳng:
“Hương gượng đốt hồn đà mê mải
Gương gượng soi lệ lại châu chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.”
Mong muốn xóa tan ưu phiền, người chinh phụ đốt hương nhưng lại không kìm lấy được lòng mà mê man trong quá khứ. Trong đoạn trích Thề nguyền trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, Kim Trọng cũng đốt hương “Đài sen nối sáp, lò đào thêm hương” để mùi hương trầm ấm áp làm chứng cho thời khắc quan trọng – hai người cất hẹn ước trăm năm.
Người chinh phụ cũng bổi hổi nhớ lại lời hẹn thề năm nào. Mùi hương trầm đã vô tình đưa nàng trở về những tháng ngày niềm hạnh phúc trước kia, để tâm hồn nàng lạc đi tìm những kí ức đẹp quá xa vời. Nhưng càng tiếc nuối quá khứ tươi đẹp, nhân vật trữ tình càng thấm thía thảm kịch hiện tại. Nàng trơ trọi, bơ vơ trong sự thật hiển nhiên: những mặn nồng xưa kia không thể lấy lại được.
Có thể thấy, việc đốt hương vốn để tìm lại niềm thanh thản trong tâm hồn lại khiến người phụ nữ bé nhỏ, đáng thương và bơ vơ thêm thống khổ. Người chinh phụ đành tìm cách khác để giải tỏa tâm sự: nàng soi gương. Trong chuỗi ngày đợi chờ người chinh phu, người chinh phụ chẳng buồn đoái hoài đến phấn son hoa lệ: “Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai?”.
Nhưng đêm nay, mong muốn thoát khỏi nỗi cô đơn bủa vây, nàng gượng gạo cầm gương soi. Nàng giật mình xót xa cho dung nhan võ vàng của người phụ nữ trong gương kia. Nàng thương hai con mắt buồn chứa chan u sầu, nàng thương đôi môi chẳng thể nở một nụ cười nhạt, nàng khóc cho tuổi xuân héo tàn, cho dung mạo đang độ tươi thắm bị nỗi đau âm ỉ tàn phá. Nhưng những giọt lệ nào có thể giúp nàng cứu vãn được tình cảnh bi đát này.
Phân tích Chinh phụ ngâm sẽ thấy, khi cảm thấy việc đốt hương hay soi gương không thể giúp quên đi chuyện buồn, người chinh phụ tìm về tiếng đàn. Tác giả sử dụng một loạt hình ảnh ước lệ như “sắt cầm”, “dây uyên”, “phím loan” tượng trưng cho tình yêu đôi lứa, cho vợ chồng hòa hợp. Người chinh phụ lo sợ dây đàn đứt, báo điều chẳng lành về cuộc hôn nhân gia đình hiện nay đang bị chia cắt, về người chồng ngoài chiến trường bặt vô âm tín.
Điệp từ “gượng” cho thấy sự cố gắng nỗ lực gượng gạo, chán nản ở người chinh phụ, nàng vùng vẫy trong nỗi cô đơn nhưng lại bị chính nỗi cô đơn bóp chặt. Những thú vui của tầng lớp quý tộc kia giờ đây lại không thể đem lại cho nàng thú vui. Hơn thế nữa chúng lại như liều thuốc kích thích khối u sầu khổ trong tâm nàng. Nàng chỉ muốn được sum vầy mà thôi, những buổi đoàn tụ trong tưởng tượng của nàng lại quá đỗi xa xỉ trong hoàn cảnh này.
Góp phần truyền tải nội dung và giá trị nhân đạo của Chinh phụ ngâm là tài năng nghệ thuật và thẩm mỹ và sáng tạo tài tình của tác giả và dịch giả. Xuyên thấu mười tám câu thơ trong đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ là các biện pháp nghệ thuật và thẩm mỹ như điệp ngữ, thắc mắc tu từ, ẩn dụ,… và các văn pháp ước lệ tượng trưng, tả cảnh ngụ tình.
