Top 4 Bài văn phân tích chất thơ trong bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường hay nhất

Hoàng Phủ Ngọc Tường là cây bút nổi tiếng trong văn học Việt Nam hiện đại. Ông có sở trường về tuỳ bút và bút kí. Các tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường tạo được dấu ấn riêng trong nền văn học nhờ chất trữ tình đằm thắm cùng tư duy đa chiều, giàu chất trí tuệ. “Ai đã đặt tên cho dòng sông” rút từ tập bút ký cùng tên là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của ông. Dưới đây là những bài văn phân tích chất thơ trong bút kí "Ai đã đặt tên cho dòng sông" hay nhất, mời bạn đọc tham khảo

Bài văn phân tích chất thơ trong bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường số 1

Bút kí là một thể loại kí văn học ghi lại sự việc, con người, cảnh vật mà nhà văn mắt thấy tai nghe nhưng bút kí không chỉ phản ánh những sự kiện khách quan mà có những nhận xét, suy nghĩ, liên tưởng và nhất là cảm xúc, do đó bút kí có chất trữ tình. Tuy nhiên, tùy theo phong cách của từng tác giả mà yếu tố trữ tình đó có thể là đậm đặc, xuyên suốt hay điểm xuyết giữa những yếu tố thuyết minh, tự sự, nghị luận...


Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong nhừng nhà văn chuyên về bút kí. Nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật của ông là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa trữ tình và chính luận, sử thi hóa lịch sử và khám phá chiều sâu văn hóa của đối tượng. Chất trữ tình trong bút kí của ông xuyên thấm vào tất cả và thăng hoa thành chất thơ của ngôn ngữ.


Chất thơ là một phẩm chất tổng hợp được tạo nên từ nhiều yếu tố cảm xúc, cái đẹp, trí tưởng tượng, tính chất của cuộc sống và nhạc điệu của ngôn ngữ...


Khó có thể tách các yếu tố này khỏi nhau bởi nó hòa quyện với nhau, trong từng hình ảnh, từ ngữ, câu văn, đoạn văn.

"Ai đã đặt tên cho dòng sông?" Là bài bút kí mà Hoàng Phủ Ngọc Tường đã viết bằng tất cả tình yêu say đắm với sông Hương đẹp và dịu dàng, với Huế cổ kính thơ mộng.


Đoạn mở đầu với những khu vườn cổ, những kí ức về Nguyễn Du đã gợi cảm xúc về một vùng đất có vẻ đẹp sâu lắng (thanh khiết, cổ kính, có tác dụng như một khúc dạo đầu của một bản đàn hay bài ca thơ mộng).


Mỗi đoạn văn là một chắt lọc tinh túy về hành trình, về dáng vẻ, về vẻ đẹp với những từ ngữ gợi cảm, diễn tả tình yêu say đắm của con người với dòng Sông Hương đã sống một nửa cuộc đời của mình như một cô gái Digan khoáng và ma dại”. “Sông Hương khi về đồng bằng đã thay đổi tính cách, sông như đã chế ngự bản năng ở người con gái để mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”.


Với liên tướng kì thú, diễm tình, tác giả ví sông Hương như một ngựời con gái đẹp được người tình mong đợi đến đánh thức. Những câu văn đẹp, đầy màu sắc và ấn tượng. "Sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn”, “Sắc nước trở nên xanh thẳm”, “nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như những thành quách”. "Dòng sông như tấm lụa, với những chiếc thuyền xuôi ngược nhỏ bé vừa bằng con thoi, những ngọn đồi này tạo nên nhiều mảng phản quang nhiều màu sắc”. “Sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”.


Đến ngoại vi thành Huế, sông Hương lại có vẻ đẹp trầm mặc như những rừng thông u tịch và những lăng tẩm đồ sộ phong kín niềm kiêu hãnh âm u.


Đoạn tả sông Hương chảy vào thành phố, tác giả sáng tạo những hình ảnh đầy ấn tượng :chiếc cầu tráng in trên nền trời, uốn một cánh cung rất nhẹ”. Tác giả sử dụng rộng rãi đặc sắc những phép tu từ gợi cảm vốn là sở trường của thơ như so sánh kết hợp với nhân hóa, ẩn dụ: “Dòng sông mềm hẳn đi như một tiếng váng không nói ra của tình yêu, khúc quanh trước khi ra biển, như một nỗi vấn vương cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”. Những chi tiết về phong tục, lễ hội cũng trở thành họa, thành nhạc, thành tình, nghĩa là thành thơ. “Trăm nghìn cánh hoa đang bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng bảy từ điện Hòn Chén trở về bỗng ngập ngừng như muốn đi, muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng”.


Thi trung hữu nhạc đó là nhạc của lòng, trong văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng có nhạc, gợi nhớ nhạc “Điệu chảy lặng lờ của nó (sông Hương) ngang qua thành phố. Đúng là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế. Những câu văn trải dài, uyển chuyển, du dương mà tự nhiên, nhuần nhị như dòng sông, dòng nhạc đẹp, một "Đanuyp xanh” trong văn.


Trí tường tượng thật phong phú trong những liên tương so sánh, những hồi tưởng đầy hình ảnh kì thú “Sông Nê-va với những phiến băng trôi nhanh như những chiếc thuyền của những chú chim hải âu” (Chim hải âu đứng trên băng - NBS).

