Tố Hữu được mệnh danh là nhà thơ của dân tộc. Thơ ca của ông có ảnh hưởng rất lớn tới đời sống của nhân dân những năm Cách Mạng. Tập thơ “Từ ấy” mở đầu cho chặng đường thơ ca Cách mạng của ông. Bài thơ cùng tên sáng tác năm 1938 như khúc hát sôi nổi về nhiệt huyết, tình yêu niềm tin với Đảng và Cách mạng. Mở đầu bài thơ là những câu thơ diễn tả cảm xúc dạt dào của người thanh niên trẻ tuổi, thì những vẫn thơ tiếp vẫn là mạch cảm xúc đó tác giả nói lên tiếng nói tình cảm gắn kết khối đại đoàn kết của dân tộc trong ánh sáng Cách mạng Đảng. Dưới đây là những Bài văn Cảm nhận khổ thơ thứ hai bài thơ Từ ấy của Tố Hữu (Ngữ văn 11) hay nhất Mà Toplist đã sưu tầm và tổng hợp.
Bài tham khảo số 1
Tố Hữu là nhà thơ nổi tiếng và trưởng thành theo cách mạng. Thơ của Tố Hữu là sự pha trộn hài hòa giữa chất trữ tính và chính trị. Ông cho ra đời rất nhiều tác phẩm thơ sống mãi và nổi tiếng như Việt Bắc, Gió Lộng, Ra Trận, Máu và Hoa… Một trong những tác phẩm nổi tiếng trong tập thơ của Tố Hữu phải kể đến Từ Ấy. Từ Ấy là tác phẩm mở đầu con đường cách mạng, con đường thi ca của Tố Hữu. Bài thơ cũng là chân lý sống của tác giả thông qua lý tưởng cách mạng. Đặc biệt ở hai khổ thơ đầu của bài thơ thể hiện rõ những vấn đề trong bài.
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim
Mọi người đều có những giây phút trọng đại của cuộc đời và có những cảm xúc riêng hạnh phúc khôn tả. Trong tình yêu, hạnh phúc là khi yêu và được yêu, trong tình cảm gia đình, hạnh phúc là khi có mẹ có cha ở bên... Có thể nói, hạnh phúc với mỗi người là khác nhau nhưng đều chung một cảm giác, đó là tuyệt vời, là nắng ấm dịu dàng. Và với Tố Hữu, thì hạnh phúc tuyệt vời lúc này đây chính là gặp được lý tưởng cách mạng, khiến cho tâm hồn của tác giả như nở hoa, hạnh phúc không thể thốt thành lời.
“Từ ấy” là một khoảng thời gian không xác định nhưng nó cũng có nghĩa là rất lâu rồi, từ khoảnh khắc ấy, khoảnh khắc nhận ra chân lí của cuộc đời mình. Đó là khoảnh khắc tác giả thấy được ánh sáng cách mạng, thấy được con đường cứu nước đúng đắn và ông tin theo nó. Mặt trời ở đây chính là mặt trời chân lý, ánh sáng cách mạng.
Nếu trái đất tồn tại được vì có ánh sáng của mặt trời soi sáng, khiến cho vạn vật đâm chồi nảy lộc, sự sống hình thành. Thì ánh sáng cách mạng cũng chính là mặt trời rọi chiếu vào trái tim tác giả, khiến cho trái tim, khối óc của người chiến sĩ như bừng sáng, xóa tan đi mọi u tối và tìm được cho mình con đường đi đúng đắn. Vì vậy, tâm hồn của người chiến sĩ cách mạng lúc này đây mới rộn ràng tiếng chim, đậm hương thơm và là một vườn hoa lá. Tâm hồn hay chính xác là niềm vui, niềm vui khôn xiết. Ánh sáng cách mạng rọi chiếu khiến cho trái tim người cộng sản rạo rực, hạnh phúc khôn tả không khác gì tình yêu đôi lứa và có lẽ còn cao hơn cả tình yêu. Đó là tình yêu lí tưởng, tình yêu cách mạng dành cho dân tộc, cho đất nước.
Khi bạn đang bế tắc trước cuộc đời, con đường đi tăm tối không biết nên đi hướng nào cho đúng, bạn gặp được chân lí cuộc đời, gặp được ánh sáng dẫn bạn đi đúng hướng thì còn gì tuyệt hơn. Và người chiến sĩ cách mạng cũng vậy.
Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời
Sau những giây phút sung sướng nhận ra lý tưởng cuộc đời và cần phải đi, người cộng sản phải xác định một tâm thế, một hành động thật xứng đáng. Đó chính là trách nhiệm đối với cuộc đời, những kiếp người khốn khổ.
Tác giả sử dụng động từ “buộc” cho thấy sự chủ động, ràng buộc và xóa đi cái tôi cá nhân, thay vào đó là cái tôi hướng đến những kiếp người. Sự hẹp hòi ích kỉ không có mặt ở đây. Trên con đường cách mạng mà người chiến sĩ đã lựa chọn chỉ có sự hi sinh, đồng lòng, đoàn kết và thấu hiểu. Tác giả tự cho mình là con của mọi nhà, là anh của vạn kiếp phôi pha, là anh của vạn đầu em nhỏ… Tác giả đã “buộc” nghĩa là dứt khoát, mạnh mẽ, lí trí sáng suốt cuộc đời mình với người dân. Dù đó là ai, thì người chiến sĩ cách mạng cũng sẽ hết lòng phụng sự. Đây chính là tinh thần tự nguyện, tình nhân ái làm cho mỗi người hòa vào cuộc đời và trở thành con người theo nghĩa của nó.
Khi con người đoàn kết, sống vì nhau sẽ tạo nên một khối thống nhất. Có lẽ vì vậy mà dân tộc Việt Nam bé nhỏ đã có thể “rũ bùn đứng dậy sáng lòa” vì tình tương thân tương ái, hòa quyện vào nhau. Và có lẽ, chính những con người cộng sản ấy đã là sợi dây kết nối vô hình để gần gũi hơn với những mảnh đời bất hạnh, để hiểu và dẫn dắt họ đứng lên, đấu tranh tìm hạnh phúc.