Khi phân tích Chinh phụ ngâm cũng như đoạn trích sẽ thấy tác giả có sự chọn lọc tinh tế các từ ngữ gợi hình, gợi cảm để miêu tả rõ ràng và cụ thể và chân thực, cảm động từng cung bậc cảm xúc của nhân vật trữ tình. Thêm vào đó, thể thơ song thất lục bát với âm điệu réo rắt, thiết tha, giàu tính nhạc cũng góp phần quan trọng thể hiện nội tâm người chinh phụ. Sát gần đó, Đoàn Thị Điểm rất trung thành với chủ với nguyên tắc khi dịch nên nhiều ý thơ giàu cảm xúc được truyền tải đến người đọc một cách trọn vẹn.
Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ trích Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn đã để lại trong tâm người đọc nhiều dư âm thâm thúy về nỗi buồn đau, thương nhớ da diết, tình cảnh cô độc, lẻ loi của người phụ nữ có chồng đi lính. Thông qua đó, người đọc hiểu những tâm tư tình cảm và suy nghĩ của tác giả về con người, xã hội đương thời. Ông lên án cơ chế phong kiến mục nát với những trận đấu tranh phi nghĩa kéo dãn dài và ngợi ca tình yêu cao đẹp, khát khao yêu thương đôi lứa.
Bài tham khảo số 4
“Chinh phụ ngâm khúc” là một trong những kiệt tác của danh sĩ, nhà thơ Đặng Trần Côn. Tác phẩm được viết bằng chữ Hán, được mọi người biết đến qua bản tương truyền của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm. Đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” bộc lộ rõ tâm trạng u buồn, nhớ nhung của người chinh phụ khi phải sống trong tình cảnh lẻ loi, vì chồng phải tham gia vào trận đánh chiến tranh tàn khốc. Tác phẩm thể hiện sâu sắc cảm hứng nhân đạo và sự lên án, tố cáo chiến tranh phi nghĩa khiến con người phải chia cắt.
Trong 16 câu thơ đầu tiên, tác giả thể hiện nỗi cô đơn của người chinh phụ trong tình cảnh lẻ loi, cảm giác về thời gian chờ đợi, cố tìm cách giải khuây mà không được. Đến 11 câu thơ tiếp theo, thi nhân đã họa lại nỗi nhớ thương chồng ở phương xa của người chinh phụ khiến lòng nàng càng thêm ảm đạm. Trong những câu thơ còn lại, cảnh vật xung quanh càng khiến lòng người chinh phụ thêm rạo rực, khao khát hạnh phúc lứa đôi.
Những câu thơ đầu tiên chất chứa tâm trạng nhớ nhung, sầu muộn của người phụ nữ:
“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?
Đèn có biết dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương”
Chúng ta thấy người chinh phụ khắc khoải chờ mong chồng dẫu ngày hay đêm. Nằm trong phòng, nàng hết buông rèm xuống lại cuốn rèm lên. Tác giả đã rất tinh tế khi miêu tả từng động tác, cử chỉ, hành động được lặp đi, lặp lại nhiều lần của người chinh phụ. Những hành động ấy không xuất phát từ bất kỳ mục đích gì, tất cả đều là những động tác vô thức, không chủ đích, không ý nghĩa, cốt chỉ để biểu lộ tâm trạng cô đơn, lẻ loi của nàng. Người chinh phụ mong mỏi có được sự đồng cảm, nhưng thực tại lại càng thất vọng: “chim thước” chẳng chịu mách tin, “đèn” không hiểu được tâm sự của mình. Câu hỏi tu từ được sử dụng “đèn biết chăng?”, “đèn chẳng biết” phải chăng là lời thở than, thể hiện nỗi khắc khoải trong đợi chờ vô vọng, day dứt mãi khôn nguôi. Tâm trạng của nhân vật đã chuyển giọng kể tự nhiên, từ lời kể bên ngoài thành lời độc thoại nội tâm da diết, dằn vặt, ngậm ngùi. Hình ảnh “ngọn đèn”, “hoa đèn” cùng với cái bóng trên tường của chính mình gợi cho người đọc nhớ đến hình ảnh đèn không tắt trong bài ca dao vốn rất quen thuộc:
“Đèn thương nhớ ai
Mà đèn không tắt?
Mắt thương nhớ ai
Mắt ngủ không yên?”