Vẻ đẹp cùa đoạn văn tăng lên trong từng chi tiết, đến chi tiết cuối thì thăng hoa cao nhất, đẹp nhất. Tác giả lí giải tên dòng sông bằng huyền thoại đầy chất thơ khiến cho dòng sông vốn có cái tên thơ càng thơ hơn: Hương thơm, thơm cùa ngàn hoa, của nước nấu trăm loại hoa đổ xuống, làm thơm cả từng hơi đất.


Bút kí cuốn hút người đọc một phần ở việc, ở trí thức, sự việc lạ, trí thức mới nhưng nếu chỉ có thế, bài bút ki sẽ không hơn một bài báo và nó nhanh qua đi mà không đọng lại trong lòng người. Bút kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường không giống như thế, nó đầy chất liệu quý, thể hiện một vốn sống, vốn văn hóa phong phú, nhất là về Huế. Hơn thế nó còn mãi, ngân mãi vì nó đầy chất thơ. Chất thơ ấy gắn với nhiều yếu tố, bắt đầu từ nhiều nguồn nhưng yếu tố quan trọng nhất, nguồn lớn lao, dào dạt nhất là tình yêu, tình yêu tha thiết với dòng sông, với Huế, với đất nước của tác giả.

Hình minh họa
Hình minh họa
Hình minh họa
Hình minh họa

Bài văn phân tích chất thơ trong bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường số 3

Hoàng Phủ Ngọc Tường quê gốc ở Quảng Trị, nhưng ông sinh ra ở Huế và cho đến tận cuối đời ông vẫn gắn bó với đất Huế. Có lẽ cũng chính vì thế mà nhà văn có một tình yêu và sự nghiên cứu rất sâu sắc về văn hóa, lịch sử, địa lý của xứ Huế, là cơ sở vững chắc để có những trang viết đặc sắc về Huế. Ông có sở trường ở thể loại bút ký thể hiện rõ lối tư duy phóng túng, liên tưởng mãnh liệt phong phú, ngôn ngữ trong sáng đẹp đẽ tài hoa, kết hợp nhuần nhuyễn giữa cái chất trữ tình và trí tuệ, giữa nghị luận sắc bén và niềm suy tư đa chiều.


Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong những nhà văn chuyên về bút kí. Nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật của ông là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa trữ tình và chính luận, sử thi hóa lịch sử và khám phá chiều sâu văn hóa của đối tượng. Chất trữ tình trong bút kí của ông xuyên thấm vào tất cả và thăng hoa thành chất thơ của ngôn ngữ. Chất thơ trong tác phẩm được tạo nên từ nhiều yếu tố cảm xúc, cái đẹp, trí tưởng tượng, tính chất của cuộc sống và nhạc điệu của ngôn ngữ... Khó có thể tách các yếu tố này khỏi nhau bởi nó hòa quyện với nhau, trong từng hình ảnh, từ ngữ, câu văn, đoạn văn.


Chất thơ còn tỏa ra từ nhan đề bài kí gợi mãi những âm vang trầm lắng của dòng sông: “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”. Nhan đề tác phẩm không chỉ có ý nghĩa ca ngợi mà còn thể hiện được niềm biết ơn của tác giả đối với những con người đã khai phá, xây dựng, làm đẹp vùng đất này, bộc lộ niềm tự hào về vẻ đẹp của non sông, đất nước. Câu hỏi “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” gợi ra bao nhiêu vẻ đẹp của dòng sông nên không thể trả lời vắn tắt trong một vài câu mà phải trả lời bằng cả bài kí dài ca ngợi vẻ đẹp, chất thơ về dòng sông.

Chất thơ thể hiện qua vẻ đẹp của thiên nhiên Sông Hương. Nét đặc sắc làm nên sức hấp dẫn của bài văn là những xúc cảm sâu lắng được tổng hợp từ vốn hiểu biết phong phú về văn hóa lịch sử địa lý, văn chương với một văn phong tao nhã, hướng nội tinh tế, tài hoa, ngôn từ phong phú, gợi hình gợi cảm, có những câu văn giàu nhạc điệu, chất thơ. Các biện pháp nghệ thuật như ẩn dụ, so sánh, nhân hóa được sử dụng rất hiệu quả khiến cho dòng sông Hương ở ngoài đời đã đẹp nhưng qua sự miêu tả của Hoàng Phủ Ngọc Tường trở nên đẹp bội phần.

Dòng sông như một công trình nghệ thuật tuyệt vời của văn hóa, một vẻ đẹp đầy chất thơ. Bằng sự hiểu biết, sự gắn bó và tình yêu tha thiết với dòng sông Hương và xứ Huế, nhà văn đã khám phá và tô đậm vẻ đẹp của dòng sông. Nhà văn thường xuyên so sánh vẻ đẹp của sông Hương với những người con gái đẹp, từ đó phát hiện ra những vẻ đẹp tưởng chừng đối lập của dòng sông là vừa man dại, phóng túng vừa dịu dàng, say đắm; vừa thủy chung vừa đa tình; vừa kín đáo lại vừa lẳng lơ; vừa anh hùng, quật khởi nhưng cũng rất trữ tình, thơ mộng. “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” xứng đáng là một áng văn hay đặc sắc về xứ sở, về tình yêu quê hương đất nước và cũng rất tiêu biểu cho phong cách bút ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Dòng sông Hương trong văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường khiến cho ai đã từng đọc qua đều mong muốn được một lần đặt chân đến nơi đây, để được đắm mình trong những gì nên thơ nhất của xứ Huế.