Từ ấy là bản đàn dạo vui đầu tiên của người cộng sản khi gặp ánh sáng cách mạng. Trong hai khổ thơ đâu cũng chính là niềm vui, là trách nhiệm cao cả mà người chiến sĩ cảm nhận và thấy được. Tâm hồn bừng sáng cũng là lúc trái tim lí trí phải mạnh mẽ, dứt khoát và quyết tâm. Cho dù con đường đó chông gai khó khăn nhưng vẫn tiến về phía trước để thay đổi những cuộc đời bất hạnh.
Bài tham khảo số 3
Tố Hữu được mệnh danh là nhà thơ của dân tộc. Thơ ca của ông có ảnh hưởng rất lớn tới đời sống của nhân dân những năm Cách Mạng. Tập thơ “Từ ấy” mở đầu cho chặng đường thơ ca Cách mạng của ông. Bài thơ cùng tên sáng tác năm 1938 như khúc hát sôi nổi về nhiệt huyết, tình yêu niềm tin với Đảng và Cách mạng. Mở đầu bài thơ là những câu thơ diễn tả cảm xúc dạt dào của người thanh niên trẻ tuổi, thì những vẫn thơ tiếp vẫn là mạch cảm xúc đó tác giả nói lên tiếng nói tình cảm gắn kết khối đại đoàn kết của dân tộc trong ánh sáng Cách mạng Đảng.
“Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với muôn nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”
Tố Hữu tự nguyện“ buộc” lòng mình với long mọi người. Dưới ánh sáng của Cách Mạng, tác giả như hòa mình vào với muôn triệu trái tim Việt Nam. Từ “buộc” thể hiện sự gắn bó chặt chẽ, đoàn kết. Tác giả nguyện cùng đứng trong đau khổ, cùng đói nghèo, cùng vui sướng cùng hạnh phúc với người dân Việt Nam. Ông không ngại khổng ngại khó. Cũng từ chữ “buộc” ta như thấy được sự trách nhiệm của ông đối với dân tộc, đất nước. Trách nhiệm của một người dân Việt Nam là bảo vệ nền độc lập dân tộc. Trách nhiệm của người chiến sĩ Cách mạng là yêu thương lấy đồng bào, bảo vệ nhân dân thoát khỏi chiến tranh, thoát khỏi đói nghèo.
Tác giả “để tình trang trải với muôn nơi”. Phải chăng cái tình của tác giả bao la rộng lớn có thể “trang trải” tới muôn nơi? Đúng thế, đó là tình yêu với muôn vàn người dân đất Việt. Tình yêu đó bao la, tình yêu đó rộng lớn. Tác giả cuốn tình yêu của mình được hòa cùng tính yêu của muôn người. Đó là tình yêu to lớn, tình yêu gắn bó.
Không chỉ “trang trải tới muôn nơi” mà Tố Hữu còn muốn “Để hồn tôi với bao hồn khổ”. “ Hồn khổ” đó là cách nói hình ảnh về những con người Việt Nam thời kì này bị chiến tranh làm cho đói nghèo, bị thực dân đàn áp, cuộc sống khó khăn, vất vả. Những con người đó sống trong những tháng ngày tăm tối của nô lệ, của đàn áp. Tác giả nguyện để mình sống cùng những đau khổ, sống cùng những khó khăn để san sẻ những nỗi khổ, nỗi đau của triệu người dân.
Điệp từ “để” đứng ở đầu câu nhấn mạnh tình cảm, sự vị tha của một con người không chỉ yêu Cách Mạng mà yêu cả những con người xung quanh. Đó là lí tưởng mới khi ánh sáng Đảng đã soi chiếu. Sống không chỉ vì ta mà còn vì mọi người.
Câu thơ cuối vang lên đầy cảm xúc: “Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”. “Khối đời” một cách nói trừu tượng về tình đoàn kết, sự gắn bó chặt chẽ của mọi người dân đất Việt Nam. Đó là những con người cùng chung cảnh ngộ khó khăn, cùng chung hoàn cảnh đau khổ. Đó cũng là cũng con người chung lý tưởng, chung chí hướng: sống vì đất nước, vì dân tộc, đấu tranh cho một hòa bình độc lập dân tộc. Tố Hữu muốn nhấn mạnh trong khó khăn gian khổ, con người cùng nhau gần gũi, cùng nhau sát cánh, cùng nhau đứng lên chiến đấu thể hiện tình đoàn kết, tình dân tộc thì mọi điều đều vượt qua dễ dàng.
Khổ thơ với cách sử dụng từ ngữ hình ảnh chính xác, hình ảnh, thơ mộng lãng mạn đã thể hiện rõ tư tưởng tình cảm, lý tưởng của tác giả. Khi cái tôi hòa vào cùng cái ta, khi cái riêng tư hòa cùng cái chung của cộng đồng thì lý tưởng ý chí được nhân lên, được củng cố thêm mạnh mẽ, vững chắc. Và ánh sáng của Đảng của Cách Mạng đã soi sáng cho lý tưởng, cho ý chí đó.
Bài tham khảo số 10
Tố Hữu là một nhà thơ lớn của cách mạng Việt Nam. Ông đã có những đóng góp không nhỏ cho nền thơ ca nước nhà.
Thơ ông mang đậm khuynh hướng sử thi, trữ tình gắn với chính trị.
Bài thơ “Từ ấy” in trong tập thơ đầu tay của ông, là một trong những bài thơ xuất sắc của nhà thơ. Đặc biệt, hai khổ thơ đầu của bài thơ thể hiện niềm vui sướng, hạnh phúc tột cùng của Tố Hữu khi sớm giác ngộ lý tưởng cách mạng, đồng thời cũng cho thấy những nhận thức về lẽ sống và trách nhiệm của bản thân nhà thơ:
‘Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim
Tôi buộc lòng tôi với mọi ngườiĐể tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”
Bài thơ mở đầu với những câu thơ viết theo lỗi tự sự, thể hiện niềm say sưa, hạnh phúc như bừng tỉnh tâm hồn khi nhà thơ nhận thấy lý tưởng của Đảng:
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim”
Nhà thơ kể lại một mốc lịch sử đáng nhớ của cuộc đời mình “từ ấy”. “Từ ấy” là từ khi người thanh niên tuổi mười tám, đôi mươi được giác ngộ lý tưởng cộng sản và đứng trong hàng ngũ của Đảng. Tác giả đã sử dụng thành công hình ảnh ẩn dụ “nắng hạ”, mặt trời chân lý” để chỉ lý tưởng cộng sản, lý tưởng cách mạng. Bởi lẽ, “nắng hạ” là cái nắng rực rỡ còn “mặt trời” tròn trịa là cội nguồn của ánh sáng vĩnh hằng.
