Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào thơ mới. Ông là một con người tài hoa nhưng mệnh bạc khi ông mắc phải căn bệnh phong quái ác từ khi còn rất trẻ. Có lẽ vì vậy mà trong thơ của ông luôn có hai thế giới song hành, một là sự tươi sáng, thanh khiết, một thế giới đầy ma quái, cuồng loạn. Đây thôn Vĩ Dạ được ra đời năm 1938 khi ông đang bị căn bệnh phong quái ác dày vò. Bài thơ được bắt nguồn cảm xúc từ tấm bưu thiếp có bức tranh phong cảnh xứ Huế và lời hỏi thăm của Hoàng Cúc, người con gái mà Hàn Mặc Tử từng tương tư. Đặc biệt, qua hai khổ thơ đầu, tình yêu thiên nhiên, con người Vĩ Dạ cùng những tâm sự thầm kín của nhà thơ được bộc lộ rõ nét. Dưới đây là những Bài văn phân tích 2 khổ thơ đầu bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử) (Ngữ văn 11) hay nhất mà Toplist đã sưu tầm và tổng hợp.
Bài tham khảo số 5
Nhắc đến phong trào thơ Mới không thể không nhắc tới Hàn Mặc Tử- nhà thơ Điên của nền văn học Việt. Bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" là một tuyệt phẩm tiêu biểu của ông. Hai khổ thơ đầu bài thơ như một khúc ngân nga trữ tình đẹp đẽ và giàu sức gợi:
"Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
...
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay"
Vĩ Dạ- chốn thiên đường nơi trần gian của Huế mộng mơ. Câu hỏi tu từ thiết tha, vừa như lời trách móc lại vừa như lời mời gọi: "Sao anh không về chơi thôn Vĩ" nghe sao mà chân thành và dịu dàng đến thế. Giọng thơ trầm lắng nhẹ nhàng khôn tả qua việc gieo kết hợp các vần bằng trong câu đầy tinh tế. Câu thơ như một lời đề gợi mở ra những vẻ đẹp về thiên nhiên và con người nơi đây:
"Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền"
Hàng cau thẳng tắp vươn mình đón nắng, gió thoảng thoảng hơi mây, "nắng mới lên" mang nét gì đó tinh khôi, trong sáng, kiều diễm. Vẻ đẹp của ánh nắng vàng tươi mới, không gây gắt như trưa hè, không đượm buồn như chiều hoàng hôn mà đó là ánh nắng trong veo vô ngần của buổi sớm mai. Hàng cau xanh trong nắng vàng nhè nhẹ hiện lên đẹp đẽ biết bao. Trong bầu không gian ấy còn có vườn "mướt quá, xanh như ngọc". Bằng những tính từ gợi cảm, chỉ màu sắc độc đáo tác giả đã tái hiện khung cảnh vườn đầy non tơ, mang sức sống mới , tươi tốt và đầy hy vọng. Một vài giọt sương đọng trên lá trở nên lung linh hơn, cành non mơn mởn trong sắc xanh của lá cành tràn nhựa sống, ngời sáng, trong ngần. "Lá trúc che ngang mặt chữ điền" - Gương mặt người thiếu nữ thoáng ẩn hiện trong bầu không gian tuyệt diệu. Gương mặt chữ điền ấy thật thành tú sau lá trúc xanh mềm mại. Tất cả tạo nên vẻ đẹp ấn tượng, độc đáo, vẻ đẹp kín đáo, dịu dàng, thanh tao, nhã nhặn của người con gái xứ Huế hiện lên thật duyên dáng, ý nhị. Cảnh và người như hòa chung, mang nét hồn của một thì nhân đang bâng khuâng, rạo rực trước vẻ đẹp của thiên nhiên
Nếu trong khổ đầu là cảnh lúc bình minh thì sáng khổ hai đó là bức tranh thôn Vĩ trong cảnh chiều về, đêm xuống.
"Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước luồn quanh hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay"
Dường như thiên nhiên đang nhuốm màu buồn của sự chia ly, mây và gió thường song hành với nhau nay lại về đôi ngả" gió theo lối gió, mây đường mây", mây gió lang thang vô định giữa bầu trời kia cảm giác sao cô đơn và buồn đến vậy. Dòng nước cũng được nhân hoá mang bầu tâm sự "buồn thiu" lững lờ trôi , hoa bắp nhẹ "lay" trong gió cũng có gì đó yếu ớt, phảng phất nét buồn hoài niệm. Cảnh mang nỗi lòng của hồn người, dường như đâu đây ta nghe được tiếng lòng của người thi sĩ đang đơn côi trước nỗi nhớ mong, buồn đau trước cảnh chia xa ngậm ngùi. Để vơi đi nỗi lòng, người thi sĩ ngắm nhìn dòng sông Hương huyền diệu, sông nước soi ánh trăng mờ, chiếc thuyền thong thả nằm im bên bến sông thương. Bến trăng, sông trăng, thuyền trăng, non nước mây trời đang tràn ngập ánh trăng chứa đựng nỗi niềm gì khôn thấu. Trăng có đẹp đấy thôi nhưng trăng cũng đượm buồn, bóng tối tĩnh mịch, yên ả giữa trời đêm. "Có chở trăng về kịp tối nay" -câu thơ như một lời tâm sự, một câu hỏi mà cũng là nỗi mong chờ, hy vọng chở ánh trăng về kịp như người thi sĩ đang mong ngóng người thương tới cho vơi bớt nỗi sầu cô đơn vậy, bởi trăng vốn như người bạn tâm tình tri kỉ của thi nhân.
Bằng những hình ảnh thơ độc đáo, tuy quen thuộc, bình dị nhưng qua tài năng trong ngòi bút của mình, Hàn Mặc Tử đã biến cái quen thành những nét mới lạ mà hấp dẫn. Cảnh mang tâm tình, dư vị hoài niệm của thi nhân bằng cái nhìn đầy tinh tế và sâu sắc, chỉ qua hai khổ thơ thôi mà ta thấy được một tâm hồn yêu cuộc sống, yêu thiên nhiên tha thiết của nhà thơ.
Bài tham khảo số 8
Hàn Mặc Tử là một nhà thơ có số phận đau thương nhưng lại là một nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào Thơ mới. Ông để lại cho làng thơ Việt Nam nhiều tác phẩm có giá trị như: “Gái quê”, “Thơ điên”,…Đặc sắc và gây xúc động nhất là bài “Đây thôn Vĩ Dạ”. Bài thơ là bức tranh tuyệt đẹp về miền quê đất nước và là tiếng lòng của một con người tha thiết yêu đời, yêu người. Tất cả những vẻ đẹp ấy của bài thơ đã được ngòi bút Hàn Mặc Tử khắc họa một cách tinh tế và sâu lắng qua hai khổ thơ đầu:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ
…
Có chở trăng về kịp tối nay”
Theo thi sĩ Quách Tấn – bạn thơ của Hàn Mặc Tử thì bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” được gợi cảm hứng từ tấm bưu ảnh do cô gái Huế có tên Hoàng Cúc gửi tặng. Đó là tấm bưu thiếp vẽ cảnh Huế với dòng sông, con đò, bến trăng hay một buổi bình minh. Khi ấy Hàn Mặc Tử đang điều trị bệnh phong tại Quy Nhơn. Nhận được tấm bưu ảnh cùng những lời thăm hỏi của cô gái xứ Huế, ông đã xúc động viết bài thơ này. “Đây thôn Vĩ Dạ” sau đó được in trong tập thơ “Đau thương”.
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”.
Câu hỏi ấy chính là sự phân thân của nhà thơ, sự hóa thân của nhà thơ vào cô gái Huế. Chỉ một câu thôi, câu hỏi nhưng lại chan chứa yêu thương. Tại sao lâu rồi anh không về chơi thôn Vĩ bên bờ sông Hương thơ mộng, có người con gái anh thương? Mặt khác, sắc thái tu từ trong câu thơ đầu còn là lời tự hỏi, tự trách mình: “sao anh không về”? Sao cảnh Huế đẹp vậy mà mình không trở về? Đó là một câu hỏi đớn đau, khắc khoải vì trở về Huế là điều không thể bởi nhà thơ đang ở giai đoạn cuối của cơn bạo bệnh. Nhưng cũng chính câu hỏi tu từ ấy là nguyên cớ để khơi dậy những khát khao, hoài niệm. Vì không thể trở về nên nhà thơ đã làm một cuộc hành hương trong tâm tưởng. Thôn Vĩ, vì thế hiện ra lung linh trong hoài niệm.