Trong bài bút kí này sông Hương đã được đặt trong một cái nhìn tổng thể và toàn diện: Lịch sử và văn hóa, sinh hoạt và phong tục, văn chương và đời sống, con người và thiên nhiên …Trong các mối liên hệ ấy, sông Hương vừa tươi đẹp, vừa thơ mộng và quyến rũ trong các sắc thái thiên nhiên vừa sâu lắng trong các giá trị văn hóa, vừa phong phú đến bất ngờ trong khả năng gợi hứng thú sáng tạo cho những người nghệ sĩ, vừa kiên cường bất khuất trong thế đứng và tinh thần khi đối diện với giặc ngoại xâm…Song dường như sau tất cả những điều đó, sông Hương vẫn mãi còn những điều bí ẩn chưa được khám phá hết nên vẫn mãi gợi niềm bâng khuâng trong tâm hồn con người. bài kí thể hiện “ cái tôi” của tác giả - một cái tôi tài hoa, uyên bác đầy mê đắm.


Chất thơ toát ra từ những câu văn, hình ảnh đẹp, đầy màu sắc và từ độ nhòe mờ của hình tượng nghệ thuật: “những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”, “lập lòe trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ…”, "Sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn”, “Sắc nước trở nên xanh thẳm”, “những ngọn đồi này tạo nên nhiều mảng phản quang nhiều màu sắc”. “Sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”.

Tác giả sử dụng rộng rãi đặc sắc những phép tu từ gợi cảm vốn là sở trường của thơ như so sánh kết hợp với nhân hóa, ẩn dụ: “Dòng sông mềm hẳn đi như một tiếng vâng không nói ra của tình yêu, khúc quanh trước khi ra biển, như một nỗi vấn vương cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”. Những chi tiết về phong tục, lễ hội cũng trở thành họa, thành nhạc, thành tình, nghĩa là thành thơ. “Trăm nghìn cánh hoa đang bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng bảy từ điện Hòn Chén trở về bỗng ngập ngừng như muốn đi, muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng”. Đặc biệt sông Hương luôn được so sánh với những người con gái đẹp.

Thi trung hữu nhạc đó là nhạc của lòng, trong văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng có nhạc, gợi nhớ nhạc “Điệu chảy lặng lờ của nó (sông Hương) ngang qua thành phố. Đúng là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế. Những câu văn trải dài, uyển chuyển, du dương mà tự nhiên, nhuần nhị như dòng sông, dòng nhạc đẹp, một "Đa Nuýp xanh” trong văn. Nhạc tính cũng được thể hiện rõ khi nhà thơ cảm nhận vẻ đẹp của dòng sông Hương trong mối liên hệ với nền âm nhạc Huế.


Chất trí tuệ và chất thơ kết hợp hài hòa trong tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường tạo nên phong cách đặc sắc của nhà văn này.

Bút kí cuốn hút người đọc một phần ở việc, ở trí thức, sự việc lạ, trí thức mới nhưng nếu chỉ có thế, bài bút kí sẽ không hơn một bài báo và nó nhanh qua đi mà không đọng lại trong lòng người. Bút kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường không giống như thế, nó đầy chất liệu quý, thể hiện một vốn sống, vốn văn hóa phong phú, nhất là về Huế. Hơn thế nó còn mãi, ngân mãi vì nó đầy chất thơ. Chất thơ ấy gắn với nhiều yếu tố, bắt đầu từ nhiều nguồn nhưng yếu tố quan trọng nhất, nguồn lớn lao, dào dạt nhất là tình yêu, tình yêu tha thiết với dòng sông, với Huế, với đất nước của tác giả.

Hình minh họa
Hình minh họa
Hình minh họa
Hình minh họa

Bài văn phân tích chất thơ trong bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường số 2

Hoàng Phủ Ngọc Tường là cây bút tiêu biểu của văn học hiện đại Việt Nam, ông sáng tác thành công ở nhiều thể loại, cả thơ và văn xuôi nhưng đạt được thành tựu lớn hơn cả là thể kí. Toàn bộ tinh hoa và năng lực của Hoàng Phủ Ngọc Tường đều dành cho thể kí. Ông đã thành danh và đóng góp nhiều cho văn học sau năm một 975 ở thể loại này. Theo Nguyên Ngọc, Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong số mấy nhà văn viết kí hay nhất của văn học ta hiện nay. Kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường thường có tính chất tự do tản mạn thiên về tùy bút, bộc lộ một trí tuệ sắc sảo, uyên bác. Nguồn mạch xuyên suốt các tác phẩm kí của ông chính là một tấm lòng yêu quê hương đất nước, tâm huyết với tinh hoa văn hóa dân tộc.


Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh ra ở Huế, cả cuộc đời gắn bó với đất Huế, do đó kí viết về Huế chiếm số lượng lớn trong sự nghiệp sáng tác của ông. Huế trở thành một phần trong đời sống tinh thần của nhà văn. Tô Hoài đã nhận xét: “Nếu có thể so sánh thì tôi nghĩ rằng Sơn Nam thuộc đến ngõ ngách, đến tích xưa của Sài Gòn, Bến Nghé, thì tôi nhớ được ít nhiều tên thành phố, tên làng ở Hà Nội, riêng Hoàng Phủ Ngọc Tường thì đằm cả tâm hồn trong khuôn mặt cuộc đời cùng với đất trời sông nước của Huế”. “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là bài kí độc đáo về sông Hương được sáng tác tháng một /một 98một và được đưa vào tập kí cùng tên năm một 984. Tác phẩm thuộc thể kí nhưng là bút kí văn hóa thiên về tùy bút, nó vừa giàu chất trí tuệ, vừa giàu chất thơ với nội dung thông tin phong phú.