Nhận thấy trong tám câu thơ tiếp theo, người chinh phụ đã mượn cảnh thiên nhiên để diễn tả tâm trạng của mình, dùng cái khách quan để miêu tả sự chủ quan:
“Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên.
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.
Hương gượng đốt hồn đà mê mải,
Gương gượng soi lệ lại châu chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng”
Âm thanh “tiếng gà eo óc” báo hiệu canh năm, đồng thời như sự minh chứng rằng người vợ xa chồng đã thức suốt đêm dài. Hình ảnh “bóng hòe” ngoài sân, hết ngắn rồi dài, rủ xuống mặt đất, càng khiến không gian thêm ảm đạm, ngột ngạt. Thời gian của xa cách, nhớ thương cùng với tâm trạng da diết khôn nguôi. Cụm từ “gượng” được tác giả diễn tả cách đặc biệt, đi liền với các động từ “gảy”, “soi”, đốt” cùng những đồ vật “đàn”, “hương”, “gương”. Tất cả đều cho thấy, những thú vui tao nhã, những thói quen trang điểm hằng ngày của người phụ nữ, giờ đây vắng chồng, vắng niềm hạnh phúc, tiếng cười, bỗng được tiến hành một cách gượng ép. Đốt hương mà tâm hồn lại chìm đắm vào nỗi sầu tủi miên man. Soi gương lại không cầm được những giọt nước mắt không ngừng rơi vì tủi hổ. Đàn đứt dây, chùng lại, nào có thoát khỏi bể trời đơn côi?
Chúng ta thấy rằng chỉ vỏn vẹn 16 câu thơ đầu tiên, tác giả đã thể hiện rõ nỗi cô đơn, sầu tủi của người chinh phụ khi phải sống trong tình cảnh lẻ loi. Nàng cảm giác về thời gian trong đợi chờ, cố tìm cách giải khuây mà không được. Tác giả đã rất tinh tế khi diễn tả tâm trạng phong phú, tinh vi, sâu kín trong tình cảm của người phụ nữ, càng thể hiện rõ tấm lòng nhân đạo dành cho người chinh phụ trong hoàn cảnh đơn côi, lẻ loi.
Bài tham khảo số 1
Chinh Phụ Ngâm là một trong những tác phẩm văn học trung đại xuất sắc nhất trong lịch sử văn học Việt Nam mà ở đó, lồng ghép những mạch cảm xúc, câu chuyện thấm đẫm nỗi bi thương về thân phận người phụ nữ thời kỳ lúc bấy giờ, đồng thời gián tiếp miêu tả chân thực bức tranh hiện thực xã hội cay đắng, bất công.
"Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen."
Không gian hiên vắng, ngay từ những vần thơ đầu đã gieo vào lòng người đọc những cảm nhận u buồn, kết hợp với các động từ như "dạo, gieo từng bước", cho thấy những bước chân nặng nề mang đầy tâm trạng bâng khuâng, lo lắng, bồn chồn, thấp thỏm của người phụ nữ dưới mái hiên nghèo, những ngày động cứ lặp lại vô nghĩa, càng thể hiện sự hoang hoải và trống rỗng trong tâm trí. Và rồi dường như, nhân vật đang phân tâm để đối thoại độc thoại với chính mình, mà lại vừa có cảm giác như một lời trách móc:
"Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng.
Đèn có biết dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi."
Bắt đầu từ đây, người chinh phụ bộc lộ nỗi lòng cô đơn và sự nhớ mong, nhớ thương khôn xiết đến người chinh phụ nơi chiến trận phương xa. Nàng không chỉ mang nỗi nhớ đơn thuần, mà còn mang trong lòng sự khắc khoải khôn nguôi, trằn trọc khi không nhận được tin tức về người chinh phụ. Hình ảnh chim thước - loài vật báo tin tốt lành xuất hiện chính là sự minh họa rõ nhất cho nỗi lòng ấy. Nghệ thuật đối lập "ngoài rèm" và "trong rèm" để cho thấy nỗi cô đơn ấy bao trùm mọi không gian, thậm chí lan thấm vào nhuốm vào màu không gian một sắc buồn ảm đạm. Càng nhớ, càng mong mỏi được giãi bày, và ngọn đèn trở thành người tri kỉ trong vò võ cô đơn để người chinh phụ tâm sự. Ca dao xưa đã từng có bài ca dao khăn thương nhớ ai, cũng miêu tả hoàn cảnh của người phụ nữ trong vò võ đêm trường, một mình bầu bạn với ngọn đèn khuya, chính ngọn đèn khuya leo lét, lạnh lẽo càng nhấn mạnh thêm tình cảnh trơ trọi lẻ loi của người chinh phụ:
"Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương."
