Ngoài vai trò là một danh sĩ với nhiều hoạt động cách mạng sôi nổi thì Phan Bội Châu còn được biết đến là một nhà văn, nhà thơ lớn trong nửa đầu thế kỷ 20, đóng góp một phần không nhỏ vào nền văn học của nước nhà. Có thể nói rằng Phan Bội Châu được xem là người ươm những mầm mống đầu tiên cho nền văn học mang khuynh hướng trữ tình chính trị của Việt Nam lúc bấy giờ. Bài thơ Lưu biệt khi xuất dương là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho tinh thần nhiệt huyết, tráng chí rộng lớn và cao đẹp của người chí sĩ yêu nước, trước buổi lên đường sang nước bạn học tập, với niềm hy vọng, niềm tin mãnh liệt về một tương lai tươi sáng của đất nước. Dưới đây là những bài văn phân tích hình tượng người chí sĩ trong "Lưu biệt khi xuất dương" hay nhất mà Toplist đã sưu tầm và tổng hợp.
Bài tham khảo số 5
Trong nền văn học Việt Nam có những nhà thơ còn là những nhà chính trị tài ba, những anh hùng cứu nước. Nếu như chúng ta biết đến Hồ Chí Minh, một người không bao giờ tự xưng là nhà thơ nhà văn nhưng trong quá trình hoạt động cách mạng lại những vần thơ hay, Tố Hữu cũng là một nhà thơ đồng thời là một chiến sĩ đấu tranh cách mạng thì ta cũng không thể nào không nhắc đến Phan Bội Châu. Ông là một nhà cách mạng hết lòng vì sự nghiệp đất nước. Cũng giống như Hồ Chí Minh thì Phan Bội Châu cũng có những sáng tác văn học nhất định. Trong số những sáng tác của ông phải kể đến bài thơ Xuất dương lưu biệt.
Bài thơ này được sáng tác vào cuối thế kỉ XIX, phong trào Cần Vương thất bại, thực dân Pháp chiếm toàn phần Đông Dương. Tình hình chính trị của đất nước vô cùng hỗn loạn. Năm 1905 sau khi thành lập hội Duy Tân, hội đã chủ trương cho Phan Bội Châu ra nước ngoài hoạt động cách mạng. Trong bữa cơm chia tay anh em đồng chí để lên đường Phan Bội châu đã làm bài thơ này để thay lời chia tay họ. Bài thơ thể hiện rất rõ ý chí làm trai và ý chí của một người cách mạng.
Hai câu thơ đầu thể hiện rất rõ chí làm trai của Phan Bội Châu nói riêng và của thời phong kiến nói chung:
“Sinh vi nam tử yếu hy kỳ,
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di.”
(Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời)
Nói đến chí làm trai hẳn ai trong chúng ta cũng từng biết đến những quan niệm về chí làm trai của Nguyễn Công Trứ và Phạm Ngũ Lão:
“Chí làm trai nam bắc tây đông
Cho phỉ chí anh hùng trong bốn bể”
Hay:
“Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe thuyết Vũ hầu”
Và đến Phan Bội Châu lại tiếp tục nêu lên chí làm trai thời phong kiến. Thế nhưng trước sự ảnh hưởng cái mới của thời đại mình nhà thơ đã kế thừa những quan niệm xưa của cha ông và nêu lên những cái mới trong quan niệm chí làm trai của mình. Làm trai thì phải làm những việc lạ nghĩa là làm những việc hiển hách phi thường. Dám làm những việc kinh thiên động địa xoay chuyển đất trời chứ không thể ngồi im để mặc cho đất trời xoay chuyển mình được. Phải chăng đó chính là khát vọng sống mãnh liệt của chàng trai đầy nhiệt huyết với cuộc đời. Cảm hứng ấy gần gũi với những triết lý nhân sinh của nho giáo nhưng cũng đồng thời mang nét táo bạo mới mẻ hơn. Con người chúng ta luôn phải chiều theo sự xoay chuyển của trời đất những tác giả ở đây lại không thể để cho càn khôn tự chuyển dời được. Chính vì thế mà nhà thơ thể hiện được lý tưởng sống của một con người khỏe khoắn ngang tàng.
Hai câu thực nhà thơ tiếp tục đi vào làm rõ chí làm trai của mình. Càng nói ra càng thấy Phan Bội Châu quả là một vị anh hùng tài năng và đầy khí phách:
“Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở há không ai?”
Thời gian khoảng trăm năm là một đời con người, tác giả khẳng định trong khoảng trăm năm ấy cần có tác giả. Một đời người hay chính là hiện tại ấy phải cần có một anh hùng với chí làm trai mạnh mẽ táo bạo của nhà thơ. Ở đây ta thấy xuất hiện cái tôi cá nhân riêng biệt. Nhưng ở cái tôi ấy ta cảm nhận được cái tôi nhỏ bé, ý thức cá nhân với tư cách là một công dân với tinh thần trách nhiệm với đất nước mình. Đó tuyệt nhiên không phải cái tôi ngạo nghễ ngông nghênh. Cái tôi ấy được nhà thơ xưng là “tớ” thể hiện sự gần gũi. Trong trăm năm ấy một bậc đại trượng phu sống không phải để hưởng hết những lạc thú của cuộc đời mà để cống hiến tài trí của mình cho đất nước. Hiện tại có nhà thơ thì sau này chẳng nhẽ lại không có ai là anh hùng thật sự. Nói như thế nhà thơ như khẳng định những bậc anh hùng hào kiệt nước ta đời nào cũng có. Tác giả cũng thể hiện được sự tự hào về bản thân mình. Câu thơ có hình thức là một câu nghi vấn song thực chất nó có tác dụng làm tăng cấp độ ý chí muốn làm những việc lớn để cống hiến hết mình tổ quốc thân yêu.
Không những thế chí làm trai còn gắn liền với vận mệnh đất nước, sự vinh nhục được thể hiện rất rõ:
“Non sông đã mất, sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài”
Non sông đã mất thể hiện cảnh tượng nước nhà rơi vào tay giặc, tất cả nhân dân phải chịu ách thống trị nô lệ của giặc, hàng ngày họ phải sống trong cảnh áp bức bóc lột. Đối với một bậc trượng phu khi phải sống trong cảnh nước mắt ấy thì coi như đã chết rồi. Chính vì thế mà ông đưa ra ý tưởng bỏ sách thánh hiền. Đó là một ý tưởng táo bạo nhưng lại mang sự tiến bộ. Đối với nhà thơ thì tình cảnh đất nước như thế không còn học đạo vua tôi, đạo sơ chung. Bởi vì theo nhà thơ sách thánh hiền khi ấy chẳng giúp ích gì được cho cảnh nước mất nhà tan, nếu cứ khư khư ôm giữ thì chỉ là ngu mà thôi. Tuy nhiên không phải nhà thơ phủ nhân hết những lợi ích của sách thánh hiền, nếu nói như thế chẳng khác nào ông cha ta ngu khi đọc sách đó. Mà điều tác giả muốn khẳng định là khi ấy đọc sách thánh hiền không có tác dung và không phù hợp với hoàn cảnh đất nước.
Từ những ý niệm về chí làm trai khi sống là một bậc trượng phu trên cuộc đời, cùng với những diễn biến phức tạp của lịch sử Phan Bội Châu thể hiện nguyện vọng và mong muốn của mình:
“Muốn vượt bể Đông theo cánh gió
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.”