Đối với nhà thơ, điều đó cũng giống như tầm quan trọng của cách mạng, là nguồn sống đối với nhà thơ, với dân tộc Việt Nam đang chịu áp bức, sống trong cảnh nước mất nhà tan. Động từ “bừng” gợi một ánh nắng mùa hạ chói chang, đột nhiên sáng bừng lên, cũng giống như tâm hồn nhà thơ bất chợt được khai sáng, được nảy nở sau bao chuỗi ngày “bâng khuâng đứng giữa hai dòng nước”.
Chính “mặt trời chân lý” của cách mạng đã mang ánh nắng mới ấm áp, rực rỡ “chói” qua trái tim của Tố Hữu. Mang đến ánh sáng với trái tim của một tuổi trẻ đầy nhiệt huyết để khát khao mãnh liệt được cống hiến.
Nhà thơ đã sử dụng động từ mạnh “chói” ở giữa câu thơ để thể hiện sự tác động mạnh mẽ của lý tưởng cộng sản đến với cuộc đời mình.
Nhà thơ đã tiếp tục diễn tả niềm hạnh phúc vô bờ của mình từ bước ngoặt cuộc đời ấy bằng giọng thơ đầy háo hức cùng những hình ảnh giàu sức gợi hình, gợi cảm:
“Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim”
Nhà thơ đã dùng biện pháp tu từ so sánh, ví tâm hồn mình như “một vườn hoa lá”. Từ khi có ánh sáng của mặt trời chân lý cách mạng chiếu soi, tâm hồn nhà thơ đầy niềm khát khao, vui vẻ ngập tràn giống như một vườn hoa “rất đậm hương” và “rộn tiếng chim”. Hình ảnh sống động “đậm hương”, “rộn tiếng chim” càng khẳng định đó là một vườn hoa lá rực rỡ đầy sức sống mãnh liệt, tỏa hương thơm ngào ngạt, rộn ràng vươn lên đón nắng mới. Câu thơ cho thấy một niềm náo nức, say mê và hạnh phúc ngập tràn như tiếng hoan ca trong tâm hồn người chiến sĩ cách mạng, người thi sĩ.
Niềm vui sướng, say mê của nhà thơ Tố Hữu khi giác ngộ lý tưởng cách mạng cũng giống bao hồn thơ khác nảy nở tâm hồn sau bao tháng ngày tăm tối.
Từ khi được giác ngộ lý tưởng cách mạng, với sự nhiệt huyết chân thành, người thanh niên tuổi trẻ Tố Hữu đã bắt đầu có những nhận thức thay đổi trong lẽ sống cao đẹp, trách nhiệm cuộc đời mình:
“Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”
Nhờ chân lý cách mạng soi sáng, nhà thơ có những nhận thức mới trong gắn bó với mọi người. Động từ “buộc” thể hiện sự ràng buộc của bản thân nhà thơ đối với môi trường rộng lớn mọi giai cấp, bỏ đi cái tôi cá nhân để hòa vào cái ta rộng lớn.
Cụm từ “trang trải” và “trăm nơi” nói lên tình yêu thương giai cấp trong trái tim nhà thơ với mong muốn đồng cảm sâu sắc với người lao động nghèo khó.
Sự đồng cảm của nhà thơ với bao “hồn khổ” là tiếng lòng thiết tha yêu thương, gần gũi với những người bị bóc lột trong xã hội, đó là em nhỏ, những bà mẹ nghèo, những người không nhà cửa…Câu thơ cuối là niềm ước ao, khát khao cháy bỏng của nhà thơ không phân biệt giai cấp, gần gũi, bao bọc nhau để thêm “mạnh khối đời”. Điều đó thể hiện mong ước đoàn kết mọi giai cấp để tạo nên một khối thống nhất với sức mạnh cực kỳ to lớn.
Điệp từ “để” được điệp lại hai lần cùng nhịp thơ nhịp nhàng, giọng thơ hân hoan, háo hức càng thể hiện được sự thay đổi mạnh mẽ, sôi nổi trong lý tưởng sống của nhà thơ. Gấp trang sách lại mà hình ảnh một vườn hoa lá rộn tiếng chim cùng mặt trời chân lý chói chang, rực rỡ vẫn in sâu trong trái tim người đọc.
Bài thơ Từ ấy nói chung cũng như đoạn thơ nói riêng đã thể hiện một cách sâu sắc và thành công niềm say mê, vui sướng và hạnh phúc vô bờ của nhà thơ khi được giác ngộ lý tưởng cách mạng. Dù đất nước đã hòa bình thống nhất nhưng bài thơ mãi là tiếng ca reo vui của người thanh niên trẻ giàu nhiệt huyết và khát khao cống hiến tuổi trẻ cho đất nước, để lại những dư âm sâu lắng trong trái tim mọi độc giả.
Bài tham khảo số 5
Tố Hữu là một trong những nhà thơ cách mạng nổi tiếng nhất, ông có những tác phẩm thơ sống mãi như tập Việt Bắc (1947-1954), tập Gió lộng (1955-1961), tập Ra trận (1962-1971), Máu và hoa (1972-1977),…. Một trong những bài thơ nổi tiếng nhất của ông là bài Từ ấy. Từ ấy là bài thơ mở đầu cho con đường cách mạng, con đường thi ca của Tố Hữu, bài thơ đồng thời là một chân lí sống của tác giả trong cuộc sống. Khổ 2 của bài thơ thể hiện sự nhận thức của tác giả về chân lí sống, lẽ sống mới qua lí tưởng đảng. Chúng ta cùng đi tìm hiểu khổ 2 của bài thơ Từ ấy để hiểu rõ hơn những vấn đề trong bài.
“Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải khắp muôn nơi”
Động từ “buộc” được sử dụng một cách rất “đắt” trong câu thơ này. Nó là sự tự nguyện, là thái độ mong muốn được gắn kết sẻ chia. Nhà thơ tự kết dính tấm lòng của mình với tất cả mọi người. Ông xem mọi người đều là người thân của mình, đều là đồng chí anh em cùng chung hoạn nạn sướng vui, để chính ông tự muốn ràng buộc bản thân mình với họ. Sự ràng buộc này không phải là một mối quan hệ cụ thể, nó chính là sợi dây ân tình ân nghĩa sâu nặng mà Tổ Hữu muốn gắn kết giữa muôn người. Ông muốn mọi người vui chung với niềm vui của ông, cùng chiêm nghiệm và giác ngộ lý tưởng cách mạng để con đường kháng chiến thêm những anh hùng. Tố Hữu đã đi từ cái “tôi” cá nhân đến cái “ta”chung ở tất cả mọi người. “Buộc” còn có nghĩa là tự mình phải có trách nhiệm gắn bó với cộng đồng. Thân làm nam nhi sinh ra giữa đất trời, trách nhiệm nặng nề và vinh hạnh luôn trên đôi vai người chiến sĩ, chính là nhiệm vụ giải phóng, bảo vệ tổ quốc. Mọi người ở đây là những người nông dân Việt Nam, những con người hiền lành khổ cực, những con người cùng chung giai cấp vô sản. Ta bỗng nhớ đến những câu thơ nói về chí làm trai:
“Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông”.
Tố Hữu muốn ánh sáng cách mạng được lan tỏa khắp nơi nơi, chiếu soi cho những cuộc đời đau khổ, soi sáng cho những con đường còn mù mịt tăm tối, để cuối cùng, sức mạnh toàn dân tộc được gắn chặt, trỗi dậy và hành động thực sự. Từ “trang trải” khiến ta liên tưởng tới tâm hồn của nhà thơ đang trải rộng với cuộc đời: tạo ra khả năng đồng cảm sâu xa với hoàn cảnh của từng con người cụ thể. Nhà thơ tìm về sức mạnh của sự đoàn kết toàn dân tộc, cùng nhau nắm chặt tay chiến đấu để trả nợ mối thù non sông. Điều này xuất phát từ ý thức giác ngộ cách mạng của người chiến sĩ Tố Hữu lúc bấy giờ.
Có thể thấy rằng toàn bộ đoạn thơ là lời bộc bạch chân thành về tâm trạng của nhà thơ khi gặp ánh sáng của cuộc đời mình. Với lối viết giản dị chân thành, Tố Hữu giúp độc giả hiểu và cảm nhận được niềm vui sướng mãnh liệt đang trào dâng trong trái tim người lính anh hùng.
Bài tham khảo số 7
Tố Hữu (1920 – 2002) là một nhà thơ lớn của dân tộc, là ngọn cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam. Cuộc đời thi sĩ và chiến sĩ của Tố Hữu luôn song hành với nhau. Trên hành trình vừa làm chiến sĩ vừa làm thi sĩ, Tố Hữu đã có nhiều cột móc quan trọng nhưng cột móc đáng chú ý nhất là cột móc khi giác ngộ lý tưởng Đảng vào 1937.
Ở thời điểm này, Tố Hữu đã có một bài thơ ghi lại ấn tượng của buổi đầu ấy, bài thơ có tên “Từ ấy”. Bài thơ “Từ ấy” được in trong tập thơ cùng tên, là một trong những bài thơ đặc sắc của Tố Hữu. Bài thơ là tiếng reo vui của người thanh niên trai trẻ Tố Hữu khi được giác ngộ lý tưởng Đảng và nhận thức mới của người thanh niên ấy khi đi với cách mạng. Tiếng reo vui của buổi đầu đi với cách mạng được Tố Hữu thể hiện một cách rất hình ảnh và sinh động.
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim
Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời
Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ”.
Nhà thơ Tố Hữu sinh năm 1920, thời tuổi trẻ sống trong đêm trường nô lệ nhưng may mắn cho Tố Hữu là năm 1937 được giác ngộ cách mạng, rồi 1939 được kết nạp vào Đảng. Đó là thời kỳ Tố Hữu chuyển mình từ một thanh niên học sinh sang làm một chiến sĩ cộng sản. Tố Hữu đã ghi lại tâm trạng của thời kỳ này đó là thời kỳ thời điểm mà nhà thơ reo vui khi gặp lý tưởng Đảng.
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim”.
“Từ ấy” là thời điểm người thanh niên Tố Hữu đến với cách mạng, được giác ngộ lý tưởng Đảng. Thời điểm ấy trong tâm hồn nhà thơ có một sự nồng ấm nồng nhiệt của một nhiệt huyết cách mạng mà nhà thơ đã cảm giác như một thứ nắng hạ chói chan.
Cảm giác ấy là vì lý tưởng Đảng, ánh sáng cách mạng như là “mặt trời chân lý” bừng sáng “chói qua tim”. Tim là nơi hội tụ của tâm hồn, tư tưởng, tình cảm, ánh sáng chân lí chói qua tim là một sự sáng bừng sáng tỏ trong tình cảm, trong nhận thức của người thanh niên cách mạng.
Sau khi được ánh sáng Đảng, lý tưởng cách mạng như mặt trời chân lý rọi vào sáng tỏ thì nhà thơ cảm thấy tâm hồn mình như được hồi sinh.
“Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim”.
Như ta đã biết trong bài thơ “Một nhành xuân” 1980, Tố Hữu đã tự thuật lại quãng đời trước khi gặp lý tưởng Đảng rằng:
“Tôi đã khô như cây sậy ven đường
Đâu ước làm chim thơm và trái ngọt
Tôi đã chết im lặng như con chim không bao giờ được hót
Một tiếng ca lánh lót cho đời”.
Một tâm hồn kho héo như thế nay bỗng nhiên trỗi dậy hồi sinh. Nhà thơ cảm thấy trong tâm hồn mình xanh tươi như “một vườn hoa lá” có hương sắc hương thơm và cả “rộn tiếng chim”. Cũng có nghĩa là tâm hồn như được sống lại, rạo rực mê say, có đủ âm thanh màu sắc.