Hoàng Phủ Ngọc Tường là người đi nhiều, tích lũy vốn sống vốn hiểu biết sâu sắc. Ông am hiểu những gì mình viết. Đọc tác phẩm của ông là tiếp xúc với một kho tri thức phong phú trên nhiều góc độ văn hóa, triết học, địa lí lịch sử, âm nhạc, điện ảnh, văn chương nghệ thuật.


Hoàng Phủ Ngọc Tường đã vận dụng vốn kiến thức uyên bác để khám phá và xây dựng hình tượng sông Hương, cung cấp cho người đọc một lượng thông tin đa dạng để hiểu sâu hơn về dòng sông và cả thiên nhiên, con người xứ Huế.

Trước hết nhà văn khám phá sông Hương dưới góc nhìn địa lí. Ngay từ những câu văn mở đầu, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã dẫn độc giả làm một cuộc hành trình tìm về cội nguồn của sông Hương để thấy được sức sống mãnh liệt, hoang dại nhưng cũng có lúc dịu dàng say đắm. Sông Hương được khắc họa bằng hình ảnh đầy ấn tượng: mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy qua những cơn lốc giữa màu sắc rực rỡ chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng... Hoàng Phủ Ngọc Tường cảm nhận sông Hương giống như một bản trường ca của rừng già với thanh âm rầm rộ của tiếng nước qua ghềnh thác. Âm hưởng hào hùng đã khiến câu văn miêu tả sông Hương ở vùng thượng lưu đậm đà chất sử thi lãng mạn. Biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa kết hợp với khả năng liên tưởng phong phú đã giúp Hoàng Phủ Ngọc Tường thấy dòng sông như một sinh thể có linh hồn có cảm giác có tính cách lúc dữ dội nó tựa như cô gái Digan man dại, phóng khoáng. Rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do phóng khoáng, lúc êm đềm nó mang sắc đẹp dịu dàng của người mẹ phù sa bồi đắp nuôi dưỡng mảnh đất xứ sở. Hình như bất kỳ dòng sông nào ở chốn thượng nguồn cũng dữ dội, bạo liệt. Sông Đà của Nguyễn Tuân là một loại thủy quái khổng lồ dữ dội, bạo liệt, xảo trá. Cũng là miêu tả cái dữ dội, mãnh liệt của dòng sông, nhưng Hoàng Phủ Ngọc Tường thấy sông Hương đúng là một bản trường ca chứ không phải một bản anh hùng ca như sông Đà của Nguyễn Tuân.


Xuôi dòng sông Hương ra khỏi đại ngàn - sông Hương đã khép lại vẻ dữ dội bạo liệt của mình: Đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khóa trong cái hang đá ở chân núi Kim Phụng. Kể từ đây sông Hương đã mang một vẻ đẹp khác. Sông Hương không còn là một cô gái Di gan với tâm hồn tự do, phóng khoáng mà đã trở thành một người đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại, đợi người tình nhân của mình đến đánh thức dậy. Chẳng còn đâu nữa những nét vẽ gân guốc, chắc khỏe. Sông Hương hiện ra với những nét vẽ dịu dàng, bay bướm với những đường cong thật mềm, một hình cung thật tròn. Cũng chẳng còn sắc màu chói lọi, rực rỡ mà chỉ thấy dòng sông mềm như tấm lụa với màu nước thay đổi theo từng thời điểm trong ngày: sớm xanh, trưa vàng, chiều tím. Có thể nói qua những sắc màu gợi cảm để sông Hương “bình dị mà không tầm thường”, “trầm mặc mà không ủy mị”, “dịu dàng nhưng vẫn tiềm ẩn khí mạnh của đất đai” (Sử thi buồn).


Đẹp nhất, duyên dáng nhất, trữ tình nhất là lúc sông Hương về được với thành phố Huế. Nó như tìm đúng đường về nên vui tươi hẳn lên. Tác giả cảm nhận sông Hương giống như một cố nhân xa xứ, háo hức được trở lại với mảnh đất quê hương xứ sở. “con người” ấy ngắm nhìn thành phố từ xa thấy chiếc cầu trắng in ngần trên nền trời nhỏ nhắn như vầng trăng non. Tách khỏi Huế sông Hương chỉ là một dòng nước chảy vô tri, chảy giữa đôi bờ nhưng gắn với Huế thì cảnh vật nào cũng thanh thoát nhẹ nhàng, dịu dàng như chính giọng nói ngọt ngào của con người nơi đây. Những địa danh: Hòn Chén, Nguyệt Điền. Tuần, vọng Cảnh, Thiên Thai trở nên sống động hơn. Và giáp mặt với thành phố ở cồn Dã Viên, sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang Cồn Hến và làm cho dòng sông mềm hẳn đi như một tiếng vâng không nói ra của tình yêu. Sông Hương qua những từ tượng hình đã hiện ra thật rõ nét, sống động.