Hình ảnh ấy “bể đông theo cánh gió” và “muôn trùng sóng bạc” là hai hình ảnh mang tính chất hào hoa lãng mạn thể hiện được khát khao cao đẹp mãnh liệt của nhà thơ. Phan Bội châu muốn vượt lên thực tại đen tối của đất nước để quyết tâm lên đường làm nghiệp lớn bảo vệ cho đất nước cũng chính là bảo vệ cho sự sống còn và vinh nhục của chí làm trai. Nhà thơ muốn vượt bể Đông để theo cánh gió, cái cánh gió ấy sẽ đưa ông đến những mảnh đất văn minh ở đó ông sẽ học tập và đem những gì mình học được về cứu đất nước. Muôn trùng sóng bạc như đưa chân người anh hùng đi làm chí lớn.
Tóm lại cả bài thơ là một quan niệm chí làm trai của Phan Bội Châu. Đối với ông chí làm trai ấy phải làm được những điều hiển hách được ghi tên trong bảng vàng lưu danh muôn đời. Vận mệnh của chí làm trai gắn liền với vận mệnh của đất nước. Với giọng điệu hào hùng trang nghiêm, cách sử dụng từ ngữ hấp dẫn lôi cuốn bài thơ hiện lên như một bài ca hào hùng về chí làm trai. Nó dường như tiếp sức cho Phan Bội Châu đi trên con đường cứu nước.
Bài tham khảo số 7
Phan Bội Châu nhà yêu nước, anh hùng giải phóng dân tộc nổi tiếng trong lịch sử hiện đại Việt Nam, Phan Bội Châu chính là người khởi xướng các phong trào giải phóng Tổ quốc trong những năm đầu thế kỉ XX như Hội Duy Tân, phong trào Đông du, Việt Nam Quang Phục Hội. Tên tuổi của ông cũng nổi tiếng với nhiều bài thơ, cuốn sách, bài văn tế…Phan Bội Châu luôn mang trong mình lý tưởng, khát vọng giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước dân chủ tiến bộ.
“Lưu biệt khi xuất dương” được viết bằng chữ Hán, thể thất ngôn bát cú Đường luật, bài thơ thể hiện vẻ đẹp lãng mạn, hào hùng trong đầu thế kỉ XX: Táo bạo, nhiệt huyết lý tưởng giải phóng dân tộc luôn dâng cao. Ông đã cho người đọc thấy được không khí cách mạng sục sôi giai đoạn đầu thế kỉ XX của những con người yêu nước và tiến bộ của nước nhà.
Mở đầu bài thơ như là một tuyên ngôn lí tưởng:
“Sinh vi nam tử yếu hi kì,
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di.”
Làm trai trong trời đất không thể sống tầm thường, không được sống thụ động cho trời đất “tự chuyển dời”. Câu thơ mở đầu đã thể hiện tư thế, ý chí nam nhi, tài năng của người cách mạng mong muốn làm nên sự nghiệp lớn, xoay chuyển trời đất.
Tiếp tục bài thơ tác giả khẳng định:
Ư bách niên trung tu hữu ngã,
Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy.
Tác giả đã khẳng định mạnh mẽ và đầy khí phách về sức mạnh con người trước càn khôn. Sự đề cao cái Tôi của nhà thơ chính là khẳng định trách nhiệm của người thanh niên yêu nước đối với vận mệnh dân tộc. Câu thơ cũng làm cho nhiều người tỉnh ngộ và khơi gợi sự tinh thần đấu tranh. Tác giả Phan Bội Châu như muốn ra sức kêu gọi sự tranh đấu của những con người yêu nước.
Những đoạn thơ đầu tiên tác giả đã khẳng định chí nam nhi, đoạn sau nói về trách nhiệm của nam nhi:
Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế,
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si
Khi đất nước đang bị xâm lăng, non sông đã chết, ta sống chỉ thêm sự nhục nhã, đau đớn. Trong hoàn cảnh nước mất nhà tan, người học có vùi mài kinh sử cũng trở nên vô nghĩa. Vào thời điểm đó, ý muốn ra đi tìm đường cứu nước là lí tưởng của thời đại. Câu thơ trên không có ý chê bai việc học mà chỉ có ý khuyên con người ta phải sống với thời cuộc trước mắt. Câu thơ trên còn thể hiện nỗi đau của tác giả khi mà đất nước suy tàn, dân chúng lầm than, đạo đức xã hội xuống cấp đã khiến con người có trách nhiệm với dân tộc nhìn thấy mà lòng quặn đau.
Đoạn kết của bài thơ Lưu biệt khi xuất dương đã thể hiện quyết tâm, ý chí , hi vọng lớn của tác giả trên con đường mình đã chọn:
Nguyện trục trường phong Đông hải khứ,
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi.
Giọng thơ sục sôi, tràn đầy hi vọng và quyết tâm đi đến nước Nhật để tìm con đường cứu nước. Hình ảnh kết thúc bài thơ vô cùng mạnh mẽ, hào hùng, đó là sự khí phách của con người bắt kịp với thời đại mới. Với hi vọng về ngày mai tươi sáng hơn.
Bài thơ giọng điệu hào hùng, từ ngữ hấp dẫn là một bài ca hào hùng về chí làm trai nguyện dấn thân mình vào sự nghiệp cứu nước của dân tộc. Bài thơ mãi là tấm gương mà người đời luôn noi theo.
Bài tham khảo số 3
Phan Bội Châu vị lãnh tụ của phong trào yêu nước đầu thế kỉ XX. Mặc dù mang trong mình tâm huyết lớn lao song sự nghiệp của ông lại không thành, nhưng lòng yêu nước nồng nàn, cháy bỏng của ông vẫn lưu mãi muôn đời. Ông dùng thơ văn của mình như một thứ vũ khí đắc lực để cổ vũ, tuyên truyền cách mạng. Xuất dương khi lưu biệt là một trong những bài thơ như vậy.
Có thể nói rằng Phan Bội Châu được xem là người ươm những mầm mống đầu tiên cho nền văn học mang khuynh hướng trữ tình chính trị của Việt Nam lúc bấy giờ. Bài thơ Lưu biệt khi xuất dương là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho tinh thần nhiệt huyết, tráng chí rộng lớn và cao đẹp của người chí sĩ yêu nước, trước buổi lên đường sang nước bạn học tập, với niềm hy vọng, niềm tin mãnh liệt về một tương lai tươi sáng của đất nước.
Lưu biệt khi xuất dương được Phan Bội Châu sáng tác vào năm 1905, trước khi lên đường sang Nhật để từ giã bạn bè đồng chí, bài thơ vừa mang ý nghĩa cổ vũ, động viên tinh thần người ra đi, cũng vừa thôi thúc, củng cố niềm tin và tinh thần của những người ở lại về một tương lai tốt đẹp của dân tộc, với con đường cứu nước mới mẻ, nhiều hứa hẹn, mặc dù Phan Bội Châu mới chỉ bắt đầu những bước đi đầu tiên. Hình tượng người chí sĩ yêu nước hiện lên trước tiên là ở quan điểm của danh sĩ về chí làm trai trong thời đại mới, trong hoàn cảnh đất nước có nhiều biến động, thù trong giặc ngoài.
"Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời"
Như vậy đọc cả hai câu thơ thì ý thơ về chí làm trai tựu chung lại ở một chữ "lạ", còn những chữ khác chỉ nhằm bổ nghĩa cho cái "lạ" ấy. Phan Bội Châu quan niệm rằng, đã là nam nhi, sức dài vai rộng, thì sống ở trên đời phải có những hoài bão, lý tưởng cao đẹp, vượt lên những cái tầm thường như cơm, áo, gạo, tiền, có bản lĩnh mưu đồ việc lớn, làm những cái mà không ai dám làm, với lòng kiên định và niềm tin vững chắc. Đặc biệt người nam nhi phải tự đưa bản thân mình ra khỏi chốn yên bình, hạn hẹp, "ao tù nước đọng", phải vượt qua được những mối lo ngại được, mất mà vươn mình ra biển lớn, mưu đồ những việc phi thường hiển hách cho xứng với hai chữ nam nhi. Mà như Xuân Diệu từng có một câu thơ rất hay "Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt/Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm", thì người nam nhi cũng vậy, cuộc đời ngắn ngủi 60 năm, ít nhất phải có một lần được vụt sáng, vĩ đại, còn nếu cam chịu cuộc đời bình lặng, đằng đẵng thì quả là uổng phí. Để củng cố và bổ sung cho quan điểm chí nam nhi của mình Phan Bội Châu đã làm rõ ý bằng câu thơ tiếp "Há để càn khôn tự chuyển dời". Rằng nam nhi chí tại bốn phương, phải nắm giữ và làm chủ vận mệnh của mình, chớ để mặc trời đất, tạo hóa kiến sinh, buông trôi vận mệnh như chiếc lá xuôi theo dòng nước không biết sẽ lạc lõng về đâu. Ý thơ chính là sự khích lệ của Phan Bội Châu dành cho những thanh niên trẻ tuổi, phải dám đặt ngang tầm vóc của bản thân với trời đất, với tạo hóa, giành lấy thế chủ động quyết định vận mệnh của mình, thậm chí là thay đổi càn khôn bằng một khẩu khí vô cùng mạnh mẽ, tự tin và táo bạo. Quan niệm về chí làm trai của Phan Bội Châu không phải chỉ mới xuất hiện trong thơ ông, mà nó đã từng ẩn hiện trong ca dao và thơ ca của nhiều những danh sĩ khác, tuy không hoàn toàn giống nhưng cũng có những điểm tương đồng về khẩu khí và tính chất. Ví như trong Chí làm trai của Nguyễn Công Trứ có câu
"Chí làm trai nam bắc đông tây
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể",
Hay trong ca dao Việt Nam cũng có nhiều câu rất hay
"Làm trai cho đáng nên trai
Xuống Đông Đông tĩnh, lên Đoài Đoài yên"
Hay:
"Làm trai cho đáng nên trai
Phú Xuân cũng trải Đồng Nai cũng từng".
"Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở há không ai"
Sau hai câu đề quan niệm chung về chí nam nhi, thì đến 2 câu thực, Phan Bội Châu tiếp tục đưa ra quan điểm về vai trò và trách nhiệm của đấng nam nhi trước thời cuộc, đó là phận sự với đất nước, đặc biệt là trong giai đoạn đất nước có nhiều biến động thì người nam nhi lại càng phải đứng ra thể hiện rõ ràng vai trò, chí khí của mình để phụng sự cho Tổ quốc. Hình tượng người chí sĩ hiện lên với khoảng thời gian "trăm năm", một là để chỉ đời người, sau là chỉ một thế kỷ nhiêu biến động của đất nước. Người chí sĩ nhận thức rõ ràng và nhấn mạnh trách nhiệm của bản thân, phải đứng lên đấu tranh cho lý tưởng, trở thành người có trọng trách vai trò to lớn, phục hưng đất nước. Làm sao cho xứng với sự sắp đặt của tạo hóa, trời đã đem đến cho ta một kỷ nguyên đầy chông gai, thì thân là nam nhi phải xác định rằng đất nước đang cần và bản thân chính là rường cột nước nhà. Ngoài ra người chí sĩ còn hiện lên không chỉ là sự tự nhận thức mà còn hiện lên với tầm nhìn xa trông rộng, lo nghĩ cho mai sau, cho con đường cứu quốc bằng việc lay động thức tỉnh thế hệ thanh niên tiếp nối, cổ vũ họ bằng chính tráng chí, lý tưởng của một nhà cách mạng tiên tiến. Câu hỏi "Sau này muôn thuở há không ai?, là hỏi tất cả thế hệ thanh Việt Nam bấy giờ và các thế hệ mai sau, kéo những con người đang chìm trong vũng lầy của sự bế tắc ra khỏi cảnh bất lực trước thời cuộc. Đồng thời khích lệ tinh thần yêu nước, lý tưởng sống, tráng chí tung hoành bốn bể cho xứng với phận nam nhi, hướng họ đến một nhận thức mới, một niềm tin niềm hy vọng mới, khơi dậy trong tâm hồn họ sự tự tin, quyết đoán của bậc đại trượng phu.
"Non sông đã chết sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài"
Ở hai câu luận, bậc chí sĩ lại hiện lên với những nhận thức về số phận đất nước, dân tộc và cả nền Nho học vốn tùng huy hoàng nhưng nay chỉ còn là quá khứ. Phan Bội Châu viết "Non sông đã chết", cái chết ở đây là cái chết của chủ quyền dân tộc, đất nước bị giày xéo bởi lũ giặc ngang tàn. Trong khi ấy những kẻ vốn được coi là đầu não là xương sống, kinh mạch của một đất nước lại hèn nhát, sợ hãi, chỉ biết lo đến cái vinh hoa phú quý phù phiếm của bản thân mà quên đi vận mệnh dân tộc, chấp nhận sống đê hèn, nhục nhã dưới kiếp thuộc địa, để con dân phải lầm lũi thở than. Một đất nước mất quyền tự chủ, một dân tộc không có người lãnh đạo có phải đã "chết" rồi hay không, chẳng khác nào một cái vỏ rỗng tuếch, những giá trị truyền thống, văn hóa của dân tộc đã bị đàn áp dưới chế độ thực dân. Như vậy việc mất nước, chính là nỗi nhục nhã của cả một dân tộc, đặc biệt là trong tư tưởng truyền thống thì đối với mỗi một kẻ đọc sách thánh hiền, một đấng nam nhi nỗi nhục ấy còn đau đớn và dằn vặt hơn gấp bội lần. "Hiền thánh còn còn đâu đọc cũng hoài", một danh sĩ xuất thân Nho học, nhận được sự giáo dục truyền thống từ thuở còn tấm bé, việc phủ nhận và ý thức rõ ràng về một nền Nho học lỗi thời, lạc hậu, có tiếng nhưng không có miếng, không còn phù hợp trong bối cảnh thời đại mới chính là nỗi đau đớn khó có thể chấp nhận. Việc tự nhận thức ấy, chẳng khác nào bảo một người luyện võ tự phế đi công lực của mình và phải bắt đầu lại với hai bàn tay trắng. Thế nhưng ta có thể nhận thấy rằng dẫu rằng có xót xa, nhưng người chí sĩ không hề nản chí, mà giọng thơ rất mạnh mẽ, quyết liệt sẵn sàng từ bỏ thứ vô dụng, để tiến tới một chân trời mới với tư thế hiên ngang mạnh mẽ, tâm hồn tự do và phóng khoáng.