Người chinh phụ tự thương cho thân phận mình, bỗng nhận thấy trong bóng đèn dầu kia phản chiếu lên bức tường với số phận, thân phận mình như nhập hòa làm một, nỗi buồn mượn ngọn đèn để san sẻ nhưng cũng chẳng thể thỏa nỗi nhớ mong, niềm khát khao đồng điệu.
“Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên.
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa."
Không gian khi càng về sáng, càng yên tĩnh, đó cũng là không gian mà tâm trạng những người cô đơn càng thêm đơn độc, lẻ loi biết nhường nào. Cảnh vật xung quanh cũng heo hút, phất phơ, các từ eo óc, phất phơ, càng gợi cho ta cảm giác rằng người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Nỗi nhớ vốn vô hình, vốn không thể cân đong đo đếm, nay được định lượng hóa bằng sự đằng đằng của tháng năm, bằng sự rộng dài của dòng thời gian trường cửu, càng thêm quay quắt và trở nên trơ trọi. Và giờ đây, nỗi nhớ đã trở thành mối sầu tựa miền ải xa, nghĩa là nó không chỉ thuộc về cảm xúc, mà còn đang mang những âu lo, khắc khoải, rợn ngợp về tương lai.
Những phím đàn gảy lên càng gợi cảm giác về sự đơn độc, về sự hoang hoải trống vắng trong tâm hồn, và tràn ngập những nỗi sợ hãi về tương lai, về sự cách lý.
Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, tác giả đã lột tả một cách sống động chân thực cảm xúc cô đơn và nỗi nhớ thương khắc khoải đến quặn thắt của người chinh phụ, đồng thời qua đó gián tiếp vạch trần tội ác của chế độ chiến tranh phi nghĩa năm xưa, khiến gia đình phải tan tác, đau thương.
Bài tham khảo số 3
Đặng Trần Côn là một tác giả văn học nổi tiếng sống vào khoảng nửa đầu thế kỉ XVIII. Đây là một giai đoạn lịch sử đầy biến động nên của đất nước khi mà chiến tranh đã làm chia cắt bao gia đình. Có biết bao nhiêu cặp vợ chồng vừa xây dựng hạnh phúc lứa đôi đã phải chia tay để chồng đi chinh chiến phương xa. Từ sự cảm thương với số phận con người trong thời chiến, ông đã viết nên tác phẩm "Chinh phụ ngâm". Đoạn trích "Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ" là một trong những đoạn trích tiêu biểu nói về tâm trạng cô đơn, lẻ bóng của người vợ trẻ khi chồng ra trận vắng nhà.
Ngay từ tám câu thơ đầu, tác giả đã mở ra một tâm trạng cô đơn, lẻ bóng của người chinh phụ:
Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?
Đèn có biết, dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương!
Nỗi cô đơn của người chinh phụ đã được thể hiện trước hết qua hành động một mình nàng dạo hiên vắng. Buông rèm rồi lại cuốn rèm không biết bao nhiêu lần. Hành động này thể hiện sự bối rối, tâm trạng thất thần nhớ nhung khiến cho người phụ nữ còn không thể kiểm soát được hành động của mình. Đó là tâm trạng chờ đợi mong ngóng, tin tức người chồng phương xa. Nỗi buồn nỗi cô đơn của người chinh phụ còn được diễn tả qua sự đối bóng của người với ngọn đèn khuya.
Đèn có biết, dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Hai câu thơ được tác giả viết hình thức câu hỏi tu từ, thể hiện tâm trạng bế tắc của người chinh phụ. Nàng hỏi đèn để mong muốn tìm được một sự đồng cảm, sẻ chia, nhưng rồi tự trả lời rằng đèn không biết. Hình ảnh ngọn đèn cùng với nỗi lòng của người chinh phụ như càng góp phần khẳng định nỗi buồn triền miên, cô đơn, không ai chia sẻ.