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”
Điệp từ “nắng” được nhắc lại hai lần gợi ra bức tranh thơ thật lãng mạn về cảnh vườn quê xứ Huế. Nhớ đến thôn Vĩ, nhà thơ nhớ ngay đến hình ảnh hàng cau đầu tiên – “nắng hàng cau”. Bởi lẽ hàng cau là hình ảnh quá đỗi thân thuộc với mỗi người dân thôn Vĩ. Cau là loài cây cao nên đón ánh nắng đầu tiên của ngày mới. Không gian thôn Vĩ vì thế như được đẩy lên cao, thoáng đãng, khoáng đạt. Đặc biệt sau một đêm tắm gội dưới làn sương, những tàu cau trở nên xanh biếc hơn dưới ánh mặt trời. Cụm từ “nắng mới lên” cho ta một cảm nhận đẹp về ánh nắng của buổi ban mai thật rực rỡ, sáng trong. Câu thơ vẽ nên một hàng cau đầy sức sống đang vươn lên mãnh liệt đón ánh nắng đầu tiên của buổi sớm. Ánh nắng mới mẻ, tinh khôi như làm sáng bừng lên không gian khoáng đạt, rộng lớn.
“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”
“Một câu thơ hay là một câu thơ giàu sức gợi” (Lưu Trọng Lư). Quả đúng như vậy, câu thơ đã gợi ra một khoảng không gian xanh của thiên nhiên Vĩ Dạ, cái màu xanh mượt mà, mỡ màng của hàng cây khiến cho người đọc cảm nhận được một sức sống tràn trề, mơn mởn. Tác giả dùng phép so sánh “xanh như ngọc” để diễn tả sức sống, vẻ đẹp của thiên nhiên thôn Vĩ, một sắc màu cao quý, lấp lánh và trong trẻo. Nếu không có một tình yêu nồng nàn đối với đất và người Vĩ Dạ, có lẽ thi sĩ họ Hàn không thể gieo được những vần thơ trong trẻo đến như vậy. Bài viết của thầy Phan Danh Hiếu
“Vườn ai”? không xác định nhưng ngầm hiểu đó là khu vườn cô gái Huế. “Mướt” là một tính từ khác với “mượt” bởi “mượt” chỉ gợi lên mịn màng mà “mướt” thì gợi sự sáng lên, tươi mới của cảnh vật. Bốn chữ “vườn ai mướt quá” như một lời trầm trồ, thán phục, ngợi ca cũng như lời thầm cảm ơn chủ nhân của khu vườn đã dày công chăm bẵm cho khu vườn thêm đẹp.
“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”.
Phải chăng trong tâm tưởng của thi nhân bất chợt hiện về khuôn mặt chữ điền lấp ló sau hàng trúc. Câu thơ có sự giao hòa giữa hai hình ảnh thiên nhiên và con người. Lá trúc thì mảnh mai, mặt chữ điền gợi vẻ đẹp phúc hậu, kín đáo, duyên dáng, e ấp rất thiếu nữ, rất Huế.. Tất cả tạo nên sự hài hòa giữa con người và cảnh vật.
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Câu thơ bắt đúng thần thái của xứ Huế. Sông Hương, núi Ngự hiện lên với vẻ đẹp đặc trưng của xứ Huế, dòng sông Hương luôn chảy lững lờ, chậm rãi như “điệu Slow tình cảm dành riêng cho Huế” (Hoàng Phủ Ngọc Tường). Hai bên bờ sông là những vườn bắp với những bông hoa nhẹ nhàng lay động. Thế mà trong đôi mắt Hàn Mặc Tử thì cảnh vật hiện lên chia lìa: “Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”. Phép nhân hoá làm dòng sông như chở nặng nỗi sầu thương chất ngất của nhà thơ. Đó là lúc tâm cảnh đã nhuốm vào ngoại cảnh. Nỗi buồn của thi nhân dường như phủ khắp cảnh vật: gió, mây, dòng sông, hoa bắp… Nhìn lên trời cao thấy gió mây chia lìa; nhìn xuống dòng sông, thấy dòng sông trở nên “buồn thiu”; nhìn quanh cảnh vật chỉ thấy hoa bắp khẽ “lay”. “Lay” là một động từ gợi tả những cử động hết sức nhẹ, phải là sự quan sát tinh tế lắm mới có thể cảm nhận được cái nét vẽ thần tình ấy. Ca dao xưa cũng có câu:
“Ai về Giồng Dứa qua truông
Gió lay bông sậy bỏ buồn cho em”
Vâng! đằng sau những cảnh vật ấy là tâm trạng của một con người mang nặng một nỗi buồn xa cách, một mối tình vô vọng, đơn phương.
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”
Đọc câu thơ, người đọc có cảm tưởng như đang trôi vào cõi mộng. Ở đó là bến trăng, một dòng sông trăng, một con thuyền chở đầy trăng. Trăng dưới ngòi bút tài hoa của Hàn Mặc Tử bỗng trở nên huyền ảo, tràn đầy vũ trụ, tạo nên một không khí nửa thực nửa hư, như trong cõi mộng. Trăng vốn là biểu tượng cho cái đẹp, cho hạnh phúc, niềm vui. Với Hàn Mặc Tử, trong bối cảnh lúc đó, trăng có ý nghĩa như “một bám víu duy nhất, như người bạn tri âm, tri kỉ”, giờ chỉ còn là nỗi ước ao, khát khao gặp gỡ và nỗi niềm lo âu về sự muộn màng, dang dở. Vì thế, câu thơ của Tử cất lên như một câu hỏi đau đáu, một nỗi niềm day dứt đầy phấp phỏng “Có chở trăng về kịp tối nay?”.
“Tối nay” là tối nào, phải chăng đây là giới hạn cuối cùng của cuộc đời nhà thơ – khi mà cuộc sống của con người ấy là cuộc chạy đua với thời gian. “Tối nay” phải chăng chính là ranh giới của sự sống và cái chết. Có phải vì thế mà câu hỏi tu từ vang lên khẩn thiết: “Có chở trăng về kịp tối nay?”. Liệu rồi con thuyền ấy có cập bến bờ trước lúc Hàn Mặc Tử trở về với cõi vĩnh hằng hay không? Từ “kịp” vì thế mà chất chứa tâm trạng hoài mong và cả tin yêu lẫn bi kịch và hoài nghi của con người.
“Có chở trăng về kịp tối nay?” là câu hỏi ẩn chứa một sự day dứt, mong ước và lo sợ. Một niềm hy vọng đầy khắc khoải và phấp phỏng trong tâm trạng thi nhân. Hàn Mặc Tử cảm nhận thời gian đang trôi chảy trong lúc mình bất lực. Chính vì vậy mà người đọc càng thấu hiểu hơn cái giục giã trong lời mời gọi ở câu thơ đầu, càng đồng cảm hơn với khát vọng sống mãnh liệt của nhà thơ khi cái chết đang kề cận.
Thành công của đoạn thơ nói riêng và bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” nói chung chính là nhờ vào một số yếu tố nghệ thuật đã được Hàn Mặc Tử sử dụng sáng tạo: nhiều biện pháp tu từ tăng sức gợi cho hình ảnh như: so sánh, điệp từ, câu hỏi tu từ, tương phản đối lập; ngôn ngữ thơ mộc mạc bình dị; giọng thơ thiết tha, trìu mến. Tất cả đã hòa quyện lại chắp cánh cho ngòi bút của nhà thơ thăng hoa cùng cảm xúc.
Bài tham khảo số 4
Trong số các thi nhân của phong trào thơ mới 1932 – 1945 có lẽ ta không thấy ai có số phận ai oán nghiệt ngã như Hàn Mặc Tử, số mệnh cay đắng của thi sĩ được tiên đoán trước qua ý nghĩa các biệt danh Phong Trần (Gió Bụi), Lệ Thanh (tiếng của nước mắt). Hàn Mặc Tử người đi trong màn lạnh với tấm lòng quặn thắt, ông đã trải lòng mình trên giấy mong manh và cho ra đời nhiều thi phẩm đặc sắc. Một trong số đó là bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ, đọc bài thơ người đọc sẽ có ấn tượng ngay với hai khổ thơ đầu:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ
............
Có chở trăng về kịp tối nay”
Hàn Mặc Tử là một trong ba đỉnh cao của phong trào thơ mới, ông là một hiện tượng Thơ rất mới lạ. Hồn thơ mãnh liệt luôn chất chứa sự mâu thuẫn giữa cảnh sắc và tinh thần vì những nỗi đau đớn về bệnh tật nên ông luôn khát vọng sống, khát vọng giao hòa giao cảm với cuộc đời, với con người. Bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ được sáng tác năm 1938, lấy cảm hứng từ một mối tình đơn phương của Hàn Mặc Tử với một cô gái Huế, bài thơ được in trong tập “Thơ điên” sau đổi thành “Đau thương”.