"Muốn vượt bể Đông theo cánh gió
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi"
Sau cùng hình ảnh người chí sĩ hiện lên với hình ảnh người vượt biển đi tìm một chân trời mới, thực hiện lý tưởng cao đẹp của mình, cống hiến và phụng sự cho Tổ quốc với một tầm vóc vĩ đại, sánh ngang trời đất. Không gian rộng lớn, khoáng đạt được gợi ra từ những hình ảnh kỹ vĩ của thiên nhiên từ "bể Đông" rồi "muôn trùng sóng bạc", điều ấy thể hiện những khát vọng hành động mạnh mẽ của người chí sĩ yêu nước. Từng đợt sóng vừa thể hiện tráng chí sục sôi trong trái tim yêu nước, vừa thể hiện những khó khăn trùng trùng phía trước, ngoài ra cụm từ "tiễn ra khơi" còn thể hiện sự ủng hộ của thiên nhiên với quyết định và lý tưởng đúng đắn của người anh hùng dân tộc. Người chí sĩ yêu nước đứng trước thiên nhiên rộng lớn, đứng trước thời cuộc đầy biến động, vẫn giữ cho mình tráng chí ngất trời, phong thái tự tin, kiêu hãnh ra đi tìm con đường mới cho Tổ quốc và dân tộc, đó thực sự là một hình ảnh đẹp đẽ vô cùng.
Lưu biệt khi xuất dương là một sáng tác mang khuynh hướng trữ tình chính trị đời đầu, nổi bật với hình ảnh người chí sĩ cách mạng với vẻ đẹp kiêu hùng, tầm vóc sánh ngang với trời đất, phong thái, tự tin, quyết liệt dựa trên cơ sở một lý tưởng và tráng chí cao đẹp - phụng sự và cống hiến cho Tổ quốc, cứu quốc bằng con đường mới mẻ. Bài thơ đã khắc họa rõ nét một tâm hồn nhiệt huyết, sôi sục ý chí chiến đấu của người chí sĩ nhưng không quá cứng nhắc, mà vẫn đủ nhưng phong thái lãng mạn, bay bổng của người anh hùng khao khát tự do và sống vì lý tưởng cao đẹp.
Bài tham khảo số 4
Phan Bội Châu được coi là một trong số những anh hùng kiệt xuất có tầm ảnh hưởng lớn đối với cách mạng Việt Nam trong những năm đầu của thế kỉ XX. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình ông chưa một lần được hưởng niềm vui chiến thắng nhưng tình yêu đất nước, khát vọng hòa bình và ý chí đấu tranh của ông luôn là ngọn lửa tiếp thêm nhiệt huyết, đam mê cho nhiều thế hệ sau này. Mà trước hết, thơ ca là mặt trận để ông bộc lộ điều ấy. Lưu biệt khi xuất dương là một bài thơ như thế. Ra đời vào thời điểm, nhà thơ chuẩn bị lên đường sang Nhật để thực hiện chí lớn, tác phẩm đã thể hiện niềm khát khao mãnh liệt, mong chờ một sự nghiệp kinh bang tế thế thay đổi vận mệnh cho nước nhà:
Làm trai phải lạ ở trên đời
…
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi
Bài thơ mở đầu bằng một quan niệm rất quen thuộc của Nho giáo: chí làm trai.
Làm trai phải lạ ở trên đời,
Há để càn khôn tự chuyển dời.
Nếu đặt trong mạch nguồn của thơ ca trung đại, việc đề cập đến lý tưởng xã hội này là điều rất dễ thấy. Danh tướng đời Trần Phạm Ngũ Lão và sau này là bậc nho sĩ tài tử Nguyễn Công Trứ đã từng đề cập.
Công danh nam tử còn vương nợ,
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu
(Tỏ lòng - Phạm Ngũ Lão)
Đã mang tiếng ở trong trời đất,
Phải có danh gì với núi sông.
(Đi thi tự vịnh - Nguyễn Công Trứ)
Cái chí của đấng nam nhi ở đây là công, là danh. Họ trông vào đó mà tìm kiếm sự nghiệp, khẳng định bản thân mình trước cuộc đời, trước mọi người. Nhưng cách thể hiện của Phan tiên sinh trong bài thơ này lại gây một ấn tượng mạnh. Cái chí của kẻ làm trai lại trở nên kì vĩ, lớn lao. Bởi nó được đặt trong một không gian đặc biệt, đó là vũ trụ. Nếu nhìn từ không gian ấy, bậc nam nhi sẽ còn có nhiều khao khát hơn là công và danh. Chữ lạ trong bản dịch thơ tuy hay nhưng chưa làm toát lên được ý nghĩa từ chữ kì trong văn bản gốc. Làm trai phải lạ cần được hiểu là làm được những việc kì lạ, kiệt xuất, phi thường. Muốn làm được điều ấy, người quân tử phải được đặt trong một không gian không thể là trên đời được, mà phải là càn khôn. Vì “đời” tưởng rộng mà hóa ra lại hẹp, mới chỉ là thế giới loài người, còn “càn khôn” là vũ trụ bao la. Cho nên cái hay trong hai câu đề là không gian ấy đến câu thứ hai mới xuất hiện, nó làm tôn lên hình ảnh một bậc nam nhi đại trượng phu, hào kiệt dõng dạc hô vang ở câu đầu rằng phải lạ. Có nghĩa là đấng nam tử đâu chỉ trông chờ, thụ động, phó mặc cho tạo hóa xoay vần, mà phải chủ động, dấn thân thay đổi cả càn khôn, trời đất, cải tạo cả vũ trụ, giang sơn. Mạnh mẽ hơn là phải biết sống hiển hách, dám mưu đồ những việc lớn, kinh thiên động địa, đất nước lâm nguy thì ra tay cứu nước, thay đổi lịch sử. Cảm hứng sử thi, lãng mạn đã nâng tầm chí làm trai lên một diện mạo mới. Đặt trong bối cảnh ra đời bài thơ, hình ảnh đấng nam nhi mang tầm vóc vũ trụ ấy đã mở đầu cho một khúc khải hoàn ca đầy hùng tráng, phi thường về ý chí và tinh thần yêu nước.
Hai câu đề đã mở ra không gian rộng lớn, đến hai câu thực lại mang tới độ tối đa trong thời gian của đời người:
Trong khoảng trăm năm cần có tớ,
Sau này muôn thuở, há không ai?
Trong quan niệm chung về đấng nam nhi ở trên, Phan Bội Châu đã nêu lên được ý thức cá nhân đầy khảng khái của bản thân mình. Đến hai câu này, ý thức cá nhân ấy càng rõ hơn. Có thể hiểu trong khoảng một trăm năm này, không thể thiếu được ta. Ta phải trở thành nhân vật lịch sử, ta có sứ mệnh xoay chuyển càn khôn để thay đổi cả bộ mặt lịch sử của thế kỉ này. Ta bỗng vút lên giữa cái vô cùng vô tận của không gian và thời gian như thế, bảo sao lại không tráng lệ, lộng lẫy. Chữ tớ dịch khá thú vị, vừa có chút dí dỏm vừa vẫn khẳng định cái tôi đầy mạnh mẽ. Ý thức cá nhân được vươn cao, vươn rộng theo không gian và còn vươn dài theo cả thời gian nâng tầm nhận thức cao cả về sứ mệnh của con người trước lịch sử. Cái tôi như thế thật là vừa lãng mạn vừa kiêu hùng!
Xoay chuyển càn khôn, làm chủ lịch sử tưởng chừng như đã quá to tát, ấy vậy mà cái phải lạ của bậc anh hào còn khiến người ta bất ngờ hơn:
Non sông đã chết, sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài.