Thật khó có hình ảnh nào ví về sự hồi sinh tâm hồn hình ảnh hơn thế, sinh động hơn thế. Bốn câu thơ mở đầu với những hình ảnh thơ mới lạ sáng tạo, nhà thơ vừa thể hiện được cảm giác reo vui khi lý tưởng Đảng soi rọi vào tâm hồn mình, khi tâm hồn mình được hồi sinh dưới ánh sáng chân lý Đảng.
Sau khi tiếp nhận lý tưởng Đảng và hồi sinh tâm hồn, người thanh niên cộng sản Tố Hữu đã có một sự thay đổi về nhận thức, đó là phải gắn bó yêu thương những người lao khổ để xiết chặt đội ngũ chiến đấu, tác giả viết:
“Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”.
Nếu như các nhà thơ lãng mạn cùng thời chưa có một nhân sinh quan sống đúng, họ sống chán nản hoặc tách biệt với nhân dân. Chẳng hạn như Xuân Diệu viết:
“Ta là một là riêng là thứ nhất
Không có ai bè bạn nổi cùng ta”.
Hay như Chế Lan Viên thì nói:
“Nhân dân ở quanh ta mà ta chẳng biết
Thơ xuôi tay như nước chảy xuôi dòng”.
Thì Tố Hữu lại có một nhận thức mới mẻ đúng đắn đó là:
“Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi”.
Buộc là một cách nói ngoa dụ nhưng nhằm nhấn mạnh sự gắn bó đoàn kết với mọi người với nhân dân. Và Tố Hữu xác định gắn bó đoàn kết chưa đủ mà phải trang trải tình cảm, chia sẽ yêu thương với trăm nơi với mọi nhà. Hai chữ “buộc” và “trang trải” tình cảm với mọi người với trăm nơi đã thể hiện cái nhận thức khá toàn diện về một quan niệm sống mới, tức là một nhân sinh quan mới.
Sau nhận thức buộc và trang trải tình cảm nhà thơ còn thể hiện một nhận thức mới cụ thể hơn, đó là buộc và trang trải tình cảm với bao hồn khổ là với những con người lao khổ, để không ngoài mục đích là cho “mạnh khối đời” cho mạnh đội ngũ chiến đấu. Như vậy quan niệm về gắn bó và chia sẽ tình cảm của Tố Hữu có địa chỉ cụ thể và có mục đích cụ thể.
Bài tham khảo số 6
Lý tưởng Cách mạng là ngọn đèn soi đường chỉ lối cho dân tộc ta, dẫn cả đất nước ta qua đêm trường đen tối. Và đối với người thanh niên trẻ Tố Hữu, lí tưởng ấy đã cho ông một nguồn sống mới, dạt dào, mạnh mẽ, chiếu rọi lên trái tim còn đang bơ vơ của ông. Và "Từ ấy" ra đời như một kết quả tất yếu, đánh dấu lại trang đời bước sang trưởng thành của người thanh niên Cách mạng, đồng thời nó còn là tiếng reo vui, hân hoan mà rộn rã Tố Hữu được lần đầu tiên đứng trong hàng ngũ của Đảng. Điều đó được thể hiện rất rõ qua khổ thơ thứ 2 bài Từ ấy.
Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải khắp trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời.
Khổ thơ thứ 2 của bài thơ là biểu hiện những nhận thức, lẽ sống mới của cái tôi trữ tình. Nhà thơ nguyện dấn thân vào cuộc đời nhân dân, “cùng đổ mồ hôi, cùng sôi giọt máu” với nhân dân. Đó là nhận thức, là giác ngộ, là lẽ sống lớn. Nhà thơ kết nối “những tù nhân khốn nạn của bần cùng”, kết nối “kiếp phôi pha” để rồi cuối cùng làm cho “mạnh khối đời” - khối đại đoàn kết dân tộc.
Giác ngộ lí tưởng, giác ngộ nhận thức, lẽ sống đối với người cộng sản, trước hết là giác ngộ về chỗ đứng. Nhà thơ chủ động, tự giác hòa “cái tôi” với “cái ta” chung của mọi người, tự nguyện đứng trong hàng ngũ những người lao khổ. Từ “buộc” thể hiện ý thức tự nguyện sâu sắc và quyết tâm cao độ của Tố Hữu nguyện gắn bó mật thiết, sống chan hòa với “mọi người”, với “trăm nơi”, với quần chúng đông đảo khắp mọi miền đất nước. Nhóm từ “để tình trang trải” thể hiện tâm hồn nhà thơ như muốn trải rộng với cuộc đời rộng lớn, tạo ra khả năng đồng cảm sâu xa với mọi cảnh ngộ của những cuộc đời cần lao. Đây là điều khác biệt với các nhà thơ Mới đương thời, trong khi Tố Hữu giác ngộ cách mạng và đi theo con đường lý tưởng thì các nhà thơ mới lại đang đau buồn với cái tôi bé nhỏ, cô đơn, chôn chặt niềm đau trong những vần thơ bi lụy.
Nhận thức mới của Tố Hữu cũng thật khác xa với nhân vật Hạ Du (Thuốc – Lỗ Tấn), Hạ Du xa rời quần chúng nhân dân để rồi ôm nỗi đau bi kịch của người cách mạng còn Tố Hữu lại biết đứng về nhân dân lao khổ và giác ngộ trong hàng ngũ ấy.
“Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”
Hai câu thơ này đã khẳng định tình cảm hữu ái giai cấp của Tố Hữu. Tâm hồn của thi sĩ từ đây sẽ nghiêng về phía “bao hồn khổ” để cảm thông, chia sẻ, để cá nhân hòa vào tập thể, tạo nên một sức mạnh quần chúng đông đảo, vĩ đại. Sau này, khi đã trải qua gần 40 năm đời thơ, đời cách mạng, Tố Hữu cũng đã viết: “Tất cả cùng tôi. Tôi với muôn người. Chỉ là một. Nên cũng là vô số!”. Thật đáng quý biết bao tâm hồn cao đẹp ấy.