Đoạn thơ 8 câu cuối có sự chuyển đổi tinh tế để phù hợp với diễn biến tâm trạng của người chinh phụ. Từ những lời tự sự miêu tả nội tâm, đến đoạn thơ này có sự kết hợp giữa ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ của tác giả.
Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên.
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền bể xa.
Hương gượng đốt, hồn đà mê mải,
Gương gượng soi, lệ lại chứa chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.
Đoạn thơ này, tác giả chủ yếu sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình, tức là dùng ngoại cảnh để miêu tả tâm trạng nhân vật, dùng cái chủ quan để miêu tả cái khách quan. Vì thế, trong bài thời gian vật lí đã biến thành thời gian tâm lý. Tiếng "gà eo óc gáy" là âm thanh báo hiệu năm canh và bóng cây "hòe" tĩnh mịch trong đêm nhằm làm tăng ấn tượng vắng vẻ, cô đơn đáng sợ.
Trong tâm trạng chờ đợi mỏi mòn đó người chinh phụ thấy thời gian trôi qua một cách chậm chạp, một khắc một giờ mà giống như một năm. Và để giải tỏa nỗi niềm sầu muộn, người chinh phụ đã biết tìm đến những thú vui tao nhã thường ngày: "soi gương, đốt hương, gãy đàn". Nhưng tất cả chỉ làm trong sự gượng gạo, miễn cưỡng chán chường.
Thành công của đoạn trích này là ở khả năng miêu tả tâm lí nhân vật vô cùng tinh tế với bút pháp tả cảnh ngụ tình quen thuộc của văn học trung đại và sử dụng hàng loạt các biện pháp tu từ: câu hỏi tu từ, điệp từ, điệp ngữ… Chỉ với 16 câu thơ đầu, tác giả đã thể hiện được tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ. Toàn bộ tác phẩm Chinh phụ ngâm được xem là tiếng kêu thương của người phụ nữ nhớ thương người chồng chinh chiến phương xa.
Bài tham khảo số 2
Có thể nói, ở mỗi thời đại, văn học đều là tấm gương phản chiếu lên được mặt tốt và mặt xấu của xã hội. Khai thác và đào sâu vào những vấn đề thuộc về nội tâm của con người. Tác phẩm "Chinh phụ ngâm là một điển hình tiêu biểu như thế, đặc biệt là mười sáu câu đầu đoạn trích "Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ". Đoạn trích phản ánh lên tội ác của những cuộc chiến tranh phi nghĩa đã làm cho người chinh phụ phải rơi vào tình cảnh cô đơn lẻ loi, tâm trạng đau khổ khắc khoải khôn nguôi. Hãy cùng thả lòng mình đến với 16 câu đầu đoạn trích "Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ" để cảm nhận rõ nét hơn nỗi cô đơn của người vợ có chồng đi chinh chiến.
Đoạn trích ra đời vào thế kỉ XVIII. Đầu đời vua Lê Hiển Tông, triều đình sai quân đánh dẹp, nhiều trai tráng trong làng phải từ giả người thân ra trận. Khi ấy, cảm nhận được nỗi khổ của những người nông dân, đặc biệt là người vợ lính. Đặng Trần Côn đã viết nên tác phẩm, bằng chữ Hán là một khúc ngâm đầy cảm xúc. Đoạn trích "Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ" nằm từ câu 193 -216 và từ câu 228 - 252 trong nguyên tác. Khi vừa ra đời tác phẩm đã nhận được rất nhiều sự chú ý từ những nhà yêu thơ, đã có nhiều bản dịch ra chữ Nôm, nhưng bản dịch hiện tại là thành công nhất được viết theo thể song thất lục bát là thể thơ thuần túy của người Việt Nam. Nhưng sau khi bản dịch ra đời lại có tranh cãi rằng bản dịch đấy là của Phan Huy Ích hay Đoàn Thị Điểm. Phần lớn cho rằng là của Đoàn Thị Điểm bởi bà cũng có hoàn cảnh giống như người chinh phụ (bà có chồng đi sứ ở Trung Quốc). Mười sáu câu đầu đoạn trích là khung cảnh người chinh phụ chờ đợi chồng trong hoàn cảnh u buồn, đơn độc. Những hành động được tiếp diễn đưa cảm xúc lên cao trào.