Như chúng ta đã biết thơ là cuộc đời nhưng đó không phải là sự sao chép máy móc, mà phải được thanh lọc cảm nhận qua tâm hồn thi sĩ để thành thơ. Thơ là hình ảnh sống tươi nguyên, được tái hiện qua lăng kính tình cảm của người nghệ sĩ. Vì vậy nếu thơ không có tư tưởng, tình cảm thì đó chỉ là những lời sáo rỗng nhạt nhẽo vô vị tầm thường, chỉ là chọn làm xiếc, ngôn từ chẳng thể đánh lừa được người đọc. Vai trò là một nhà thơ, Hàn Mặc Tử không ngừng sáng tạo cho ra đời những tác phẩm đặc sắc, khác với các nhà thơ cùng thời. Đọc Đây Thôn Vĩ Dạ ta càng cảm thấy rõ điều đó, mở đầu bài thơ là một câu hỏi tu từ:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”
Câu hỏi đó chính là sự phân thân của nhà thơ, nhà thơ hóa thân vào cô gái Huế để hờn dỗi, trách móc nhẹ nhàng nhưng đằng sau ấy là sự mời mọc rất chân thành, nhà thơ sử dụng từ “chơi” gợi lên sự thân mật gần gũi. Mặt khác câu hỏi tu từ này là nhà thơ đang tự hỏi mình, tự trách mình sao cảnh Huế đẹp như vậy mà anh không vào chơi. Đó là một câu hỏi lớn, nỗi đau khắc khoải, bây giờ đây trở về xứ Huế đã trở thành một niềm khao khát của nhà thơ. Có lẽ khi sáng tác bài thơ này, nhà thơ đang ở giai đoạn cuối của bệnh phong nên ông chỉ có thể trở về chơi thôn vĩ trong tâm tưởng, nhưng dù là trong tâm tưởng thì cảnh thiên nhiên về thôn Vĩ vẫn đẹp lung linh:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền"
Bức tranh thôn Vĩ xinh xắn thơ mộng được chiêm ngưỡng từ xa đến gần. câu thơ với điệp từ “nắng” đã gợi lên trong mắt người đọc một không gian tràn ngập ánh sáng, cau đó là một loại cây mang vẻ đẹp đặc trưng của thôn Vĩ, với thân hình thẳng tắp tán lá xanh tươi, vườn cây thôn Vĩ tươi tốt đến mức khách ở xa về phải trầm trồ “vườn ai mướt quá xanh như ngọc” vườn ai không xác định nhưng người đọc vẫn có thể hiểu là vườn của cô gái Huế. “mướt quá” là sự đặc tả sắc xanh của cây lá. Tại sao tác giả không dùng màu xanh da trời, xanh thẫm mà dùng màu xanh ngọc bích, có lẽ đó là màu xanh tinh khiết, tinh túy, quyến rũ và bức tranh thôn Vĩ ngày càng đẹp hơn, hiện lên đầy đủ hoàn hảo hơn, khi có sự xuất hiện của người con gái “lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Vĩ Dạ nổi tiếng với màu xanh của trúc một loại cây được trồng trước ngõ, trong tâm tưởng của thi nhân bất chợt hiện về qua mặt chữ điền lấp ló sau hàng trúc. Lá trúc thì mảnh mai, mặt chữ điền gợi lên sự vuông vắn, phúc hậu.
Tất cả tạo nên vẻ đẹp hài hòa giữa con người với thiên nhiên, nếu ở khổ thơ thứ nhất nhà thơ nhìn cảnh vật bằng sự lạc quan yêu đời, thì khổ thơ thứ hai đã có sự thay đổi đó chính là sự mặc cảm về cảnh chia lìa, tan tác:
"Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay"
Hai câu thơ nói lên vẻ đẹp đặc trưng của xứ Huế, đó là dòng sông Hương chảy lững lờ hai bên bờ sông, là những vườn bắp, những bông hoa nhẹ nhàng lay động còn trên cao thì gió đi theo lối gió mây đi theo đường mây. Trong thực tế ta thấy Gió và Mây là hai sự vật không thể tách rời, bởi có gió thổi thì mây trời có thể bay. Vậy mà hai chữ chia lìa vẫn đến còn dòng nước buồn thiu như mang trong mình một tâm trạng không gì tả nổi.
Đến hai câu thơ tiếp theo vẫn là dòng sông Hương, là Huế mộng mơ nhưng nó không còn nắng, không còn xanh của Vĩ Dạ mà trước mắt người đọc là không gian tràn ngập ánh trăng, con thuyền trở thành thuyền Trăng, dòng sông trở thành sông trăng và bến trở thành bến trăng
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”
Từ xưa đến nay, ta thường bắt gặp hình ảnh thuyền trăng, bến chăng, Nhưng nay ta lại bắt gặp một hình ảnh mới đó là sông trăng, đọc câu thơ người đọc mới có cảm tưởng như đang vào cõi mộng, dường như nhà thơ đang sống trong khắc khoải, chờ mong. Ở thơ thứ nhất câu hỏi tu từ xuất hiện với câu thơ đầu còn đối với khổ thơ thứ hai câu hỏi tu từ lại xuất hiện ở câu cuối. Câu thơ như mang nhiều cảm xúc “Có chở trăng về “ là sự mong ngóng hi vọng “kịp tối nay” là khắc khoải, lo âu, là sự hoài nghi, là sự khẩn thiết yêu cầu. Nhưng dường như nhà thơ đã dự cảm được sự thất vọng, nhà thơ như ý thức được rằng nếu trăng không về kịp thì mình sẽ vĩnh viễn rơi vào thế giới đau đớn, tuyệt vọng.
Thành công của đoạn thơ là nhờ sử dụng các biện pháp tu từ như điệp từ, câu hỏi tu từ, so sánh bằng thủ pháp nghệ thuật liên tưởng, cùng với những câu hỏi tu từ xuyên suốt đoạn thơ. Nhà thơ đã khắc họa ra trước mắt ta một khung cảnh nên thơ, đầy sức sống và bản trong đó là nỗi lòng của chính nhà thơ.
Tóm lại, Đây Thôn Vĩ Dạ là một bức tranh đẹp về cảnh và người của miền quê, đất nước qua tâm hồn thơ mộng giàu trí tưởng tượng và đầy yêu thương của nhà thơ đa tình, đa cảm. Và Hàn Mạc Tử đã thực sự thành công trong việc thể hiện sự chuyển biến về tâm trạng của nhân vật trữ tình – người mang một tâm trạng nặng trĩu.
Bài tham khảo số 1
Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào thơ mới. Ông là một con người tài hoa nhưng mệnh bạc khi ông mắc phải căn bệnh phong quái ác từ khi còn rất trẻ. Có lẽ vì vậy mà trong thơ của ông luôn có hai thế giới song hành, một là sự tươi sáng, thanh khiết, một thế giới đầy ma quái, cuồng loạn. Đây thôn Vĩ Dạ được ra đời năm 1938 khi ông đang bị căn bệnh phong quái ác dày vò. Bài thơ được bắt nguồn cảm xúc từ tấm bưu thiếp có bức tranh phong cảnh xứ Huế và lời hỏi thăm của Hoàng Cúc, người con gái mà Hàn Mặc Tử từng tương tư. Đặc biệt, qua hai khổ thơ đầu, tình yêu thiên nhiên, con người Vĩ Dạ cùng những tâm sự thầm kín của nhà thơ được bộc lộ rõ nét.
Hai khổ đầu của bài thơ bức tranh phong cảnh của Vĩ Dạ xứ Huế cùng nỗi lòng cô đơn, lạc lõng, trống rộng của tác giả khi phải xa cách thế giới, con người.
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên
Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Mở đầu bài thơ là một câu hỏi mang âm điệu da diết, dường như là lời người thôn Vĩ đang mời gọi, đang hờn trách thi nhân sao không lại thăm.
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ”
Thế nhưng thực ra đây chỉ là câu hỏi tự vấn của nhà thơ bởi trong tâm ông luôn mong ngóng được thêm một lần “về chơi thôn Vĩ”. Hai chữ “về chơi” đã khiến Vĩ Dạ trở thành một nơi chốn thân thương với nhà thơ, là nơi mà ông gắn bó bằng cả tâm hồn mình.
Trở về Vĩ Dạ, nhà thơ muốn được ngắm nhìn những “hàng cau” cao vút, những vườn tược ngập tràn cỏ cây, để ngắm gương mặt ai thẹn thùng qua hàng lá trúc.
“Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên
Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Khung cảnh Vĩ Dạ được mở ra từ xa tới gần, từ cao tới thấp, mỗi góc độ một vẻ đẹp nhưng đều thơ mộng và tràn trề sức sống trong ban mai. Trong hành trình “thăm” Vĩ Dạ bằng tâm tưởng, cái nhìn đầu tiên của nhà thơ dừng lại trên hình ảnh của “nắng hàng cau, nắng mới lên”. Hai từ “nắng” trong cùng một câu thơ khiến ta cảm nhận được cả một không gian tràn ngập sắc nắng sớm, mới mẻ và tinh khôi vô cùng. “Nắng hàng cau” là thứ nắng đặc trưng của Vĩ Dạ và Hàn Mặc Tử đã đặc biệt tinh tế phát hiện ra bởi Vĩ Dạ là nơi trồng rất nhiều cau. Những hàng cau cao vút, thẳng tắp vươn lên bầu trời đón những giọt nắng mai đầu tiên buông xuống và đó cũng là lúc cả thành phố Huế cựa mình thức dậy trong sự mát lành và tinh khôi.
Trong ánh nắng ban mai tinh khôi đó, khu vườn của “ai” hiện lên đầy sức sống, tràn trề nhựa mật.
“Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc”
Đại từ “ai” phiếm chỉ, không biết rõ là của người nào bởi khu vườn đó là khu vườn trong tâm tưởng của nhà thơ. Khu vườn đầy những cỏ cây xanh “mướt”. Chỉ một từ “mướt” thôi mà khiến cho người đọc cảm thấy cỏ cả một khu vườn tươi tốt, mơn mởn hiện ra trước mắt. Thêm vào đó, hình ảnh so sánh “xanh như ngọc” cũng gợi cho ta hình ảnh về một khu vườn còn đẫm sương đêm đang được mặt trời soi tỏ. Mỗi nhành cây, phiến lá đều hiện lên lung linh, lóng lánh tựa như một khối ngọc bích khổng lồ. Lời thơ không chỉ là lời tả cảnh mà còn là sự trầm trồ của thi nhân khi ngợi ca cảnh vườn Vĩ Dạ với một tình yêu tha thiết.
Không chỉ say sưa ngắm nhìn vườn cây, ngắm nhìn ánh ban mai, Hàn Mặc Tử còn đắm mình trong ánh mắt của người Vĩ Dạ:
“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Hẳn phải là một nét vẽ cách điệu của nhà thơ, bởi khuôn mặt người hiện lên sau lá trúc, vừa thực vừa hư ảo vô cùng. Đường nét trong bức tranh thơ không chỉ có mình thiên nhiên mà còn có cả con người khiến cảnh vườn Vĩ Dạ chợt trở nên ấm áp, sinh động lạ thường.
Khuôn mặt người sau vòm lá thấp thoáng, ẩn hiện gợi ra dáng vẻ e ấp, thẹn thùng với tính cách kín đáo vốn là một nét rất riêng của người con gái xứ Huế. Câu thơ của Hàn Mặc Tử chắc hẳn được gợi ra từ một câu ca dao rất quen thuộc của người dân Huế:
“Mặt em vuông tựa chữ điền
Da em thì trắng, áo đen mặc ngoài
Lòng em có đất có trời
Có câu nhân nghĩa, có lời thuỷ chung”
Thế nên, câu thơ của Hàn Mặc Tử không chỉ mang đậm phong vị dân gian của xứ Huế mà còn gợi ra được cả vẻ đẹp tâm hồn của con người nơi đây vừa chất phác lại giàu tình nghĩa thuỷ chung.
Khổ thơ đầu đã dựng lại bức tranh phong cảnh của Vĩ Dạ vừa đẹp đẽ, ấm áp lại tràn trề sức sống. Đồng thời cũng thể hiện tấm lòng gắn bó tha thiết với quê hương Vĩ Dạ của thi nhân và khát khao muốn được giao cảm với cuộc đời dù bệnh tật ngăn trở.
Bước sang khổ thơ thứ hai, phong cảnh, không gian của Vĩ Dạ không còn tĩnh tại mà có cả sự vận động, chuyển biến. Vẫn là những cảnh đẹp mang nét đặc trưng của xứ Huế nhưng giờ đây là cảnh sông nước mây trời:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Bức tranh thơ được mở rộng với trời mây gió và dòng Hương giang lững lờ vừa đẹp hùng vĩ lại phóng khoáng mênh mông. Dòng sông, hoa bắp, gió, mây, tất cả đều mang đậm linh hồn của xứ Huế, gợi ra nét yên bình, êm ả rất riêng của nơi đây.
Nhà thơ đã đặc tả dòng sông Hương dưới trăng khuya. Đó là một dòng sông lấp lánh những ánh vàng lộng lẫy, và còn thuyền cũng chở đầy ánh trăng đang đậu tại bến sông trăng. Ánh trăng đã khiến dòng sông Hương càng thơ mộng hơn bội phần, vừa hư ảo, vừa tĩnh lặng trong mà đêm để ai một lần bắt gặp thì khó có thể nào quên!
Đằng sau bức tranh ngoại cảnh là tâm trạng mà thi nhân muốn gửi gắm. “Mây, gió” vốn là hai thứ luôn song hành nhưng ở đây Hàn Mặc Tử đã nhân hoá chúng và miêu tả chúng đang trong cuộc chia ly. Mây một đường còn gió thì một nẻo, chúng đang xa cách, đang chia lìa. Đó phải chăng cũng là tâm trạng của nhà thơ lúc này khi ông đang ở trong một mối tình đơn phương xa cách và phải chia lìa với cuộc đời vì bệnh tật. Nỗi buồn của nhà thơ đã lan toả, đã hoà lẫn vào thiên nhiên.
Nỗi buồn ấy cũng hoà lẫn vào dòng nước. Nhìn dòng sông lững lờ trôi mà Hàn Mặc Tử cảm thấy dòng sông cũng đang “buồn thiu”. Dòng sông Hương chở bao tâm tình của nhà thơ, nó cũng mang nặng một nỗi buồn thương da diết. Đó là tâm trạng của một cái tôi cô đơn giữa đất trời, giữa cuộc đời, khi mà nhìn quanh bốn phía chỉ thấy hoa bắp lay động, dòng sông quạnh vắng, đìu hiu.
Nỗi buồn cô đơn của nhà thơ còn thấm thía hơn hết khi ông đặt mình giữa trời, trăng, nước. Dòng nước mênh mang, ánh trăng lạnh lẽo, đêm khuya tĩnh mịch, khung cảnh ấy như một cõi cô đơn pha thêm sự quái dị bởi chính ông cũng đang cô độc, lạc lõng giữa cuộc đời vì bệnh tật dày vò.
Thế nhưng, trên tất cả là nỗi khao khát được giao cảm với cuộc đời, là khát vọng tình người sẽ hoá giải nỗi đau. Có lẽ vì vậy mà trên dòng sông cô đơn ấy thấp thoáng chiếc bóng của “thuyền ai”:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Khát khao hi vọng, khát khao chờ mong thế nhưng Hàn Mặc Tử đã nhận ra hiện thực phũ phàng: chẳng có ai, chẳng có người nào có thể làm ấm áp một trái tim đang cô đơn, lạc lõng, vậy nên, nhà thơ mới mong có người “chở trăng về kịp tối nay”.
Trăng muôn đời là nguồn cảm hứng vô tận, là cái đẹp vĩnh hằng là ai cũng hướng tới. Với thi nhân, trăng còn là người bạn, người tri kỉ, tri âm và với Hàn Mặc Tử, trăng còn hơn thế. Ông khát khao hướng tới trăng, hướng tới sự tươi đẹp mà ánh trăng mang lại, thế mới hiểu, dù đau đớn vì bệnh tất, Hàn Mặc Tử vẫn luôn hướng về cái đẹp của cuộc đời, của nghệ thuật. Đọc thơ Hàn Mặc Tử, người ta cảm thấy bội phục một tài năng và cả một nghị lực sống phi thường của một con người biết vượt lên hoàn cảnh để cống hiến cho cuộc đời.
Bốn câu thơ là bức tranh sông nước, mây trời nhưng thấm đượm tâm trạng buồn thương của tác giả, nỗi cô đơn, khát khao được giao cảm với cuộc đời.
Hai khổ thơ đầu của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là kế thừa thơ ca truyền thống với thể thơ thất ngôn đồng thời cũng thể hiện nỗ lực cách tân thơ của Hàn Mặc Tử. Những hình ảnh thơ rất mộc mạc, giản dị, đời thường, ngôn từ như lời ăn tiếng nói thường ngày, tất cả đều tạo nên một nét thơ rất hiện đại.
Qua hai khổ thơ, người đọc không chỉ cảm nhận được bức tranh phong cảnh của thôn Vĩ Dạ vừa đẹp đẽ lại rất bình yên, mang nét đặc trưng của xứ Huế mà chúng ta còn cảm nhận được một nỗi buồn cô đơn của Hàn Mặc Tử khi phải xa cách cuộc đời vì bệnh tật và trong một mối tình vô vọng.
Bài tham khảo số 2
Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” vẫn luôn được yêu mến qua nhiều thế hệ và đã có ba ý kiến nhận định dành cho bài thơ. Đầu tiên, bài thơ là tiếng lòng, nỗi trăn trở của mối tình thầm kín; sau đó là lời yêu thương dành cho một miền quê bình yên và thứ ba, bài thơ là niềm khao khát được sống của nhà thơ, khao khát được đồng cảm, được chia sẻ với cuộc đời. Và hai khổ thơ đã thể hiện rõ một cách xúc động những tâm tình ấy của tác giả gửi gắm qua bài thơ:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay…
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay
Thơ ca luôn là sự phản ánh cuộc đời qua lăng kính của nhà thơ, qua tâm hồn nhạy bén của nhà thơ. Bởi vậy thơ luôn mang tư tưởng, tình cảm mà người nghệ sĩ muốn gửi gắm, muốn biểu đạt. Và Hàn Mặc Tử luôn không ngừng sáng tạo, không ngừng chiêm nghiệm đời sống để mang lại nhiều tác phẩm đặc sắc. “Đây thôn Vĩ Dạ” là tác phẩm tiêu biểu.