Nói tóm lại bài thơ “Từ ấy” là một bài thơ của một cái tôi tràn đầy cảm xúc. Đó là cái Tôi lần đầu được giác ngộ lý tưởng và nguyện đem tất cả tinh thần và tuổi trẻ của mình phụng sự cho lý tưởng cao cả ấy. Bài thơ còn là một tuyên ngôn nghệ thuật và mang đậm phong cách thơ Tố Hữu. Nó xứng đáng là một tiếng hát lạc quan, yêu đời, đắm say lí tưởng, ngày nay vẫn làm xúc động hàng triệu trái tim độc giả.
Bài tham khảo số 4
Tố Hữu là một trong những cánh chim đầu đàn trong nền thơ ca, văn học Việt Nam. Cả cuộc đời sự nghiệp sáng tác của ông đều hướng tới tư tưởng yêu nước, tự hào dân tộc và lý tưởng cách mạng chiến đấu của nhân dân ta. Trong vô vàn những tập thơ tiêu biểu, chắc hẳn những người yêu thơ không thể quên được tập thơ đầu tay của ông mang tên “ Từ ấy”. Đặc biệt, qua hai khổ thơ đầu của bài thơ “ từ ấy”, tác giả đã gửi gắm, thể hiện trọn niềm vui của người thanh niên trẻ khi được giác ngộ với cách mạng.
Bài thơ được sáng tác vào năm 1938, trong giai đoạn Tố Hữu được kết nạp vào Đảng cộng sản Đông Dương. Đây được xem là một trong những dấu mốc quan trọng nhất cuộc đời nhà thơ, khi ông tìm được con đường chân lý sẽ đi trong những tháng năm tuổi trẻ. Luôn trong tâm thế khát vọng được chiến đấu, cống hiến cho sự nghiệp giải phóng nước nhà, tác giả đã viết nên bằng tất cả niềm say mê, hạnh phúc khi có đảng qua những câu thơ đầu tiên.
“Từ ấy” là khoảng thời gian từ khi tác giả được giác ngộ lý tưởng cộng sản, ông cảm thấy vô cùng vui sướng, hạnh phúc biết bao. Hình ảnh “ bừng nắng hạ” bừng lên biết bao cảm xúc vỡ òa của tác giả khi được trải qua những khoảnh khắc thiêng liêng ấy. Một luồng ánh sáng chói sáng, hòa mình cũng hình ảnh ẩn dụ “ mặt trời chân lí chói qua tim” cho lí tưởng cách mạng.
Tố Hữu đặc biệt sử dụng động từ “ bừng” và “ chói” đã gợi tả nên ánh sáng rực rỡ, mạnh mẽ từ khi Đảng mang lại cho cuộc đời ông. Trái tim ông như được tiếp thêm ngọn lửa rực cháy. Khi trái đất không thể tồn tại khi không có sự hiện diện của mặt trời, tựa như cuộc đời của nhà thơ sẽ chẳng thể nào có lối sáng, nhận được những điều tốt lành nếu như không có sự soi đường dẫn lối của cách mạng.
Tiếp nối mạch cảm xúc, bằng tâm hồn và bút pháp trữ tình lãng mạn, giàu sức tạo hình, Tố Hữu đã tiếp tục diễn tả nỗi niềm vui mừng vô hạn trong những phút giây đầu tiên được sánh vai trong hàng ngũ của Đảng:
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim
Những cặp hình ảnh ẩn dụ như “vườn hoa lá” và “ rộn tiếng chim” đại diện cho một thế giới mới tràn đầy hương sắc và sức sống. Phía sâu trong tâm hồn của người con người trẻ tuổi là những mong muốn, khát vọng đang thi nhau “đâm chồi nảy nở” tựa như hoa lá mùa xuân. Nó là một hình ảnh so sánh trừu tượng nhưng tác giả vẫn khiến cho người đọc như cũng cảm nhận được vô cùng chân thực của chính nhà thơ.
Đối với Tố Hữu, lí tưởng cách mạng không chỉ mang đến ngọn nguồn sức sống mới mà còn mang đến những niềm đam mê cho tác giả. Rồi ngày mai đây, ta sẽ còn có nhiều cơ hội được trải lòng mình đón ánh nắng sớm mai, cùng hương thơm ngào ngạt trong gió thoảng và tiếng chim lảnh lót bên tai. Những cảnh sắc yên bình, hài hòa và đẹp tươi mà đất nước sẽ được đón chào nhờ có Đảng sẽ là động lực lớn lao cho tác giả phấn đấu.
Khi giác ngộ lý tưởng ấy, Tố Hữu đã khẳng định quan niệm về lẽ sống mới. Ta với Đảng tuy hai mà một, đã là một đảng viên, cần phải biết hòa chung cái tôi cá nhân và cái ta chung của tập thể:
Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với muôn nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời
Ngay từ khi ấy, nhà thơ đã tự nguyện “ buộc” lòng mình với mọi người, mọi người chính là cả nhân dân, những người dân máu đỏ da vàng luôn hướng về lá cờ đỏ sao vàng. “ Buộc” còn có nghĩa là tự mình phải có trách nhiệm gắn bó với cộng đồng. Từ những người nông dân cần cù lao động, đến những người cùng chung giai cấp, họ đều ở đây, cùng nhau chiến đấu vì đất nước. Tâm hồn nhà thơ đang được “ trang trải” khắp bốn bề tổ quốc, để góp chút sức mạnh vào khối đoàn kết của dân tộc.
“Khối đời” là hình ảnh ẩn dụ chỉ một khối người đông đảo cùng chung cảnh ngộ, lý tưởng , gắn bó với nhau và cùng phấn đấu vì một lợi ích chung của toàn dân tộc. Toàn bộ khổ thơ trên, nhà thơ đã bộc bạch hết những nỗi lòng, tâm tư thương yêu mến mộ đồng bào. Tình yêu giữa người với người, tình thương khi đất nước bị chia cắt, giặc thù xâm hại sẽ thôi thúc những con người ấy đoàn kết, gắn bó nhau hơn. Khi ta có thể gạt bỏ cái tôi cá nhân, những mưu cầu cá thể để hướng đến mục đích chung của một dân tộc, thì “kẻ thù nào cũng bị tiêu diệt, khó khăn nào cũng có thể vượt qua”.