Khi rời khỏi kinh thành Huế, sông Hương lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và của những vùng cao ở ngoại ô Vĩ Dạ nhớ lại một điều gì chưa kịp nói nó đột ngột rẽ dòng sang hướng Đông Tây để gặp thành Huế ở thị trấn Bao Vinh xưa cổ. Tác giả dùng biện pháp nhân hóa để nội tâm hóa dáng hình của dòng sông. Cuộc chia tay của sông Hương với Huế giống cuộc chia ly của đôi tình nhân với bao vương vấn và cả một chút lẳng lơ, kín đáo của tình yêu. Nhà văn cũng phát huy sức liên tưởng để thấy sự dùng dằng của sông Hương như nàng Kiều chí tình trở lại tìm Kim Trọng để nói một lời thề trước khi về biển cả.


Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm một cuộc hành trình từ thượng nguồn về phía hạ lưu của sông Hương để thấy sông Hương đã vượt qua một cuộc hành trình với sự chuyển dòng liên tục. Ông đã thổi hồn mình vào sông Hương để khám phá vóc dáng và tính cách của dòng sông thuộc về thành phố duy nhất này.


Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng đã nhìn sông Hương từ góc độ lịch sử. Sông Hương không chỉ là một cô gái Digan man dại. Không chỉ là người đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa mà dòng nước sông Hương còn chở trên mình bao biến động thời gian, bao vui buồn nhân thế, bao thăng trầm của thời đại. Sông Hương là chứng nhân của những biến thiên lịch sử, là dòng sông của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc. Nhà văn ví sông Hương viết giữa màu cỏ lá xanh biếc là để nhấn mạnh sự hòa quyện giữa chất hùng tráng và chất trữ tình. Sông Hương là một bản trường ca và cũng là một bản tình ca. Từng nhánh rẽ của dòng sông đến những cây đa, cây dừa cổ thụ cũng hàm ẩn một phần lịch sử. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã ngược về quá khứ để thấy vai trò của sông Hương trong lịch sử dân tộc. Từ thời đại các vua Hùng, sông Hương là dòng sông biên thùy xa xôi, trong những thế kỉ trung đại với tên gọi Linh Giang nó đã oanh liệt bảo vệ biên giới phía Nam của Tổ quốc Đại Việt. Sông Hương gắn liền với chiến công của Nguyễn Huệ, sông Hương đẫm máu trong những cuộc khởi nghĩa thế kỉ XX, sông Hương cũng gắn liền với cách mạng tháng Tám. Sông Hương cùng những di sản văn hóa Huế đã oằn mình dưới sự tàn phá của Mĩ trong mùa xuân lịch sử Mậu Thân. Tác giả đã so sánh với các trung tâm văn hóa khác để thấy sông Hương bị hủy diệt một cách đau đớn. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thấy sông Hương tự hiến đời mình là một chiến công, từng giữ những nhiệm vụ lịch sử vinh quang, lịch sử dân tộc đã ghi bằng nét son. Tên của thành phố Huế, của sông Hương đã cống hiến xứng đáng cho Tổ quốc. Không thể nói hết niềm tự hào, kiêu hãnh về một dòng sông có cái tên mềm mại, dịu dàng “sông Hương”.


Bằng tất cả sự tinh tế của mình Hoàng Phủ Ngọc Tường còn thấy sông Hương hàm chứa trong nó nền văn hóa phi vật thể. Sông Hương chính là dòng sông âm nhạc. Từ âm thanh của dòng sông: tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga lên mặt nước, tiếng mái chèo khua giữa đêm khuya, tiếng nước vỗ vào mạn thuyền … đã làm nên những điệu hò dân gian và nền âm nhạc cổ điển Huế. Giữa đời thường, sông Hương là một bản tình ca. Những câu hò xứ Huế vút lên luyến láy bồi hồi xao động: “con nước còn nước còn về còn nhớ”. Hoàng Phủ Ngọc Tường còn nghe vọng về từ trong sâu thẳm những câu hò của Ưng Bình


Thúc Dạ Thị của con người cố đô:
Chiều chiều trước bến Phu Văn Lâu
Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm?
Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông?
Thuyền ai thấp thoáng bên sông?
Đưa câu mái đẩy chạnh lòng nước non.


Nếu như các nghệ sĩ khác nhìn sự lặng tờ của sông Hương mà nghĩ tới tâm trạng dùng dằng mong chờ của con người thì Hoàng Phủ Ngọc Tường lại có những liên tưởng riêng, độc đáo. Tác giả thấy dòng nước chùng chình giống như người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya. Nghe nhạc Huế mà nghe ban ngày thật là vô duyên bởi nhạc Huế có linh hồn riêng, cốt cách riêng mà hay nhất là được nghe trên sông Hương, giữa mênh mang của sóng nước, giữa tĩnh lặng của màn đêm. Từng lời ca tiếng nhạc thấm sâu vào lòng người để lại những dư vị không nguôi. Trong trí tưởng tượng của Hoàng Phủ Ngọc Tường thì Nguyễn Du đã có những đêm xuôi thuyền trên sông Hương. Ngắm nhìn phiến trăng sầu treo lơ lửng giữa trời trên sông nước êm đềm. Rồi lắng nghe những điệu nhạc dìu dặt từ khoang thuyền để rồi âm hưởng của dòng nhạc cổ điển và những điệu hò dân gian đã ít nhiều để lại dấu vết trong truyện Kiều, trong tiếng đàn ai oán nỉ non, lúc gió thoảng mưa sầu, lúc trong, lúc đục của Kiều, phải chăng có tiếng của âm nhạc cổ điển Huế. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã hóa thân vào một nghệ nhân già. Nghe những câu thơ tả tiếng đàn Thúy Kiều chợt nhận ra âm hưởng của nhạc cung đình và bật thốt lên đó chính là Tứ Đại Cảnh.