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”
Câu hỏi tu từ này chính là sự phân thân của nhà thơ. Lúc này Hàn Mặc Tử đang trở thành cô gái Huế và hỏi với giọng trách móc, hờn giận thật nhẹ nhàng. Từ “chơi” dường như một sự chơi chữ. Bởi tác giả có thể dùng từ “thăm” nhưng lại mất đi sự thân quen gần gũi.
Câu thơ cũng có thể là sự tự trách, tự hỏi sao Huế đẹp đến vậy mà anh không vào chơi. Câu hỏi ấy là nỗi đau khắc khoải, bởi có lẽ khi viết bài thơ này, nhà thơ đang phải chịu đựng những đau đớn của bệnh Phong ở giai đoạn cuối. Vì vậy, về chơi ở Huế đã trở thành niềm khao khát của Hàn Mặc Tử.
Dù không thể về Huế, trong tâm tưởng nhà thơ, thiên nhiên ở thôn Vĩ vẫn thật lung linh, đẹp đẽ:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Ba câu thơ đã khắc họa thật thành công một bức tranh về thôn Vĩ thơ mộng, từ xa đến gần. Điệp từ “nắng” gợi lên trước người đọc một không gian tràn ngập ánh sáng. Còn cau là loại cây đặc trưng của thôn Vĩ, thân cây thẳng tắp với tán lá xanh tốt đến thực khách phải thốt lên “vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Dù nói rằng “vườn ai” nhưng ai cũng biết là vườn của cô gái Huế. “Mướt quá xanh như ngọc”. Xanh như ngọc là màu xanh tinh khiết, màu xanh tinh túy kết tinh từ nắng, từ sương. Màu xanh ngọc ấy đã tạo nên khu vườn quyến rũ và thôn Vĩ vì thế trở nên đẹp hơn. Nhưng bức tranh thôn quê ấy hoàn hảo hơn, có thần có tình hơn khi có sự thấp thoáng của bóng dáng người thiếu nữ: “lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Là lá trúc cũng bởi, thôn Vĩ Dạ nổi tiếng với loài cây trúc luôn được trồng trước ngõ. Bởi vậy, trong tâm tưởng của thi nhân hiện lên gương mặt chữ điền thấp thoáng sau hàng trúc.
Phân tích 2 khổ đầu bài Đây thôn vĩ dạ, trước tiên người đọc thấy rõ, tất cả khung cảnh và con người tạo nên một bức tranh hài hòa giữa con người và thiên nhiên. Nhưng có lẽ nếu thơ chỉ có niềm vui, niềm lạc quan yêu đời thì hẳn đó không phải thơ của Hàn Mặc Tử. Bởi vậy, sau khổ thơ đầu rạng rỡ nắng, thì ở khổ thứ hai giọng thơ đã chuyển sang sự mặc cảm về cảnh chia ly:
“Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”
Với hai câu thơ này, vẻ đẹp đặc trưng của xứ Huế hiện lên rõ nét. Đó là dòng Hương lững lờ trôi, là vườn cắp, còn trên cao “gió theo lối gió”, mây đi đường mây. Dù thực tế mây và gió là hai hiện tượng không thể tách rời, bởi có gió thổi, mây mới có thể bay. Thế nhưng trong câu thơ của Hàn Mặc Tử, gió và mây chia lìa nhau, dòng nước buồn thiu mang trong mình tâm trạng không thể tả thành lời.
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”
Hai câu thơ tiếp theo vẫn là dòng sông Hương, là thành Huế mơ mộng, nhưng lúc này đã không còn nắng, màu xanh ngọc của Vĩ Dạ nay là không gian tràn ngập ánh sáng của trăng. Và thuyền trở thành thuyền trăng, sông trở thành sông trăng và bến là bến trăng.
Bến trăng, thuyền trăng đã xuất hiện nhiều trong thi ca, nhưng sông trăng thì lại là hình ảnh mới lạ. Bởi vậy, câu thơ như đưa người đọc vào cõi mộng. Và “Có chở trăng về kịp tối nay?” là câu hỏi mong chờ, khắc khoải, lo âu lẫn hoài nghi, khẩn thiết; đó cũng như câu hỏi nhà thơ hỏi chính mình. Người viết ý thức được rằng, nếu trăng không “về kịp tối nay”, thì mình sẽ rơi vào đau đớn, tuyệt vọng mãi mãi.
Qua 2 khổ đầu bài Đây thôn vĩ dạ có thể thấy, thành công của hai khổ thơ nhờ các biện pháp tu từ như điệp từ, các câu hỏi thu từ, cách so sánh bằng liên tưởng. Qua các bút pháp nghệ thuật, Hàn Mặc Tử đã khắc họa nên một khung cảnh nên thơ, đầy sức sống nhưng cũng mang tải nỗi buồn, nỗi lòng của người thi sĩ chịu nhiều bất hạnh.
Bài tham khảo số 10
Vĩ Dạ một làng cổ đẹp nổi tiếng bên bờ Hương Giang, ngoại ô cố đô Huế. Phong cảnh êm đềm thơ mộng. Với Hàn Mặc Tử chắc là có nhiều kỷ niệm đẹp? Câu mở bài như một lời chào mời, như một tiếng nhẹ nhàng trách móc:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?"
Đồng thời cũng là câu hỏi HMT tự hỏi mình, tự trách mình. Đây cũng chính là hình thức bày tỏ một cái cớ để tác giả nói về thôn vĩ, nhớ về thôn Vĩ cũng như con người nơi thôn Vĩ.
"Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên,
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền"
Cảnh Vĩ Dạ được nói đến là hàng cau với nắng mới lên, một bình minh rạng ngời. Là màu xanh cây trái của “vườn ai”, ngỡ ngàng bâng khuâng, rồi thốt lên “mướt quá xanh như ngọc”. Sắc xanh mượt mà, láng bóng ngời lên. Một so sánh rất đắt gợi tả sắc xuân, sắc xuân của “vườn ai”? Thiên nhiên thôn Vĩ hiện lên những hình ảnh tươi đẹp, ấm áp, rực rỡ, tinh khôi như chính tình cảm của tác giả dành cho nơi đây.
Ánh lên giữa nét đẹp của thiên nhiên, bóng người xuất hiện thấp thoáng sau hàng trúc: “gương mặt chữ điền”. Nét vẽ “lá trúc che ngang” là một nét vẽ thần tình gợi tả vẻ kín đáo, duyên dáng của người con gái thôn Vĩ. Và cho biết “vườn ai”, ấy là vườn xuân thiếu nữ. Cau, nắng, màu xanh như ngọc của vườn ai, lá trúc và cả gương mặt chữ điền, một bức tranh thiên nhiên với môn màu sắc, nét vẽ đầy chất hội hoạ của tác giả, nét nào cũng tinh tế, tao nhã, gợi nhiều thương mến bâng khuâng.
Thiên nhiên cảnh vật thôn Vĩ có sự thay đổi, dường như đã trở nên buồn hơn, mọi thứ như chia lìa đôi ngả. Một miền quê thoáng đãng, thơ mộng. Có gió, mây, cỏ hoa, có dòng nước. Cảnh đẹp đầy thi vị, cổ điển. Gió mây đôi ngả phân li. Dòng nước buồn thiu, buồn xa vắng mơ hồ. Hoa bắp nhè nhẹ “lay” cũng gợi buồn. Những hình ảnh ấy cùng với nhịp thơ chậm nhẹ tạo nên một vẻ buồn riêng của Huế, đồng thời cũng chính là nỗi buồn của tác giả.
“Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”
Khổ một nói đến “nắng mới lên”, nắng bình minh. Khổ 2, nói đến “bến sông trăng”, bến đò trong hoài niệm. Vầng trăng của thương nhớ đợi chờ. “Thuyền ai” có lẽ là con thuyền thiếu nữ? Vần thơ trăng đẹp nhất trong thơ Hàn Mặc Tử. Có bến sông trăng, có con thuyền trăng. Thật thơ mộng, tình tứ:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Bến và thuyền như tắm mình trong ánh trăng dịu nhạt, có vẻ thơ mộng, mơ hồ, huyền ảo." Có chở trăng về kịp tối nay", câu thơ đầy ám ảnh, như lời cầu khẩn, một niềm hy vọng thuyền sẽ kịp về, nếu không về kịp, số phận kia sẽ bị bỏ rơi, sẽ lâm vào tuyệt vọng và vĩnh viễn đau thương.
Câu thơ của Hàn Mặc Tử về bến sông trăng và thuyền ai gợi nhớ đến vần ca dao "thuyền ơi có nhớ bến chăng, bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền ". Và do đó cảm nhận 2 khổ đầu bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ thấm đẫm một mối tình thương nhớ, đợi chờ man mác, mơ hồ, bâng khuâng.