Chỉ qua những câu thơ ngắn ngủi nhưng hết mực chân thành, từ niềm vui, hân hoan của tác giả khi được bắt gặp ánh sáng chân lý của Đảng đã khiến cuộc đời Tố Hữu bừng sáng biết bao. Những hình ảnh ẩn dụ hết sức gần gũi và giàu ý nghĩa đã giúp người đọc cảm nhận được hết lòng quyết tâm, lời thề trung thành với nước với dân của nhà thơ.
Bài tham khảo số 9
Nói đến thơ cách mạng, chúng ta không thể không nhắc đến một nhà thơ nổi tiếng, cũng là một chiến sĩ cách mạng đã dành cả tuổi trẻ cho đất nước. Không ai khác chính là nhà thơ Tố Hữu với hồn thơ đầy lửa, đầy tinh thần chiến đấu. Một trong số những tác phẩm tiêu biểu, đánh dấu chặng đường hoạt động cách mạng của Tố Hữu là bài thơ “Từ ấy”.
Hai khổ đầu bài thơ đã thể hiện sâu sắc niềm vui sướng khi nhà thơ gặp lý tưởng cách mạng, đưa ban đọc đến với một quan điểm mới về lẽ sống.
Đánh giá về nhà thơ Tố Hữu, tất cả đều khẳng đinh rằng thơ của ông luôn gắn liền với tình hình cách mạng Việt Nam.
Những bài thơ ông viết đều song song với hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ, thể hiện chân thực nhất những góc cạnh của chiến tranh và người lính. Với hồn thơ mộc mạc bình dị, Tố Hữu đã đóng góp cho tàng văn học nước nhà những tác phẩm tuyệt vời.
“Từ ấy” là bài thơ nằm trong tập thơ cùng tên, viết vào khoảng 1938, khi mà ông được kết nạp thành người Đảng viên của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Có thể cho rằng bài thơ chính là dấu mốc đáng nhớ của cuộc đời Tố Hữu, bởi khi ấy, ông trải qua những cảm xúc vô cùng thiêng liêng:
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim”
Ngay ở câu mở đầu bài thơ, tác giả đã đưa ra một mốc thời gian xác định, chắc chắn rằng điều đó mới xảy ra chưa lâu, và vẫn đang mãnh liệt ở thời điểm hiện tại. “Từ ấy” là khi mà Tố Hữu được đứng trong hàng ngũ danh dự của Đảng, là khi ông 18 tuổi với sức trai nhiệt huyết và dũng cảm. Nhà thơ đang bộc bạch về bản thân mình rất chân thành, giống như đang tâm sự với người thân về những gì mình đã trải qua. Ông đang kể về kỷ niệm khó phai của bản thân mình bằng sự hứng khởi nhiệt tình. Động từ “bừng” diễn tả sự đột ngột, bất ngờ xảy đến khiến nhà thơ sửng sốt, choáng ngợp. Đây chính là khoảnh khắc Tố Hữu đón nhận lý tưởng cách mạng, con đường cách mạng của Đảng, xác định cho mình mục tiêu và lý tưởng sống. Ông ví tâm trạng mình khi gặp lý tưởng cách mạng giống như “nắng hạ”- ánh nắng mạnh mẽ nhất của năm, chiếu chói chang ấm nóng vạn vật trên đời. Ánh nắng của mùa hạ thể hiện sự lan toả nhanh chóng, tốc độ chiếu rọi nhanh và dứt khoát, ba phủ trọn vẹn tất cả. Có thể thấy rằng nhà thơ bắt găp lý tưởng cách mạng thì cảm động như chính bản thân mình được sinh ra lần thứ hai trong đời.
Nếu là ở giai đoạn trước đây, Tố Hữu còn đang phân vân với những con đường chưa chọn, còn thấy môn lung chưa biết lý tưởng của mình là gì thì hiện tại, ông vui mừng khi thấy con đường sáng tươi xuất hiện. Chúng ta vẫn còn nhớ cậu bé Tố Hữu trước đó:
“Bâng khuâng đứng giữa hai dòng nước
Chọn một dòng hay để nước trôi”
Trước đó, Tố Hữu bị lạc lõng trong những suy nghĩ của bản thân, chàng trai trẻ chưa thật sự được đi trên một con đường rõ ràng nào hết. Lúc đó mọi thứ thật mờ nhạt, không rõ ràng, không lựa chọn. Tâm trạng của Tố Hữu là thấy khó chọn lựa, không hiểu và không biết nên làm như thế nào. Thế nhưng, ở giây phút hiện tại, người thanh niên ấy đã rất sung sướng khi tìm thấy con đường mình sẽ đi, tin tưởng và hạnh phúc khi bắt đầu bước chân trên con đường ấy.
“Mặt trời chân lý chói qua tim”
Ánh sáng ấy là “chói” trực tiếp vào nhà thơ, trực diện và dứt khoát, tạo một tác động mạnh, chính xác vào tim người chiến sĩ. Tác giả sử dụng động từ mạnh “chói” chứ không phải là xuyên, rọi, lan toả, thấm… bởi từ “chói” là từ hoàn hảo nhất thể hiện tốc độ và sự chuẩn xác của ánh sáng cách mạng.
Mặt trời chân lý ấy chính là hình ảnh ẩn dụ cho lý tưởng cách mạng. Nhà thơ xem đó như mặt trời, mà mặt trời thì là vĩnh cửu, là duy nhất. Lý tưởng cách mạng trở thành con đường tuyệt vời nhất, con đường duy nhất khiến người chiến sĩ thấy sung sướng lúc bấy giờ. Trái tim của sức trẻ và những khát khao được cống hiến cho tổ quốc, nay được soi rọi phản chiếu bằng ánh sáng của mặt trời chân lý- thứ ánh sáng mạnh nhất, nhanh nhất và chói chang nhất.
Lý tưởng cách mạng được nhà thơ ví như mặt trời- yếu tố thiên nhiên vĩ đại nhất, mạnh mẽ nhất. Tại sao nhà thơ lại so sánh như mặt trời chứ không phải là bất kỳ điều gì khác? Không phải là cỏ cây, hoa lá, mặt trăng, vì sao bởi thứ ánh sáng toả ra từ trăng sao rất nhẹ nhàng mờ nhạt, không sự s sánh nào trọn vẹn như ánh nắng mặt trời.