Mở đầu cho cảm xúc cô đơn, đau buồn kéo dài theo không gian và thời gian vô tận là hành động chậm rãi:
"Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen."
Hành động được hiện ra với dáng vóc đầy suy tư của người chinh phụ. Nhịp thơ nhẹ nhàng, như để đi vào cảm xúc. Những động từ "dạo, gieo từng bước", cho thấy những bước chân nặng nề mang đầy tâm trạng bâng khuâng, lo lắng, không gian im lặng đến mức nghe từng tiếng bước chân. Người chinh phụ dường như đang suy nghĩ trăn trở nên nàng "ngồi" mà lòng thì chẳng để tâm. Tác giả đã sử dụng hình ảnh " rủ thác đòi phen"- kéo màng lên rồi lại buông màn xuống. Để cho thấy hành động lặp đi lặp lại vô nghĩ. Và rồi dường như có tiếng thầm thì trách móc:
"Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng.
Đèn có biết dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi."
Người chinh phụ bắt đầu giãi bày nỗi niềm tâm sự của mình. Thực sự nàng đang rất nhớ người chinh phu điều đó được thể hiện rõ nét qua hình ảnh "chim thước"- chim khách, là loài chim thường mang tin tốt lành. Nàng trách chim thước chẳng báo một chút tin tức nào của người chồng, để nàng phải đợi mong, cô đơn khắc khoải. Nghệ thuật đối lập "ngoài rèm" và "trong rèm" để cho thấy nỗi cô đơn ấy bao trùm tất cả không gian bên trong và bên ngoài phòng khuê. Và nàng cũng cần lắm một người tâm sự cùng mình. "Đèn" được nhà thơ nhân hóa lên như một người bạn. Nếu với "Ca dao yêu thương tình nghĩa": " Đèn thương nhớ ai mà đèn không tắt" chiếc đèn nguyện cùng cô gái thao thức suốt đêm mộng mơ nhớ thương, thì với Chinh phụ ngâm chiếc đèn lại phũ phàng với người phụ nữ lẻ loi ấy. "Đèn" đã tắt khi người chinh phụ đang cần lắm một sự sẻ chia, "đèn" đã làm cho người chinh phụ nhận ra rằng "dù thế nào thì đèn cũng chỉ là vật vô tri vô giác" chẳng thể chia sẻ cùng nàng được. Tác giả đã sử dụng câu hỏi tu từ "Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?" Như muốn cho người đọc cảm nhận người chinh phụ đã đi qua từng cảm xúc. Và đến khi tuyệt vọng nàng đã nói một câu mà nghe như xé lòng: Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi" nàng xin nhận hết và chịu đựng hết nỗi cô đơn cho riêng mình. Bởi vì chẳng có ai bên cạnh để nàng chia sẻ. Biết bao nỗi niềm chất chứa chẳng nói thành lời:
"Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương."
Nỗi buồn u ám dưới màng đêm, nỗi buồn mà ngay cả nàng cũng chẳng thể nói nên lời được. Có lẽ do nỗi buồn ấy quá lớn và nó lại hiện lên mỗi ngày. Nghệ thuật so sánh "Hoa đèn" với "bóng người", người chinh phụ nhìn hoa đèn mà nghĩ đến cuộc đời của mình có mau lụi tàn như chiếc hoa đèn kia hay không? Hay còn hẩm hiu hơn thế nữa? Càng nghĩ nàng càng thấy buồn, dường như lúc này cảnh vật cũng rũ xuống một màu đen tối:
"Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên.
Khác giời đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa."