Trong bối cảnh của sự chuyển giao thời đại, dẫu có mới mẻ đến đâu cũng vẫn phải có sự thay đổi dần dần. Nhưng nhận thức của Phan tiên sinh lại khiến người ta thấy thật phi thường. Đúng non sông đã chết là cách nhân hóa rất chân thực cho hiện tại của nước nhà. Kẻ thù ngoại bang chiếm lấy chủ quyền thì coi như đất nước đã chết. Câu thơ uất nghẹn trước thực trạng đau thương của dân tộc. Nhưng cái mạnh mẽ của đấng nam nhi trước Tổ quốc như thế buộc phải nhận ra sống chỉ thêm nhục. Vì thế cái cần nhất, cái lý tưởng nhất của một thời hiền thánh giờ cũng chẳng còn ý nghĩa, có đọc sách cũng ngu thôi. Vậy là hai thứ quan trọng ấy mà còn tiếp tục sống, tiếp tục học thì chẳng khác nào đã để tự mình phó mặc cho số phận, để càn khôn nó tự chuyển dời, để tiếp tục sống một trăm năm đầy vô nghĩa. Có lẽ vậy mà, cuộc đời Phan Sào Nam tuy sống trọn vẹn trong cảnh đất nước lầm than, trải qua bao lần thất bại đau đớn nhưng ông vẫn cống hiến đầy hiển hách, vinh quang. Hai câu thơ đã chứng tỏ một sự chuyển mình của thời đại, nếu nói không quá lên, thật là vĩ đại. Nhận ra lẽ vinh nhục trong cảnh đất nước ấy là thường tình, nhưng dám chối bỏ, phủ định cả một nền học thức của một kẻ vốn xuất thân từ cửa Khổng, sân Trình như cụ Phan, thì đó là một điều rất phi thường.
Vậy không thể sống như thế với thực tại, muốn mưu đồ việc xoay chuyển càn khôn phải tiến đến hành động. Và hành động ấy chỉ có thể là xuất dương.
Muốn vượt bể đông theo cánh gió,
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.
Hai câu kết thật đẹp! Hình ảnh miêu tả có phần ước lệ tượng trưng tạo nên một cảnh tượng biển trời, gió bão, sóng bạc thật hùng vĩ. Nó làm toát lên cái hùng tâm tráng trí của kẻ sĩ yêu nước cháy bỏng mà ở câu thơ cuối: thiên trùng bạch lãng nhất tề phi, bản dịch chưa làm toát lên được. Đúng hơn là biển mênh mông, gió bát ngát, sóng bạc muôn trùng và ý chí, khát vọng của con người cùng nhau hòa quện làm một mà nhất tề phi (cùng bay lên). Tâm thế ra đi cũng rộng lớn, tráng lệ như biển trời vậy. Có cái hào sảng, quyết tâm, mạnh mẽ, nhiệt huyết khi lên đường. Người ở lại – bạn bè bằng hữu, chắc chắn cảm nhận được khát vọng, lý tưởng trong hành động kiệt xuất của con người kiệt xuất ấy.
Bài thơ khép lại trong một niềm hân hoan, hứng khởi trào dâng mãnh liệt của nhà chí sĩ cách mạng trong buổi ra đi tìm đường cứu nước. Sự kết hợp đầy mới mẻ giữa cách thể hiện đậm chất thơ văn trung đại với những tư tưởng nội dung đậm hơi thở của nhịp sống đương thời đã hình tượng hóa một cách lãng mạn và hào hùng của người chí sĩ yêu nước những năm đầu thế kỉ XX. Giọng thơ nhiệt huyết, lay động này đã tiếp thêm sức mạnh, đã thổi bùng khát khao cho biết bao kẻ sĩ thời ấy có mong muốn thực hiện chí lớn vì sự nghiệp dân tộc của mình.
Bài tham khảo số 1
Phan Bội Châu (1867-1940), quê ở huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, xuất thân trong một gia đình Nho học, từ nhỏ ông đã thể hiện tài năng hơn và học vấn hơn người. Sau khi trưởng thành, với tinh thần yêu nước lòng tự tôn dân tộc sâu sắc, ý thức được việc nước mất nhà tan Phan Bội Châu đã hăng hái tham gia vào các phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp. Tuy nhiên do tính chất nhỏ lẻ và chưa có đường lối đúng đắn nên hầu hết các cuộc khởi nghĩa theo kiểu cũ đều thất bại, lúc này đây Phan Bội Châu người đầu tiên đã nung nấu trong mình ý tưởng cứu nước theo con đường tư sản - con đường mà Nhật Bản đã đi rất thành công, từ đó thành lập ra hội Duy Tân, phát động phong trào Đông Du, của thanh niên ưu tú sang nước bạn học tập. Ngoài vai trò là một danh sĩ với nhiều hoạt động cách mạng sôi nổi thì Phan Bội Châu còn được biết đến là một nhà văn, nhà thơ lớn trong nửa đầu thế kỷ 20, đóng góp một phần không nhỏ vào nền văn học của nước nhà. Có thể nói rằng Phan Bội Châu được xem là người ươm những mầm mống đầu tiên cho nền văn học mang khuynh hướng trữ tình chính trị của Việt Nam lúc bấy giờ. Bài thơ Lưu biệt khi xuất dương là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho tinh thần nhiệt huyết, tráng chí rộng lớn và cao đẹp của người chí sĩ yêu nước, trước buổi lên đường sang nước bạn học tập, với niềm hy vọng, niềm tin mãnh liệt về một tương lai tươi sáng của đất nước.
Lưu biệt khi xuất dương được Phan Bội Châu sáng tác vào năm 1905, trước khi lên đường sang Nhật để từ giã bạn bè đồng chí, bài thơ vừa mang ý nghĩa cổ vũ, động viên tinh thần người ra đi, cũng vừa thôi thúc, củng cố niềm tin và tinh thần của những người ở lại về một tương lai tốt đẹp của dân tộc, với con đường cứu nước mới mẻ, nhiều hứa hẹn, mặc dù Phan Bội Châu mới chỉ bắt đầu những bước đi đầu tiên. Hình tượng người chí sĩ yêu nước hiện lên trước tiên là ở quan điểm của danh sĩ về chí làm trai trong thời đại mới, trong hoàn cảnh đất nước có nhiều biến động, thù trong giặc ngoài.
"Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời"
Như vậy đọc cả hai câu thơ thì ý thơ về chí làm trai tựu chung lại ở một chữ "lạ", còn những chữ khác chỉ nhằm bổ nghĩa cho cái "lạ" ấy. Phan Bội Châu quan niệm rằng, đã là nam nhi, sức dài vai rộng, thì sống ở trên đời phải có những hoài bão, lý tưởng cao đẹp, vượt lên những cái tầm thường như cơm, áo, gạo, tiền, có bản lĩnh mưu đồ việc lớn, làm những cái mà không ai dám làm, với lòng kiên định và niềm tin vững chắc. Đặc biệt người nam nhi phải tự đưa bản thân mình ra khỏi chốn yên bình, hạn hẹp, "ao tù nước đọng", phải vượt qua được những mối lo ngại được, mất mà vươn mình ra biển lớn, mưu đồ những việc phi thường hiển hách cho xứng với hai chữ nam nhi. Mà như Xuân Diệu từng có một câu thơ rất hay "Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt/Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm", thì người nam nhi cũng vậy, cuộc đời ngắn ngủi 60 năm, ít nhất phải có một lần được vụt sáng, vĩ đại, còn nếu cam chịu cuộc đời bình lặng, đằng đẵng thì quả là uổng phí. Để củng cố và bổ sung cho quan điểm chí nam nhi của mình Phan Bội Châu đã làm rõ ý bằng câu thơ tiếp "Há để càn khôn tự chuyển dời". Rằng nam nhi chí tại bốn phương, phải nắm giữ và làm chủ vận mệnh của mình, chớ để mặc trời đất, tạo hóa kiến sinh, buông trôi vận mệnh như chiếc lá xuôi theo dòng nước không biết sẽ lạc lõng về đâu. Ý thơ chính là sự khích lệ của Phan Bội Châu dành cho những thanh niên trẻ tuổi, phải dám đặt ngang tầm vóc của bản thân với trời đất, với tạo hóa, giành lấy thế chủ động quyết định vận mệnh của mình, thậm chí là thay đổi càn khôn bằng một khẩu khí vô cùng mạnh mẽ, tự tin và táo bạo. Quan niệm về chí làm trai của Phan Bội Châu không phải chỉ mới xuất hiện trong thơ ông, mà nó đã từng ẩn hiện trong ca dao và thơ ca của nhiều những danh sĩ khác, tuy không hoàn toàn giống nhưng cũng có những điểm tương đồng về khẩu khí và tính chất. Ví như trong Chí làm trai của Nguyễn Công Trứ có câu:
"Chí làm trai nam bắc đông tây
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể",
Hay trong ca dao Việt Nam cũng có nhiều câu rất hay:
"Làm trai cho đáng nên trai
Xuống Đông Đông tĩnh, lên Đoài Đoài yên"
Hay:
"Làm trai cho đáng nên trai
Phú Xuân cũng trải Đồng Nai cũng từng".
"Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở há không ai"
Sau hai câu đề quan niệm chung về chí nam nhi, thì đến 2 câu thực, Phan Bội Châu tiếp tục đưa ra quan điểm về vai trò và trách nhiệm của đấng nam nhi trước thời cuộc, đó là phận sự với đất nước, đặc biệt là trong giai đoạn đất nước có nhiều biến động thì người nam nhi lại càng phải đứng ra thể hiện rõ ràng vai trò, chí khí của mình để phụng sự cho Tổ quốc. Hình tượng người chí sĩ hiện lên với khoảng thời gian "trăm năm", một là để chỉ đời người, sau là chỉ một thế kỷ nhiêu biến động của đất nước. Người chí sĩ nhận thức rõ ràng và nhấn mạnh trách nhiệm của bản thân, phải đứng lên đấu tranh cho lý tưởng, trở thành người có trọng trách vai trò to lớn, phục hưng đất nước. Làm sao cho xứng với sự sắp đặt của tạo hóa, trời đã đem đến cho ta một kỷ nguyên đầy chông gai, thì thân là nam nhi phải xác định rằng đất nước đang cần và bản thân chính là rường cột nước nhà. Ngoài ra người chí sĩ còn hiện lên không chỉ là sự tự nhận thức mà còn hiện lên với tầm nhìn xa trông rộng, lo nghĩ cho mai sau, cho con đường cứu quốc bằng việc lay động thức tỉnh thế hệ thanh niên tiếp nối, cổ vũ họ bằng chính tráng chí, lý tưởng của một nhà cách mạng tiên tiến. Câu hỏi "Sau này muôn thuở há không ai?, là hỏi tất cả thế hệ thanh Việt Nam bấy giờ và các thế hệ mai sau, kéo những con người đang chìm trong vũng lầy của sự bế tắc ra khỏi cảnh bất lực trước thời cuộc. Đồng thời khích lệ tinh thần yêu nước, lý tưởng sống, tráng chí tung hoành bốn bể cho xứng với phận nam nhi, hướng họ đến một nhận thức mới, một niềm tin niềm hy vọng mới, khơi dậy trong tâm hồn họ sự tự tin, quyết đoán của bậc đại trượng phu.
"Non sông đã chết sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài"
Ở hai câu luận, bậc chí sĩ lại hiện lên với những nhận thức về số phận đất nước, dân tộc và cả nền Nho học vốn tùng huy hoàng nhưng nay chỉ còn là quá khứ. Phan Bội Châu viết "Non sông đã chết", cái chết ở đây là cái chết của chủ quyền dân tộc, đất nước bị giày xéo bởi lũ giặc ngang tàn. Trong khi ấy những kẻ vốn được coi là đầu não là xương sống, kinh mạch của một đất nước lại hèn nhát, sợ hãi, chỉ biết lo đến cái vinh hoa phú quý phù phiếm của bản thân mà quên đi vận mệnh dân tộc, chấp nhận sống đê hèn, nhục nhã dưới kiếp thuộc địa, để con dân phải lầm lũi thở than. Một đất nước mất quyền tự chủ, một dân tộc không có người lãnh đạo có phải đã "chết" rồi hay không, chẳng khác nào một cái vỏ rỗng tuếch, những giá trị truyền thống, văn hóa của dân tộc đã bị đàn áp dưới chế độ thực dân. Như vậy việc mất nước, chính là nỗi nhục nhã của cả một dân tộc, đặc biệt là trong tư tưởng truyền thống thì đối với mỗi một kẻ đọc sách thánh hiền, một đấng nam nhi nỗi nhục ấy còn đau đớn và dằn vặt hơn gấp bội lần. "Hiền thánh còn còn đâu đọc cũng hoài", một danh sĩ xuất thân Nho học, nhận được sự giáo dục truyền thống từ thuở còn tấm bé, việc phủ nhận và ý thức rõ ràng về một nền Nho học lỗi thời, lạc hậu, có tiếng nhưng không có miếng, không còn phù hợp trong bối cảnh thời đại mới chính là nỗi đau đớn khó có thể chấp nhận. Việc tự nhận thức ấy, chẳng khác nào bảo một người luyện võ tự phế đi công lực của mình và phải bắt đầu lại với hai bàn tay trắng. Thế nhưng ta có thể nhận thấy rằng dẫu rằng có xót xa, nhưng người chí sĩ không hề nản chí, mà giọng thơ rất mạnh mẽ, quyết liệt sẵn sàng từ bỏ thứ vô dụng, để tiến tới một chân trời mới với tư thế hiên ngang mạnh mẽ, tâm hồn tự do và phóng khoáng.
"Muốn vượt bể Đông theo cánh gió
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi"
Sau cùng hình ảnh người chí sĩ hiện lên với hình ảnh người vượt biển đi tìm một chân trời mới, thực hiện lý tưởng cao đẹp của mình, cống hiến và phụng sự cho Tổ quốc với một tầm vóc vĩ đại, sánh ngang trời đất. Không gian rộng lớn, khoáng đạt được gợi ra từ những hình ảnh kỹ vĩ của thiên nhiên từ "bể Đông" rồi "muôn trùng sóng bạc", điều ấy thể hiện những khát vọng hành động mạnh mẽ của người chí sĩ yêu nước. Từng đợt sóng vừa thể hiện tráng chí sục sôi trong trái tim yêu nước, vừa thể hiện những khó khăn trùng trùng phía trước, ngoài ra cụm từ "tiễn ra khơi" còn thể hiện sự ủng hộ của thiên nhiên với quyết định và lý tưởng đúng đắn của người anh hùng dân tộc. Người chí sĩ yêu nước đứng trước thiên nhiên rộng lớn, đứng trước thời cuộc đầy biến động, vẫn giữ cho mình tráng chí ngất trời, phong thái tự tin, kiêu hãnh ra đi tìm con đường mới cho Tổ quốc và dân tộc, đó thực sự là một hình ảnh đẹp đẽ vô cùng.