Sông Hương còn là dòng sông thơ. Con sông ấy không bao giờ lặp lại chính mình trong cảm hứng thi ca của những người nghệ si. Mỗi người nghệ sĩ có cách nhìn, cách cảm riêng về sông Hương. Sông Hương thay hình đổi dạng trong những trang thơ. Bằng những kiến thức phong phú với lối viết đầy chất thơ, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thức dậy một dòng sông, đã gợi cảm hứng sáng tạo cho bao người nghệ sĩ xưa và nay. Đó là những vần thơ biếc xanh của Tản Đà về Huế:Dòng sông trắng, lá cây xanh. Trên văn bản của Hoàng Phủ Ngọc Tường câu thơ của Tản Đà tựa một nét chấm phá gợi cảm khiến dòng sông Hương càng trở nên thơ mộng giữa màu cỏ lá xanh biếc và “dòng sông trắng lá cây xanh” có sự tương giao đồng điệu của những tâm hồn nghệ sĩ nhạy cảm với sắc biếc của thiên nhiên. Đó là một dòng sông Hương như kiếm dựng trời xanh, hùng tráng bất tử trong câu thơ của Cao Bá Quát. Đó là sự tương quan tinh tế giữa sông Hương và không gian xứ Huế trong thơ của Bà huyện Thanh Quan. Nào ai quên được nỗi quan hoài vạn cổ với bóng chiều bảng lảng. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đặt sông Hương cạnh những trang Kiều của Nguyễn Du và thực bất ngờ ông lại gợi dòng Hương giang nước trong veo với những phận Kiều đã được Tố Hữu đề cập đầy chất nhân đạo trong những trang thơ từ ấy. Trong giây phút xuất thần thi sĩ Bùi Giáng, người con của Huế đã viết nên những câu thơ để đời:


Dạ thưa xứ Huế bây giờ
Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương


Rõ ràng sông Hương là đặc ân của trời đất dành cho Huế, đó là dòng sông huyền thoại, dòng sông thi ca, dòng sông văn hóa. Nhiều người yêu say đắm sông Hương, say đắm những trang văn trang thơ, những tình khúc viết về xứ Huế, sông Hương.


Hoàng Phủ Ngọc Tường khi viết về sông Hương đã thể hiện những nét đặc trưng của thể kí, phản ánh sự thật khách quan và tính xác thực. Đọc Ai đã đặt tên cho dòng sông? Ngỡ như Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nhập hồn vào Huế. Với xứ Huế dường như nhà văn hiểu sâu sắc từng cảnh cây ngọn cỏ, tường tận từng tên đất tên làng. Am hiểu sâu sắc về văn hóa Huế, nền âm nhạc cổ điển hay những trang thơ viết về sông Hương. Với sông Hương ông thuộc từng khúc cong, từng dòng nước, chỗ ghềnh thác cuộn xoáy chỗ phẳng lặng như một mặt hồ yên tĩnh. Ông đến với Huế, với phong thái của một người du lãng, với phong cách của một người nghiên cứu. Bằng những con chữ lóng lánh tài hoa, ông đã góp phần làm nổi rõ bản sắc của dòng sông cũng như thiên nhiên và con người xứ Huế.


Ai đã đặt tên cho dòng sông? là những trang bút kí chứa lượng thông tin phong phú, chính xác, cung cấp cho chúng ta những hiểu biết sâu sắc về dòng sông Hương cũng như con người và văn hóa Huế. Tuy nhiên Hoàng Phủ Ngọc Tường còn đem đến những trang bút kí đậm dấu ấn của tùy bút ở đó, tác giả tùy theo ngọn bút đưa đi từ sự việc này đến sự việc kia. Từ liên tưởng này đến liên tưởng khác để bộc lộ những cảm xúc, những suy nghĩ của mình. Đọc Ai đã đặt tên cho dòng sông ta thấy rõ chất thơ. Chất thơ trong bút kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường thoát ra từ thiên nhiên cảnh vật, từ tâm hồn con người và từ những huyền thoại mà nhà văn đặt đúng chỗ. Chất thơ thoát ra từ hình ảnh đẹp, từ độ nhòe mờ của hình tượng nghệ thuật, chẳng thể quên được những xóm làng trung du “bát ngát tiếng gà” hay “lập lòe trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ”. Chất thơ của thiên kí được tác giả điểm xuyết qua ca dao, lời thơ của Tản Đà, Cao Bá Quát hay âm hưởng hoài cổ của thơ bà huyện Thanh Quan hay nhan đề bài ký gợi mãi những âm thanh trầm lắng của dòng sông. Lúc nào cũng trăn trở trước câu hỏi “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”


Quả thật kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường vừa giàu chất trí tuệ, vừa giàu chất thơ, nội dung thông tin phong phú. Đây cũng là nét phong cách được định hình của nhà văn tạo nên nét riêng độc đáo. Nhận định trong SGK đã cho ta một định hướng trong việc cảm nhận và lĩnh hội tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường là cuộc đi tìm cội nguồn. Một sự phát hiện bề dày văn hóa, lịch sử của các hình tượng đời sống. Ở đó luôn luôn có sự gặp gỡ giữa những người yêu nước với một nghệ sĩ có kiến thức uyên bác. Ông biết khám phá bình diện văn hóa với một tư liệu lịch sử phong phú và một tâm hồn Huế nồng nàn.