Trời đã khuya, không gian yên tĩnh, nghe từng tiếng gà gáy. Âm thanh vang lên "eo óc" thưa thớt, hình ảnh hoa hòe "rũ bóng bốn bên", thời khắc cảnh vật mỏi mòn chìm vào đêm tối. Đã qua hết năm canh mà người chinh phụ vẫn còn thao thức với nỗi sầu khó vơi đi được. Sự so sánh "khắc giờ" như "niên", một giờ dài bằng một năm, điều đó càng tô đậm hơn nỗi cô đơn. Thời gian cũng kéo dài cùng với nỗi sầu muộn của nàng. Cùng với từ láy "đằng đẵng", "dằng dặc" cho thấy sự kéo dài triền miên đau đớn cứ mãi day dứt trong lòng. Nghệ thuật lấy động tả tỉnh làm nổi bật lên không gian, thời gian, lấy cái xa của biển cả để nói về cái buồn của lòng người là một cách miêu tả đầy tinh tế. Tiếp đến nàng muốn tìm những thú vui tao nhã, tập cách quên đi nỗi buồn trước mắt:
"Hương gượng đốt hồn đà mê mải,
Gương gượng soi lệ lại châu chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng."
Nhưng nàng chẳng biết rằng những thú vui tao nhã này lại khi nàng chìm đắm vào nỗi sầu mênh mang. Khi đốt hương, hồn nàng lại rơi vào trạng thái mơ màng, nỗi sầu lại theo đó mà dâng lên. Rồi khi soi gương để tô son điểm phấn, nàng lại càng xót xa cho thân phận của mình, nhan sắc của một người phụ nữ đang dần phai mòn đi theo những tháng ngày lẻ loi, không có chồng bên cạnh để làm điểm tựa. Khi đánh đàn nàng lại sợ "dây uyên đứt", "phím loan chùng" nàng sợ những điều không may xảy đến cuộc tình của nàng. Biết bao nỗi đau đau, nỗi sợ bủa vây lấy nàng. Điệp từ "gượng" được lặp lại ba lần cho thấy sự miễn cưỡng trong hành động. Cũng chỉ vì quá cô đơn, muốn quên đi mà nàng mới làm. Nhưng dù có thú vui tao nhã đến đâu, dù tô son điểm phấn hay đánh đàn thì cũng chẳng bao giờ nàng cảm thấy vui, bởi vì ngay lúc này với nàng là nỗi cô đơn mong mỏi chồng từ nơi chinh chiến sẽ trở về, mong được nghe một lời động viên an ủi từ người chồng của mình. Nhưng tất cả đều không!
Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, sử dụng những điệp từ, so sánh nhiều hình ảnh để vẽ ra khung cảnh của người chinh phụ mang nhiều tâm trạng. Sự cô đơn, lẻ loi của người phụ nữ trong đêm tối. Và khi hình ảnh buồn khổ ấy hiện lên chân thực đến đâu thì càng vạch trần cái tội ác xấu xa của chiến tranh phi nghĩa đẩy biết bao gia đình rơi vào cảnh chia lìa. Mà niềm cảm thông lớn nhất là dành cho người chinh phụ, là phụ nữ nhưng họ phải hy sinh tuổi xuân để chờ chồng mà chẳng có chút tin tức, không có ai chia sẻ những nỗi buồn. Từ đấy cho ta thấy được cách chọn đề tài của Đặng Trần Côn rất mới mẻ, phù hợp với thời đại lúc bấy giờ. Cách miêu tả nội tâm đầy sâu sắc của ông, cho thấy ông là một người có vốn sống rất rộng. Đồng thời là sự sắc sảo trong cách dùng từ của hai dịch giả Đoàn Thị Điểm và Phan Huy Ích đã tạo nên đoạn trích "Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ" rất thành công.
Thông qua mười sáu câu đầu của đoạn trích "Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ" càng giúp ta hiểu rõ nét hơn những nỗi cô đơn của người phụ nữ trong xã hội cũ khi có chồng đi chinh chiến. Nó là nỗi cô đơn da diết kéo dài theo không gian thời gian. Từ đó cho thấy hậu quả của chiến tranh phong kiến phi nghĩa. Và là lời ca ngợi cho tác giả Đặng Trần Côn, ông quả là một nhà thơ tài năng và tác phẩm của ông đã chạm đến trái tim của đọc giả và vượt qua hàng trăm năm, nhưng mỗi lần nhắc về những tác phẩm chữ hán, người ta sẽ nghĩ ngay đến "Chinh phụ ngâm". Ông đã để lại cho nền văn học nước nhà một áng văn hay.