Lưu biệt khi xuất dương là một sáng tác mang khuynh hướng trữ tình chính trị đời đầu, nổi bật với hình ảnh người chí sĩ cách mạng với vẻ đẹp kiêu hùng, tầm vóc sánh ngang với trời đất, phong thái, tự tin, quyết liệt dựa trên cơ sở một lý tưởng và tráng chí cao đẹp - phụng sự và cống hiến cho Tổ quốc, cứu quốc bằng con đường mới mẻ. Bài thơ đã khắc họa rõ nét một tâm hồn nhiệt huyết, sôi sục ý chí chiến đấu của người chí sĩ nhưng không quá cứng nhắc, mà vẫn đủ nhưng phong thái lãng mạn, bay bổng của người anh hùng khao khát tự do và sống vì lý tưởng cao đẹp.
Bài tham khảo số 6
Phan Bội Châu (1867-1940), ôi cái tên đẹp một thời. “Chúng ta có thể nói rằng trong lịch sử giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, trước Chủ tịch Hồ Chí Minh, Phan Bội Châu là một nhân vật vĩ đại” (Tôn Quang Phiệt). Phan Bội Châu là linh hồn của các phong trào vận động giải phóng Tổ quốc khoảng 25 năm đầu thế kỉ XX. Tên tuổi ông gắn liền với các tổ chức yêu nước như Hội Duy Tân, phong trào Đông du, Việt Nam Quang Phục Hội. Tên tuổi Phan Bội Châu gắn liền với hàng trăm bài thơ, hàng chục cuốn sách, một số bài văn tế và vài ba vở tuồng chứa chan tình yêu nước. "Phan Bội Châu câu thơ dậy sóng" (Tố Hữu).
Năm 1900, Phan Bội Châu đậu giải nguyên khoa thi Hương trường Nghệ Năm 1904 ông sáng lập ra Hội Duy Tân, một tổ chức yêu nước. Năm 1905 ông dấy lên phong trào Đông du. Theo chủ trương của Duy Tân hội do chính ông sáng lập, ông bắt đầu sang Nhật để tìm đường cứu nước. Bài thơ “Xuất dương lưu biệt” ông làm tặng các đồng chí trong buổi đầu lên đường. Có thể nói bài thơ này như một mốc son chói lọi trong sư nghiệp giải phóng dân tộc của nhà chí sĩ Phan Bội Châu.
“Xuất dương lưu biệt” được viết bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, là khúc ca biểu lộ tư thế, quyết tâm hăm hở, và những ý nghĩ cao cả mới mẻ của chí sĩ Phan Bội Châu trong buổi đầu xuất dương cứu nước.
Hai câu để là một tuyên ngôn về chí hướng, về lẽ sống cao cả:
“Sinh vi nam tử yếu hi kì
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di”
Tự hào mình là đấng nam nhi thì phải sống cho ra sống, mong muốn làm nên “điều lạ” (yêu hi kì). Suy rộng ra, là không thể sống tầm thường. Không thể sống một cách thụ động cho trời đất (càn khôn) “tự chuyển dời” một cách vô vị, nhạt nhẽo. Câu thơ thể hiện một tư thế, một tâm thế đẹp về chí nam nhi, tự tin ở mức độ, tài năng của mình muốn làm nên sự nghiệp to lớn, xoay chuyển trời đất, như ông đã nói rõ trong một bài thơ khác:
“Dang tay ôm chặt bồ kinh tế,
Mở miệng cười tan cuộc oán thù”.
Gắn câu thơ với sự nghiệp cách mạnh vô cùng sôi nổi của Phan Bội Châu, ta mới cảm nhận được cái khẩu khí anh hùng của nhà chí sĩ vĩ đại. Đấng nam nhi muốn làm nên “điều lạ” ở trên đời, từng nung nấu và tâm niệm theo một vần thơ cổ:
“Mỗi phạn bất vong duy trúc bạch,
Lập thân tối hạ thị văn chương”
(“Tùy viên thi thoại" - Viên Mai)
Đấng nam nhi muốn làm nên “điều lạ” ở trên đời ấy có một “bầu máu nóng" sôi sục: “Tôi được trời phú cho bầu máu nóng cũng không đến nỗi ít, lúc còn bé đọc sách của cha tôi, mỗi khi đèn những chỗ nói người xưa chịu thuế để thành đạo nhân, nước mắt lại đầm đìa nhỏ xuống ướt đẫm cả giấy...” (Ngục trung thư).
Phần thực, ý thơ được mở rộng, tác giả tự khẳng định vai trò của mình trong xã hội và trong lịch sử:
“Ư bách niên trung tu hữu ngã
Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy”
“Ngã” là ta: “tu hữu ngã” nghĩa là phải có ta trong cuộc đời “một trăm năm ” (bách niên trung). Câu thơ khẳng định, biểu lộ niềm tự hào lớn lao của kẻ sĩ trong cảnh nước mất nhà tan. “Thiên tải hậu” nghìn năm sau, là lịch sử của đất nước và dân tộc há lại không có ai (để lại tên tuổi) ư? Hai câu 3, 4 đối nhau, lấy cái phủ định để làm nổi bật điều khẳng định. Đó là một ý thơ sâu sắc thể hiện vai trò cá nhân trong lịch sử: sẵn sàng gánh vác mọi trách nhiệm mà lịch sử giao phó. Ý tưởng đẹp đẽ này là sự kế thừa những tư tưởng vĩ đại của các vĩ nhân trong lịch sử:
"... Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng”.
("Hịch tướng sĩ' - Trần Quốc Tuấn)
"... Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh”.
(Văn Thiên Tường)
Lấy cái hữu hạn “bách niên” của một đời người đối với cái vô hạn “thiên tải" của lịch sử dân tộc. Phan Bội Châu đã tạo nên một giọng thơ đĩnh đạc, hào hùng, biểu lộ một quyết tâm và khát vọng trong buổi lên đường. Vì thế, trên bước đường cách mạng giải phóng dân tộc, trải qua muôn vàn thử thách và nguy hiểm, ông vẫn bất khuất, lạc quan.