Cảm nhận về sông Hương, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã bộc lộ một cái tôi tài hoa, uyên bác. Raxun Zamatop đã từng nói rằng nếu nhà thơ không tham gia vào việc hoàn thành thế giới thì thế giới đã không được đẹp đẽ như thế này. Bằng những trang viết tài hoa, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã góp phần tạo một thế giới sông Hương đẹp và thơ. Hành trình của sông Hương từ thượng nguồn ra biển chính là hành trình của đời người , hành trình của tâm hồn xứ Huế, của nền văn hóa Huế.

Hình minh họa
Hình minh họa
Hình minh họa
Hình minh họa

.

H.P.N.T là một trong những cây bút kí tiêu biểu của VHVN hiện đại. Với thể loại kí, H.P.N.T thể hiện trên từng trang văn vốn kiến thức uyên bác và cách viết tài hoa.


“Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách kí của H.P.N.T. Tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp của sông Hương, thiên nhiên và con người xứ Huế với những trang văn “vừa giàu chất trí tuệ, vừa giàu chất thơ, nội dung thông tin về văn hóa lịch sử rất phong phú”



“Ai đã đặt tên cho dòng sông?” rút từ tập bút kí cùng tên, được xuất bản năm 1984. Tập bút kí gồm tám bài viết về nhiều đề tài. Có những bài đậm chất sử thi với cảm hứng anh hùng, ca ngợi đất nước, con người VN. Có những bài thiên về miêu tả thiên nhiên, qua đó nhà văn bộc lộ lòng gắn bó với quê hương đất nước và niềm tự hào về truyền thống, văn hóa, lịch sử của dân tộc. Đặc biệt là những bài viết về Huế.


Trong số những bút kí đó, “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là bài kí độc đáo về sông Hương. Dòng sông khơi gợi cảm hứng cho thơ ca, nhạc họa đã được H.P.N.T cảm nhận từ nhiều góc nhìn, đặc biệt là góc nhìn tâm linh, mang những nét riêng của “văn hóa Phú Xuân”


Chất trí tuệ của một cái tôi uyên bác: Viết về sông Hương, H.P.N.T thể hiện một sự hiểu biết sâu rộng về mọi mặt: văn hóa, lịch sử, địa lí, văn học nghệ thuật… Nhà văn đã cung cấp cho người đọc một lượng thông tin đa dạng để hiểu sâu hơn về dòng sông Hương và thiên nhiên, con người Huế.


Hành trình của dòng sông: với câu hỏi gợi tìm “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”, bằng những bước chân rong ruổi, H.P.N.T đã tìm về cội nguồn và dòng chảy của sông Hương. Ở thượng nguồn sông Hương mang vẻ đẹp hùng vĩ: chảy “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, cuộn xoáy như con lốc vào những đáy vực bí ẩn…”; “phóng khoáng và man dại”


Ra khỏi đại ngàn, sông Hương chuyển dòng, giấu kín cuộc hành trình gian truân giữa lòng Trường Sơn, “ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng” -> Vẻ đẹp dữ dội, hùng vĩ của sông Hương giữa rừng già ít ai biết đến.

Chảy qua vùng rừng núi, sông Hương trở nên dịu dàng, “uốn mình theo những đường cong thật mềm”. “Dòng sông mềm như tấm lụa”, êm đềm trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, chảy qua những lăng tẩm đồ sộ, chảy qua chùa Thiên Mụ và “những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà” -> Sông Hương trở thành “người mẹ phù sa” mang vẻ đẹp “dịu dàng và trí tuệ”


Giữa lòng thành phố Huế, dòng sông trở nên tĩnh lặng, trôi thật chậm, in bóng cầu Tràng Tiền xa trông nhỏ nhắn như “những vành trăng non”


Xuôi về Cồn Hến “quanh năm mơ màng trong sương khói”, hòa với màu xanh của thôn Vĩ Dạ, sông Hương mang vẻ đẹp huyền ảo, mơ màng. Và thật bất ngờ, trước khi rời khỏi kinh thành Huế, sông Hương “đột ngột rẽ dòng… để gặp lại thành phố lần cuối”. Nhà văn dùng biện pháp nhân hóa để nội tâm hóa hình dáng của dòng sông: “Đó là nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu” -> Biện pháp nhân hóa đã giúp tác giả thổi hồn vào dòng sông và hơn thế nữa là một phương thức để nhà văn kết nối sông Hương với con người và văn hóa của mảnh đất Châu Hóa xưa và Huế ngày nay.

Sông Hương và thiên nhiên Huế: Lần theo dòng chảy của sông Hương, ta bắt gặp những bức tranh thiên nhiên đẹp mượt mà:


Thiên nhiên Huế được nhà văn tái hiện với vẻ đẹp đa dạng trong thời gian và không gian. Sông Hương phản quang vẻ đẹp biến ảo của Huế “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Gắn liền với dòng sông, những địa danh quen thuộc: Hòn Chén, Nguyệt Biều, Vọng Cảnh, Thiên Thai dường như sống động hơn: “sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn”, “sắc nước trở nên xanh thẳm”…-> Sông Hương tôn tạo vẻ đẹp cho cảnh sắc thiên nhiên Huế và ngược lại dòng sông cũng hun đúc mọi sắc trời, văn hóa của vùng đất cố đô.