Bài tham khảo số 9
Hàn Mặc Tử là nhà thơ có tâm hồn nhạy cảm, những sáng tác của ông được sáng tác và đi vào lòng cũng một cách rất tự nhiên, sâu lắng, để lại nhiều suy ngẫm cho độc giả. Một trong những bài thơ như thế chính là bài Đây thôn Vĩ Dạ, bài thơ nhắc nhiều đến xứ Huế thơ mộng, với vẻ đẹp vừa giản dị vừa yêu kiều như chính người con gái mà tác giả đang thầm thương trộm nhớ.
Không những thế bài thơ còn nói lên niềm khát khao được sống, được yêu một cách tha thiết của thi sĩ. Trong đó, hai khổ thơ đầu đã diễn tả một khung cảnh bình yên, hình ảnh con người đẹp e ấp bên lá trúc cùng diễn biến tâm trạng của nhân vật trữ tình trong bài thơ.
Không giống với các bài thơ khác, mở đầu bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ lại không phải là một câu miêu tả hay một câu cảm thán, mà là một câu hỏi tu từ:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Cảm hứng của bài thơ được khơi gợi từ một tấm thiếp của Hoàng Thị Kim Cúc viết cho Hàn Mặc Tử, những lời thơ khiến cảm xúc của tác giả lại ùa về, gợi nhắc về một miền quê xứ Huế thơ một hữu tình. Câu đầu của bài thơ, mở đầu bằng một câu hỏi đã lạ mà đằng này lại còn là một câu hỏi tu từ không có người trả lời càng khiến cho mạch cảm xúc của bài thơ trở nên bâng khuâng khó tả. Tuy không được ở gần, không được một lần về thăm lại Vĩ Dạ nhưng với nỗi nhớ da diết đã đưa Hàn Mặc Tử trở về với xứ Huế. Câu hỏi tu từ như một lời trách móc, hờn dỗi của một cô gái muốn thủ thỉ rằng: sao lâu rồi mà anh không về thăm xứ Dạ lấy một lần.
Câu hỏi đưa ra vốn không để tìm câu trả lời nên nó gợi lên cảm giác bâng khuâng, khó tả. Nói giống như một lời mời gọi, vừa như một lời giới thiệu mà cũng là sự tiếc nuối của chính tác giả đã lâu không có dịp về thăm chốn xưa : “Sao anh không về thăm thôn Vĩ?” – một lời tự vấn, tự trách bản thân mình.
Khung cảnh Vĩ Dạ dần hiện ra với bao nhiêu cảnh, vừa có nắng vừa có màu sắc rực rỡ lại vừa có hình ảnh của những lá trúc đung đưa trước ngõ nhà ai. Cái tài cái độc đáo của tác giả là gợi ra sự tưởng tượng mới lạ cho chính người đọc.
Không trực tiếp sống ở Vĩ Dạ nhưng với nỗi niềm nhớ Vĩ Dạ tha thiết đã khiến cho tác giả có thể tự phân thân mình đang đặt bước về thăm thôn Vĩ thân thương. Mỗi câu thơ như dẫn ra một vẻ đẹp của nơi đây, không những thế ngôn từ dùng để miêu tả khung cảnh vừa đẹp mà còn vừa có tính gợi. Mọi thứ đều hòa hợp và ánh lên một vẻ đẹp thanh tú, thuần khiết. Hình ảnh hàng cau gợi ra những vẻ đẹp thanh thoát, cao vút và vươn lên đón ánh sớm mai. Len lỏi vào đó là những tia nắng bình minh vừa rực rỡ vừa dịu dàng như trải lên cho Vĩ Dạ một vẻ thân thiện lại đầy sự mời gọi. Nắng ở đây càng trở nên đẹp hơn, kì lạ hơn khi tác giả khoác cho nó một chiếc áo ngôn từ “nắng mới lên”. Cái nắng ấy thật tinh khiết mà cũng thật trong trẻo, không một chút gợn của một đêm dài đã trải qua.
Tác giả như dẫn dắt người đọc đi sâu hơn vào khung cảnh của thôn Vĩ. Với biện pháp so sánh, những khu vườn nơi đây đã trở nên hữu tình trước mắt người đọc thông qua con mắt nghệ sĩ của Hàn Mặc Tử: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Dường như cây cối ở thôn Vĩ quanh năm đều tốt tươi. Từ “mướt” được sử dụng ở đây quả thực không quá chút nào, xanh mướt, mơn mởn và đầy sức sống. Nhịp thơ uyển chuyển kết hợp với từ ngữ mang tính tượng hình cao, cảnh vật nơi đây như càng thêm huyền bí, đẹp đẽ, vừa có màu của nắng mới lên, vừa có màu xanh mướt của những khu vườn, mọi thứ đều tươi mới và tràn trề nhựa sống.
Hình ảnh trăng hiện ra không chỉ ở bài thơ này mà còn còn là thi liệu của nhiều bài thơ của nhiều thi sĩ khác. Ánh trăng là biểu tượng cho cái đẹp, tượng trưng cho hạnh phúc và thanh bình. Đối với Hàn Mặc Tử hình ảnh trong thơ gợi cho người đọc một niềm tin yêu, một niềm hi vọng. Chỉ có trong thơ mới có sông trăng và hình ảnh thuyền chở trăng thi vị đến vậy. Nghệ thuật ẩn dụ này đã mang đến một cảm giác được chờ đợi, được khao khát nhưng đồng thời nó cũng như một sự dự cảm, một nỗi phân vân: “có chở trăng về kịp tối nay?”. Lời thơ cất lên như một câu hỏi không có đáp án. Hai câu thơ đặc tả tâm trạng khát khao được gặp gỡ nhưng đồng thời cũng thể hiện nỗi lo lắng khôn nguôi.
Mặc dù bài thơ đã ra đời từ cách đây rất lâu, nhưng bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ nói chung và cảm nhận của em về hai khổ thơ đầu bài Đây thôn Vĩ Dạ nói riêng đã tạo nên nhiều cảm xúc của độc giả từ cổ chí kim. Nó không chỉ gợi mở vẻ đẹp thiên nhiên mà còn là những tác phẩm tiêu biểu cho hồn thơ Hàn Mặc Tử, một tâm hồn thơ nhạy cảm muốn giao hòa với đời và với người.
Bài tham khảo số 7
Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Trăng nằm yên trên cành liễu đợi chờ
Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Chẳng bán tình duyên ước hẹn thề
Ai đã từng sinh ra và lớn lên trên cõi đời này mà không biết đến “lời rao trăng” nổi tiếng ấy của một nhà thơ cũng rất nổi tiếng trong những năm ba mươi của thế kỉ XIX, vâng đó chính là Hàn Mặc Tử - một tên tuổi mãi mãi in đậm trong tấm lòng đọc giả. Ông là “một hồn thơ mãnh liệt nhưng luôn quằn quại, đau đớn, dường như có một cuộc vật lộn và giằng xé dữ dội giữa linh hồn và xác thịt”. Ông “đã tạo ra cho thơ mình một thế giới nghệ thuật điên loạn, ma quái và xa lạ với cuộc đời thực”. Bài thơ còn là tình yêu thiên nhiên, yêu con người Vĩ Dạ một cách nồng cháy – nơi chất chứa biết bao kỉ niệm và luôn sống mãi trong hồi tưởng của ông. Chính vì thế đọc bài thơ này ta thấy được một phương diện rất đẹp của tâm hồn nhà thơ.
Với lời trách cứ nhẹ nhàng dịu ngọt vừa như một lời mời, Hàn Mặc Tử trở về với thôn Vĩ Dạ trong mộng tưởng:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Cảnh vật ở thôn Vĩ Dạ với những vườn cây trái, hoa lá sum suê hiện lên thật nên thơ, tươi mát làm sao. Đó là một hàng cau thẳng tắp đang tắm mình dưới ánh “nắng mới lên” trong lành. Chưa hết, rất xa là hình ảnh “nắng hàng cau nắng mới lên” còn rất gần lại là “vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. “Mướt quá” gợi cây xanh non tràn trề sức sống xanh tốt. Thiên nhiên và con người hoà hợp với nhau. Tạo một tâm trạng buồn và tiếc nuối cho tác giả.
Khổ thơ thứ hai đột ngột chuyển sắc thái của cảnh:
Gió theo lối gió mây đường mây
Cũng cùng không gian là thôn Vĩ Dạ nhưng thời gian có sự biến đổi từ “nắng mới lên” sang chiều tà. Tâm trạng của nhân vật trữ tình cũng có sự biến đổi lớn. Trong mắt thi nhân, bầu trời hiện lên “Gió theo lối gió mây đường mây” trong cảnh chia li, uất hận. Biện pháp nhân hoá cho chúng ta thấy điều đó. “Gió theo lối gió” theo không gian riêng của mình và mây cũng thế. Câu thơ tách thành hai vế đối nhau; mở đầu vế thứ nhất là hình ảnh “gió”, khép lại cũng bằng gió; mở đầu vế thứ hai là “mây”, kết thúc cũng là “mây”. Trong mộng tưởng, Hàn Mặc Tử đã trở về với thôn Vĩ nhưng lòng lại buồn chắc có lẽ bởi mối tình đơn phương và những kỉ niệm đẹp với cảnh và người con gái xứ Huế mộng mơ làm nên tâm trạng ấy. Bầu trời buồn, mặt đất cũng chẳng vui gì hơn khi:
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay.