Bài tham khảo số 2
Thế kỉ XX, đặc biệt là những năm đầu, đất nước, nhân dân ta đã ghi nhận nhiều gương mặt các nhà cách mạng, nhà chí sĩ yêu nước lỗi lạc như Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng,… và không thể không kể đến Phan Bội Châu. Đóng góp to lớn của ông đối với thời đại khó mà kể hết được, trước hết là tinh thần yêu nước. Đã nhiều lần ông gửi gắm điều ấy trong các sáng tác sục sôi ý chí căm hờn, thúc giục thế hệ trẻ phải đứng lên đấu tranh bảo vệ Tổ quốc. Một trong số đó, có Lưu biệt khi xuất dương đã khắc họa thành công hình ảnh người chí sĩ yêu nước lúc lên đường thực hiện ước mơ lớn:
Làm trai phải lạ ở trên đời…Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi
Thật chẳng khó nhận ra, những năm đầu của thế kỉ XX tinh thần yêu nước đã lớn mạnh như thế nào, trước hết xuất phát từ những bậc nho sĩ. Thất bại của phong trào Cần Vương, hay câu chuyện “Bình Tây phục quốc” không thành… đất nước vẫn rơi vào tay giặc là hiện thực buồn bã của dân tộc. Nhưng sức mạnh của truyền thống yêu nước cả ngàn năm dội về, cùng với những “tân thư” mới mẻ của thời đại, đã tạo ra những phong trào: Duy tân, Đông Du, Đông kinh nghĩa thục… làm thức tỉnh cả một lớp nhà nho nhiệt huyết. Họ đã hành động theo tiếng gọi của lịch sử: kẻ cắt phăng búi tóc trên đầu mà đoạn tuyệt với lối học cử tử để đi tìm lí tưởng mới, kẻ tạm biệt gia đình, người thân, quê hương đi Tàu, đi Xiêm, đi Nhật để hướng về một chân trời mới đầy hi vọng và ước mơ. "Tất cả chí hướng của thế hệ trí thức yêu nước đã nhằm vào một mục tiêu vĩ đại: "khôi phục nước nhà" (Đặng Thai Mai). Phan Bội Châu cũng mưu đồ sự nghiệp ấy tới đất nước Nhật Bản. Chưa bàn con đường ấy đúng sai, nhưng ông đã tạo nên một luồng sinh khí mạnh mẽ thổi bùng khát vọng đấu tranh của dân tộc trong một thời gian dài. Lưu biệt khi xuất dương ra đời trong bối cảnh như thế. Khúc trang ca khi lên đường này ông viết để giã từ bạn bè, đồng chí nhưng đã khắc họa đầy chân thực và lãng mạn hình ảnh người chí sĩ yêu nước trong lúc ra đi.
Chân dung bậc nho sĩ ái quốc hiện lên trong dáng vẻ phi thường thách thức cả không gian và thời gian:
Làm trai phải lạ ở trên đời
…
Sau này muôn thuở há không ai?
Người chí sĩ đó vẫn mang theo khát vọng chí làm trai thuở trước, nhưng khát vọng ấy thật oai hùng, phi thường của một bậc vĩ nhân. Có hai vấn đề, mà không phải là sự nghiệp “công danh” thông thường đấng nam nhi hay nghĩ tới, đó là phải lạ giữa càn khôn và phải cần có tớ trong khoảng trăm năm này. Phan Bội Châu lựa chọn không gian và thời gian đặc biệt để cái chí của kẻ làm trai được thỏa sức tung hoành. Cái lạ là phải làm nên được những điều kì diệu, phi thường không phải ở đời mà phải giữa càn khôn. Suốt một trăm năm đời người không thể sống hoài, sống phí mà phải trở thành nhân vật lịch sử lớn lao. Ý thức cá nhân, bản ngã lịch sử đẩy tâm tư của người chí sĩ thoát khỏi những suy nghĩ thông thường mà khát vọng mưu đồ việc lớn, xoay chuyển càn khôn, cụ thể là đất nước lâm nguy thì cần phải ra tay cứu nước. Tớ cần phải xoay vần vũ trụ, phải làm điều kinh thiên động địa trong thế kỉ này. Ở Phan tiên sinh, cái tôi yêu nước đầy chủ động, không trông chờ, không hô hào mà trở thành lý tưởng hành động.
Bởi vậy cái phải lạ không phải là một lời nói suông, mà trở thành hành động thực sự:
Non sông đã chết sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài.
Người chí sĩ yêu nước như nhân vật trữ tình trong bài thơ này thật khiến người ta thán phục. Cái tráng lệ trong tinh thần không chỉ toát ra từ ý thức cá nhân đầy mạnh mẽ mà ở cả nhận thức đã hoàn toàn chuyển mình. Nhiều nhà nho thời ấy đều biết sự nhục nhã khi phải sống trong cảnh ngoại bang xâm lăng, sự vô nghĩa khi giá trị của nền học vấn cũ giờ đây đã không còn phù hợp. Nhưng để viết nó ra một cách đầy khảng khái, khí chất chỉ có Phan Bội Châu. Cách ông hình tượng hóa hiện thực đất nước rất chân thực: non sông đã chết. Nó không đơn thuần còn là lẽ sống vinh nhục, mà là nỗi đau của nước mất nhà tan. Từ đó không chỉ riêng ông mà biết bao người chí sĩ đã từng là “sản phẩm” của một nền Hán học uy nghi, vững chãi cả ngàn năm, đã từng xuất thân từ chốn cửa Khổng sân Trình cũng đau đớn nhận ra, cái hiền thánh năm xưa đã không còn. Nếu ở trên, hình ảnh người chí sĩ yêu nước thật ngang tàng, thách thức, có phần bướng bỉnh trước vũ trụ, cuộc đời, thì đến đây còn trở nên quật cường, quyết liệt hơn trong nhận thức. Còn sống là còn nhục, còn học là còn ngu. Táo bạo, dứt khoát, người chí sĩ ấy không né tránh mà đối diện với hiện thực thật oai hùng. Bởi vậy điều lạ trong con người của nhân vật trữ tình đã đánh dấu một bước ngoặt trong tư duy yêu nước của thời đại.
Muốn làm điều kinh thiên động địa, muốn làm cho đất nước thoát cảnh lầm than, muốn thay đổi con đường cứu nước cho dân tộc, người chí sĩ đã vượt xa hơn lời nói mà trở thành hành động cụ thể, đó là: xuất dương.
Muốn vượt bể đông theo cánh sóng
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.
Hai câu thơ cuối hình ảnh người chí sĩ lên đường thật phi thường, oai hùng mà lãng mạn. Cái nhất thể giữa tự nhiên và con người, giữa ngoại cảnh và ý chí đã đẩy bức chân dung nhân vật lịch sử năm ấy như một bức tượng đài sừng sững, nguy nga. Vẫn là không gian rộng lớn của biển khơi, vẫn là cái mạnh mẽ của muôn trùng sóng bạc nhưng lại hòa cùng nhau mà đẩy khát vọng, hoài bão của người chí sĩ vút cao. Ba chữ nhất tề phi bản dịch đã không nhắc tới, khiến sắc thái, tinh thần của kẻ sĩ lên đường chưa thể lột tả hết được. Cảnh tượng cuối bài thơ đã cho thấy một bầu nhiệt huyết sục sôi, lý tưởng lớn lao của bậc sĩ phu yêu nước khi lên đường. Điều đó đã tạo nên một khúc khải hoàn ca thật tráng lệ, hào hùng để mang theo bao hi vọng, bao niềm tin, bao ước mơ về một tương lai tươi sáng của dân tộc.
Tinh thần yêu nước của nhà chí sĩ cách mạng Phan Bội Châu không phải tự nhiên có sức ảnh hưởng to lớn đến thời đại mà ông sống đến vậy. Bởi tinh thần đó đã khai sáng biết bao nhiêu kẻ sĩ còn mò mẫm trên hành trình phục sinh Tổ quốc. Dẫu Phan tiên sinh sau này vẫn chưa thành công được trong sự nghiệp kinh bang tế thế, nhưng lòng yêu nước và sức mạnh quả cảm của tấm lòng ấy mãi mãi trở thành ngọn lửa sáng rực cả bầu trời Cách mạng những năm nửa đầu thế kỉ XX.
Lưu biệt khi xuất dương bởi vậy không còn là bài thơ giãi bày cảm xúc lưu luyến, bịn rịn trong cảnh chia tay thông thường mà là ý chí quyết tâm ra đi để mưu đồ nghiệp lớn. Bài thơ mãi mãi còn đó sự bất diệt trong khát vọng đấu tranh và tinh thần yêu nước cho những thế hệ sau này.