Thiên nhiên và dòng sông luôn gắn bó, gần gũi với con người. Qua điệu chảy của dòng sông nhà văn thấy được tính cách con người xứ Huế: mềm mại, chí tình, “mãi mãi chung tình với quê hương xứ xở”


Qua màu sắc của trời Huế, màu sương khói trên sông Hương nhà văn thấy cách trang phục trang nhã, dịu dàng của các cô gái Huế xưa “sắc áo cưới màu điều - lục các cô dâu trẻ vẫn mặc sau tiết sương giáng”


Từ góc nhìn lịch sử, sông Hương không còn là cô gái “Di - gan man dại”, không còn là “người đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa” mà trở thành chứng nhân của những biến thiên lịch sử. Nhà văn ví sông Hương như “sử thi viết giữa màu xanh cỏ lá xanh biếc” -> Sự hòa quyện giữa chất hùng tráng và trữ tình. Sông Hương là một bản anh hùng ca, đồng thời giữa đời thường sông Hương là một bản tình ca “Còn non, còn nước, còn dài - Còn về, còn nhớ…”


H.P.N.T đã nhìn thấy từ dòng sông những dấu tích lịch sử; từng nhánh rẽ của dòng sông, đến “những cây đa, cây cừa cổ thụ” cũng hàm ẩn một phần lịch sử:


Nhà văn đã ngược về quá khứ để khẳng định vai trò của dòng sông Hương trong lịch sử dân tộc. Từ thời đại các Vua Hùng, sông Hương là “dòng sông biên thùy xa xôi”. Trong những thế kỉ trung đại, với tên gọi Linh Giang, nó đã “oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của Tổ quốc Đại Việt”. Sông Hương gắn liền với những chiến công Nguyễn Huệ. Sông Hương đẫm máu những cuộc khởi nghĩa TK XIX. Sông Hương gắn liền với cuộc CMT8 với những chiến công rung chuyển. Và sông Hương cùng những di sản văn hóa Huế oằn mình dưới sự tàn phá của bom Mỹ… -> Chất trữ tình của tùy bút giảm đi, nhường chỗ cho chất phóng sự với những sự kiện lịch sử cụ thể.


Quay về quá khứ xa xưa, ngòi bút nhà văn lấp lánh niềm tự hào về lịch sử một dòng sông có cái tên mềm mại, dịu dàng nhưng kiên cường, kiêu hãnh qua thăng trầm lịch sử.


Trong cảm nhận tinh tế của nhà văn, sông Hương còn hàm chứa trong bản thân nó nền văn hóa phi vật chất


Từ âm thanh của dòng sông (tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga, tiếng mái chèo khua sóng đêm khuya, tiếng nước vỗ vào mạn thuyền…) đã hình thành những làn điệu hò dân gian và nền âm nhạc cổ điển Huế. Và rồi cũng chính trên dòng sông ấy, những câu hò Huế vút lên, mênh mang, xao xuyến…


Viết về sông Hương, nhiều lần nhà văn đã liên tưởng đến “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. Đại thi hào đã từng có thời gian sống ở Huế, những trang Kiều ra đời từ mảnh đất có truyền thống nhã nhạc cung đình. Đó là cơ sở để H.P.N.T hóa thân vào một nghệ nhân già, nghe những câu thơ tả tiếng đàn của nàng Kiều, chợt nhận ra âm hưởng của âm nhạc cung đình và bật thốt lên: “Đó chính là Tứ đại cảnh” -> Bóng dáng Nguyễn Du và những trang Kiều nhiều lần xuất hiện trong bài kí bộc lộ một khả năng liên tưởng phong phú, một vốn văn hóa sâu rộng và sự gắn kết với truyền thống, một sự đồng điệu tâm hồn nhà văn.


H.P.N.T đã làm sống dậy những vần thơ biếc xanh của Tản Đà về xứ Huế: “Dòng sông trắng - Lá cây xanh”. Hình ảnh thơ này cùng với câu chữ của tác giả “màu cỏ lá xanh biếc” là minh chứng cho sự tương giao của những tâm hồn nghệ sĩ nhạy cảm với sắc biếc của thiên nhiên Huế.


Nhà văn cũng làm sống dậy một sông Hương hùng tráng bất tử “như kiếm dựng trời xanh” trong thơ Cao Bá Quát, một sông Hương “nỗi quan hoài vạn cổ” trong thơ Bà Huyện Thanh Quan…


Bằng vốn kiến văn phong phú, H.P.N.T đã lay động linh hồn của con sông mà tên gọi của nó đã đi vào văn chương nghệ thuật mà theo tác giả “Dòng sông ấy không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ”


Chất thơ toát ra từ những hình ảnh đẹp, từ độ nhòe mờ của hình tượng nghệ thuật: “những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”, “lập lòe trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ…” ; qua cách so sánh liên tưởng gợi cảm: “Chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời nhỏ nhắn như những vầng trăng non”


Chất thơ còn lấp lánh ở cách H.P.N.T điểm xuyết ca dao, lời thơ Tản Đà, Cao Bá Quát, Bà Huyện Thanh Quan.


Chất thơ còn tỏa ra từ nhan đề bài kí gợi mãi những âm vang trầm lắng của dòng sông : “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”

Chất trí tuệ và chất thơ kết hợp hài hòa trong tác phẩm của H.P.N.T tạo nên phong cách đặc sắc của “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” không chỉ là một trong những tác phẩm hay nhất viết về sông Hương mà còn là bút kí đặc sắc vào bậc nhất của VHVN hiện đại.

Hình minh họa
Hình minh họa
Hình minh họa
Hình minh họa

Bình luận

Có Thể Bạn Quan Tâm ?