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Sông Hương “buồn thiu” lúc chiều dưới ánh trăng đã trở thành “sông trăng” thơ mộng. Cắm xào đậu bên trên con sông đó là “thuyền ai đậu bến”, là bức tranh càng trữ tình, lãng mạn. Hình ảnh “thuyền” và “sông trăng” đẹp, hài hoà biết bao.
Có chở trăng về kịp tối nay?
Câu hỏi tu từ vang lên như một nỗi lòng khắc khoải, chờ đợi, ngóng trông được gặp gương mặt sáng như “trăng" của người thôn Vĩ trong lòng thi nhân. Như thế mới biết nỗi lòng của nhà thơ dành cho cô em gái xứ Huế tha thiết biết nhường nào. Tác giả đang rất cô đơn cần người tâm sự chỉ có ánh trăng mới thấu hiểu nỗi lòng của nhà thơ. Hàn Mặc Tử rất yêu xứ Huế dường như Huế và cảnh Huế không đón đáp lại tình yêu của tác giả, chúng xa cách, trống vắng và xa cách biết bao.
Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
Vẫn là một tâm trạng vui sướng được đón “khách đường xa” - người thôn Vĩ đến với mình, tâm trạng nhân vật trữ tình lại khép lại trong một nỗi đau đớn, hoài nghi “Ai biết tình ai có đậm đà?”. “Ai” ở đây vừa chỉ người thôn Vĩ vừa chỉ chính tác giả. Chẳng biết người thôn Vĩ có còn nặng tình với mình không? Và chẳng biết chính mình còn mặn mà với “áo em trắng quá” hay không? Nỗi đau đớn trong tình yêu chính là sự hoài nghi, không tin tưởng về nhau. Nhân vật trữ tình rơi vào tình trạng ấy và đã bộc bạch lòng mình để mọi người hiểu và thông cảm. Cái mới của thơ ca lãng mạn giai đoạn 1932 - 1945 cũng ở đó.
Đây thôn Vĩ Dạ là một bức tranh đẹp về cảnh và người của một miền quê đất nước qua tâm hồn thơ mộng, giàu trí tưởng tượng và đầy yêu thương của một nhà thơ đa tình đa cảm Trải qua bao năm tháng, cái tình của Hàn Mặc Tử vẫn còn tươi nguyên, nóng hổi và day dứt trong lòng người đọc. “Tình yêu trong ước mơ của con người đau đớn ấy có sức bay bổng kì lạ” nhưng nó cũng giản dị, trong sáng và tươi đẹp như làng quê Vĩ Dạ. Đây là một nghệ sĩ tài hoa, một trái tim suốt cuộc đời luôn thổn thức tình yêu, một tâm hồn thi sĩ đã biến những nỗi đau thương, bất hạnh của đời mình thành những đoá hoa thơ, mà trong đó thơm ngát nhất, thanh khiết nhất là Đây thôn Vĩ Dạ.
Bài tham khảo số 6
Hàn Mặc Tử là nhà thơ có tâm hồn nhạy cảm, những sáng tác của ông được sáng tác và đi vào lòng người cũng một cách rất tự nhiên sâu lắng, để lại nhiều suy ngẫm cho độc giả. Một trong những bài thơ như thế chính là bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”, bài thơ nhắc tới miền quê xứ Huế thơ mộng, với vẻ đẹp vừa giản dị vừa yêu kiều như chính người con gái mà tác giả đang thầm thương trộm nhớ. Không những thế, bài thơ còn nói lên niềm khát khao, tình yêu quê và sự gắn bó thiết tha của thi sĩ.
Không giống với các bài thơ khác, mở đầu bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” lại không phải là một câu miêu tả hay câu cảm thán, mà là câu hỏi tu từ: "Sao anh không về chơi thôn Vĩ”. Cảm hứng của bài thơ được khơi nguồn từ bức thư của Hoàng Thị Kim Cúc, viết cho Hàn Mặc Tử, những lời thơ khiến cảm xúc của tác giả ùa về, lại khơi gợi ra những nỗi nhớ về một miền thơ mộng hữu tình
Câu đầu của bài thơ, mở đầu một câu hỏi đã lạ, lại mở đầu với câu hỏi mà không có người trả lời, khiến mạch cảm xúc của bài thơ trở nên bâng khuâng khó tả. Tuy không ở gần, không được một lần về thăm Vĩ Dạ, nhưng bằng với nỗi nhớ diết da đã đưa Hàn Mặc Tử về với quê hương. Câu hỏi tu từ như một lời trách móc, hờn dỗi của một cô gái như thủ thỉ ràng, sao lâu rồi mà tác giả không về thăm quê lấy một lần. Câu hỏi vốn đưa ra không phải để trả lời, mà gợi ra cảm giác bâng khuâng, khó tả. Nó giống như một lời mời gọi, vừa như là một lời giới thiệu mà cũng là sự tiếc nuối của chính tác giả lâu không về thăm thôn Vĩ. “Sao anh không về chơi thôn Vĩ” như một lời tự vẫn, tự trách móc mình.
Khung cảnh Vĩ Dạ dần hiện ra với bao nhiêu cảnh, vừa có nắng vừa màu sắc rực rỡ, lại vừa có hình ảnh của những cành trúc đung đưa trước ngõ nhà ai. Cái tài cái độc đáo của tác giả là gợi ra sự tưởng tượng mới lạ cho chính người đọc
Không trực tiếp ở Vĩ Dạ, nhưng với nỗi niềm nhớ Vĩ Dạ tha thiết khiến tác giả có thể tưởng tượng ra cảnh chính mình đang đặt bước chân về với quê hương thân yêu. Mỗi câu thơ như dẫn ra một vẻ đẹp của nơi đây, không những thế, ngôn từ dùng để miêu tả khung cảnh, không chỉ đẹp mà còn có tính gợi. Mọi thứ như đều hòa hợp và ánh lên một vẻ đẹp thanh tú, thuần khiết. Hình ảnh hàng cau gợi ra những vẻ đẹp thanh thoát, cao vút và vươn lên đón ánh nắng sớm mai. Len lỏi vào đó là những tia nắng bình minh vừa rực rỡ lại vừa dịu dàng, như trải lên cho Vĩ Dạ một vẻ thân thiện lại đầy sự mời mọc. Nắng ở đây càng trở nên đẹp hơn, kì lạ hơn khi tác giả khoác cho nó với ngôn từ “nắng mới lên thật tinh khiết mà cũng thật trong trẻo, không một chút gợn của một ngày dài đã trải qua.
Tác giả như dẫn dắt người đọc đi sâu hơn vào khung cảnh của thôn Vĩ, và với biện pháp so sánh, những vườn tược nơi đây đã trở thành những thứ mà dưới con mắt của một người nghệ sĩ được hóa thành chốn hữu tình: "vườn ai mướt quá xanh như ngọc” . dường như cây cối ở thôn Vĩ quanh năm tốt tưới, từ “ mướt” được sử dụng ở đây quả thật không quá chút nào, xanh mướt, mơn mởn và đầy sức sống. Nhịp thơ uyển chuyển kết hợp với từ ngữ mang tính tượng hình cao, cảnh vật nơi đây như càng thêm huyền bí, đẹp đẽ, vừa có màu của nắng mới lên, vừa có màu xanh mướt của những khu vườn, mọi thứ đều tươi mới, đầy nhựa sống. Câu cuối của khổ 1 gợi ra nhiều suy nghĩ và liên tưởng nhất: "Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Phải chăng là hình ảnh lá trúc đang sà xuống những khu vườn vuông vắn tươi đẹp của xứ Huế, hay những cành trúc đang buông mình trước cửa của những ngôi nhà xứ Huế. Đâu đấy lại gợi ra vẻ e ấp của cô gái Huế với khuôn mặt phúc hậu, gợi ra vẻ đẹp duyên dáng mà cũng kín đáo.
Những câu thơ tiếp theo cho tôi thấy một nét khác của Huế, một sự chuyển biến về tâm trạng của nhân vật trữ tình:
“Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”
Những câu thơ cho ta thấy tâm trạng nặng trĩu của Hàn Mặc Tử, hai câu thơ đầu gợi cảnh chia li sầu não buồn đến sâu thẳm. Điệp từ "gió” và “mây” cùng với nhịp điệu của câu thơ càng khiến cho khung cảnh chia li hiện rõ. Gió mây thường là một cặp, thường quấn quýt bên nhau nhưng ở đây “gió theo lối gió, mây đường mây”. Hoa rơi nước cuốn là điều hiển nhiên nhưng lại ẩn chứa một tâm sự buồn bã đến não lòng, sự chia li chia lìa ngày một hiện hữu. Nhìn cảnh hoa trôi gió cuốn mà chúng ta lại nhìn ra cả tâm trạng của thi nhân. Lòng buồn thiu, không có một nỗi niềm nào chất chứa. Hình ảnh trăng hiện ra, không chỉ ở bài thơ này mà còn nhiều bài thơ nổi tiếng của các nhà thơ khác. Ánh trăng là biểu tượng cho cái đẹp, tượng trưng cho hạnh phúc và thanh bình. Đối với Hàn Mặc Tử hình ảnh trăng trong thơ gợi cho người đọc một niềm hi vọng, một niềm tin. Chỉ có trong thơ mới có thể có sông trăng và thuyền chở trăng. Nghệ thuật ẩn dụ của tác giả ở đây thật thơ mộng, mang đến cho ta niềm khao khát, đợi chờ. Nhưng lại mang một dự báo, hay một nỗi phân vân rằng “Có chở trăng về kịp tối nay”. Lời thơ cất lên như một câu hỏi không có đáp án. Hai câu thơ đặc tả tâm trạng khát khao gặp gỡ nhưng đồng thời cũng thể hiện nỗi lo lắng khôn nguôi.
Mặc dù đã ra đời từ lâu nhưng bài thơ đã lấy nhiều cảm xúc của người đọc cả lúc ấy và cả độc giả thời đại hiện nay. Nó không chỉ gợi mở vẻ đẹp thiên nhiên tuyệt đẹp mà còn là những cảm xúc sâu lắng, với niềm khát khao yêu đời, yêu người. Bài thơ là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho hồn thơ Hàn Mặc tử, một tâm hồn nhạy cảm với đời, với tình yêu, cuộc sống.
Bài tham khảo số 3
Mỗi con người Việt Nam chắc hẳn đều biết đến lời rao trăng nổi tiếng của nhà thơ đậm chất trữ tình lãng mạn Hàn Mặc Tử trong những năm 30 của thế kỉ XIX và lời rao trăng đó đã in sâu vào lòng độc giả. Ông là một thiên tài như những ngôi sao sáng lóa trong bầu trời thơ mới nhưng cuộc đời ông cũng chứa đầy bất hạnh, ông luôn đau đớn quằn quại bên chiếc giường trong trại phong quy hòa và nơi đó có sự vật lộn và giằng xé giữ dội giữa linh hồn và xác thịt của ông với căn bệnh quái gở. Và chính nơi đây ông đã tạo ra cho mình một thế giới nghệ thuật điên loạn, ma quái. Chính "chất điên" ấy đã làm nên phong cách nghệ thuật độc đáo, riêng biệt, mới mẻ của Hàn Mặc Tử.
Thơ của ông như trào ra máu và nước mắt, tuy vậy bên trong những dòng thơ ấy vẫn có những dòng thơ trong sáng, thanh khuyết đến lạ thường. Đây thôn Vĩ Dạ trích trong tập thơ điên là tác phẩm như thế. Đây chính là sản phẩm của nguồn thơ lạ lùng kia, là một lời tỏ tình với cuộc đời của một tình yêu tuyệt vọng, yêu đơn phương nhưng ẩn bên dưới mỗi hàng chữ tươi sáng là cả một khối u hoài của tác giả. Bài thơ còn là tình yêu thiên nhiên, yêu con người Vĩ Dạ một cách nồng cháy – nơi chất chứa biết bao kỉ niệm và luôn sống mãi trong hồi tưởng của ông. Chính vì thế đọc bài thơ này ta thấy được một phương diện rất đẹp của tâm hồn nhà thơ.
Xứ Huế mộng mơ đã từng là nơi khơi nguồn cảm hứng cho nhiều nhà văn nhà thơ. Có lẽ trong đó xuất sắc nhất là tập thơ điên của Hàn Mặc Tử với chất điên loạn ấy, ông mở đầu với câu hỏi:
"Sao anh không về chơi thôn Vĩ?"
Trong chính câu hỏi đó đã mang nhiều sắc thái biểu cảm như là vừa hỏi vừa nhắc nhở, vừa trách móc, vừa như là một lời giới thiệu và mời gọi mọi người. Câu thơ bảy chữ nhưng có đến sáu thanh bằng làm cho giọng thơ êm dịu và tình tứ đi, chính sự êm dịu đã làm cho lời trách móc dịu nhẹ đi. nhưng ở đây không phải là lời trách của hoàng cúc mà là của chủ thể trữ tình Hàn Mặc Tử, từ nỗi lòng da diết đối với xứ Huế trong tâm trạng tuyệt vọng nhưng đầy khát khao của Hàn Mặc Tử, đã vẽ ra khung cảnh thôn Vĩ tuyệt đẹp như trong chuyện thần tiên trong ba câu tiếp theo:
"Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền"
Thôn Vĩ hiện lên trong thơ Hàn Mặc Tử thật giản dị mà sao đẹp quá! Bằng tình yêu thiên nhiên của mình, tác giả đã mở ra trước mắt ta một bức tranh thiên nhiên tuyệt tác, đẹp một cách lộng lẫy. Thôn Vĩ nói riêng và Huế nói chung được đặc tả bằng ánh sáng của buổi bình minh và một vườn cây quen thuộc. đó là hàng cao thẳng tắp đang tắm mình dưới nắng. Hàng cau như đón chào người thân thương sau bao ngày xa cách. Hàng cau cao vút là hình ảnh thân thuộc thôn Vĩ Dạ từ bao đời nay. Quên sao được màu xanh cây lá nơi đây. Nhà thơ trầm trồ thốt lên khi đứng trước một màu xanh mơn mởn ở thôn Vĩ Dạ: “vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Ở đây cho ta thấy sự vươn lên mạnh mẽ, tràn trề, đấy sức sống và làm ta thấy sự tươi trẻ, yêu đời. trong không gian tươi trẻ đó lại hiện lên gương mặt chữ điền, phúc hậu. với lá trúc che ngang gương mặt phúc hậu đã tô đậm vẽ đẹp của cô gái Huế duyên dáng, dịu dàng, kín đáo, tình tứ đáng yêu. Câu thơ đẹp vì sự hài hòa giữa cảnh vật và con người. tâm trạng nhân vật trong đoạn thơ này là niềm vui, vui đến say mê như lạc vào cõi tiên, cõi mộng khi được trở về với cảnh và người thôn Vĩ.
Thế nhưng cũng cùng không gian là thôn Vĩ Dạ nhưng thời gian có sự biến đổi từ bình minh lên chiều tà và thi nhân đã vạch ra một không gian mênh mông, to lớn có đủ gió, mây, sông, nước, trăng, hoa. Với không gian to lớn đó thi nhân đã miêu tả hai thực thể luôn gắn bó trong trạng thái chia lìa:
"Gió theo lối gió mây đường mây"
Điều này là ngang trái, phi hiện thực và phi lí. Qua đó cho thấy, thi nhân tạo ra hình ảnh này không phải bằng thị giác mà bằng cái nhìn của mặc cảm. Đó là mặc cảm của một người gắn bó thiết tha với đời mà đang có nguy cơ phải chia lìa với cõi đời nên nhìn đâu cũng thấy chia lìa.
Vốn dĩ thi nhân đang vui sướng khi về thôn Vĩ Dạ trong buổi ban mai lại đột ngột trở nên buồn, u uất. Có lẽ nỗi buồn là do bởi mối tình đơn phương và kỉ niệm đẹp với cảnh và người xứ Huế mộng mơ tạo nên. quả thật người buồn cảnh có vui bao giờ. Huế vốn thơ mộng, êm đềm - thi nhân lại làm cho nó trở nên vô tình, xa lạ.
"Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”
Dòng Hương Giang vốn đẹp, thơ mộng đã bao đời đi vào thơ ca Việt Nam thế mà bây giờ lại buồn thiu, lòng sông buồn, bãi bờ của nó cũng buồn, hoa bắp vô hương vô sắc đang đưa nhẹ trong gió. Cảnh buồn chỉ đến đó, thế nhưng đêm xuống trăng lên lại là con người hoàn toàn mới. Với tính cách lãng mạn thi nhân đã tạo nên một không gian tràn ngập ánh trăng, một dòng sông trăng, một bến đò trăng, một con thuyền đầy trăng, tất cả đều lung linh, huyền ảo … trăng đã đi vào tâm thức của con người Việt Nam từ lâu nhưng trăng ở đây lại khác trăng của thế hệ trước và đương thời. Nào có con thuyền nào chở được trăng nhưng ở đây thi nhân lại thấy con thuyền trở trăng. Điều đó làm cho mọi vật nơi đây trở nên huyền ảo, đầy lãng mạn. Tuy nhiên đối diện với trăng thi nhân vẫn mang một tâm trạng bất an.
Bằng 2 khổ thơ đầu thôi nhưng Hàn Mạc Tử dường như đã cho chúng ta thấy tất cả về người và cảnh của thôn Vĩ Dạ đề qua đó hiểu sâu sắc hơn tâm trạng nặng trĩu của nhân vật trữ tình. Thấy được một tâm hồn nhạy cảm với đời, với tình yêu, cuộc sống của tác giả.