Tố Hữu đã tìm thấy ánh sáng của cách mạng, soi rọi cho bước chân người chiến sĩ vững vàng chiến đấu, sống và chết chỉ với một lý tưởng duy nhất: giải phóng dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Lý tưởng ấy chính là chân lý, là lẽ sống, là cột mốc vững chắc trên con đường chiến đấu của người chiến sĩ trẻ. Cảm xúc hân hoan vui sướng khi đón nhận lý tưởng cách mạng được thể hiện rõ nét trong những câu thơ tiếp theo:
“Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim”
Niềm hạnh phúc của Tố Hữu được bày tỏ trực tiếp, rõ ràng và dường như niềm vui sướng ấy đang lan toả tràn lan trên từng câu thơ. Tố Hữu khi đến với ánh sáng cách mạng giống như được tái sinh một lần nữa, được cách mạng khai sinh tư tưởng, giác ngộ tâm trí.
Nhà thơ ví von tâm trạng của mình giống như “một vườn hoa lá” xinh đẹp có hương thơm ngào ngạt và tiếng chim líu lo. Dường như hai câu thơ là hai cánh cổng xinh đẹp đang từ từ mở ra, dẫn người đọc vào một thế giới đẹp tươi của khu vườn xanh mát.
Bức tranh có sự giao hoà hợp lý giữa cảnh sắc và âm thanh, đồng thời hương thơm ngào ngạt thành thứ hương vị lan toả nhẹ nhàng giúp mọi thứ trở nên đặc biệt hơn. Không ai khác, khu vườn diệu kỳ ấy chính là sự bày tỏ khéo léo của cảm xúc người chiến sĩ. Không một ngôn từ nào có thể nói cho hết, nói cho đủ về niềm hạnh phúc trào dâng của nhà thơ khi ấy; chỉ biết rằng tâm hồn ông cứ nhảy múa tưng bừng trong niềm vui bất tận. Chúng ta cảm nhận sâu sắc một tình yêu đất nước nồng nàn, một tình cảm sâu nặng với non sông mà Tố Hữu đã luôn giữ trong tim mình. Người chiến sĩ ấy hiến dâng cả tuổi trẻ cho những gì cao cả nhất, tin vào lý trí và trái tim để vững bước trên con đường mình đã chọn.
“ Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải khắp muôn nơi”
Động từ “buộc” được sử dụng một cách rất “đắt” trong câu thơ này. Nó là sự tự nguyện, là thái độ mong muốn được gắn kết sẻ chia. Nhà thơ tự kết dính tấm lòng của mình với tất cả mọi người. Ông xem mọi người đều là người thân của mình, đều là đồng chí anh em cùng chung hoạn nạn sướng vui, để chính ông tự muốn ràng buộc bản thân mình với họ. Sự ràng buộc này không phải là một mối quan hệ cụ thể, nó chính là sợi dây ân tình ân nghĩa sâu nặng mà Tổ Hữu muốn gắn kết giữa muôn người.
Ông muốn mọi người vui chung với niềm vui của ông, cùng chiêm nghiệm và giác ngộ lý tưởng cách mạng để con đường kháng chiến thêm những anh hùng. Tố Hữu đã đi từ cái “tôi” cá nhân đến cái “ta”chung ở tất cả mọi người. “Buộc” còn có nghĩa là tự mình phải có trách nhiệm gắn bó với cộng đồng.
Mọi người ở đây là những người nông dân Việt Nam, những con người hiền lành khổ cực, những con người cùng chung giai cấp vô sản. Ta bỗng nhớ đến những câu thơ nói về chí làm trai:
“Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông”.
Tố Hữu muốn ánh sang cách mạng được lan toả khắp nơi nơi, chiếu soi cho những cuộc đời đau khổ, soi sáng cho những con đường còn mù mịt tăm tối, để cuối cùng, sức mạnh toàn dân tộc được gắn chặt, trỗi dậy và hành động thực sự.
Từ “trang trải” khiến ta liên tưởng tới tâm hồn của nhà thơ đang trải rộng với cuộc đời: tạo ra khả năng đồng cảm sâu xa với hoàn cảnh của từng con người cụ thể. Nhà thơ tim về sức mạnh của sự đoàn kết toàn dân tộc, cùng nhau nắm chặt tay chiến đấu để trả nợ mối thù non sông. Điều này xuất phát từ ý thức giác ngộ cách mạng của người chiến sĩ Tố Hữu lúc bấy giờ. Có thể thấy rằng toàn bộ đoạn thơ là lời bộc bạch chân thành về tâm trạng của nhà thơ khi gặp ánh sáng của cuộc đời mình. Với lối viết giản dị chân thành, Tố Hữu giúp độc giả hiểu và cảm nhận được niềm vui sướng mãnh liệt đang trào dâng trong trái tim người lính anh hùng.
Tóm lại, đoạn thơ đã rất thành công trong việc giãi bày tâm tư, cảm xúc của tác giả khi tìm thấy chân lý của cuộc sống.
Tố Hữu không chỉ chia sẻ niềm vui sướng của bản thân mà còn lan toả những cảm xúc tuyệt vời ấy đến tất cả mọi người.
Một người chiến sĩ anh dũng với hồn thơ chân thật đầy tình khiến chúng ta không khỏi xúc động nghẹn ngào. “Từ ấy” và nhà thơ Tố Hữu mãi mãi là viên ngọc quý trong nền văn học nước nhà.
Bài tham khảo số 8
Tố Hữu là nhà thơ lớn của Việt Nam ở đầu thế kỷ XX, là cánh chim đầu đàn, là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng. Sự gắn bó ấy đem đến cho thơ ông một vẻ đẹp độc đáo như đóa hoa lớn rực rỡ. “Từ ấy” nằm trong tập thơ cùng tên, được sản xuất trong vòng 10 năm từ 1936 đến 1946.
Nổi bật và đặc sắc trong tác phẩm ngay từ khổ thơ đầu của tác phẩm thể hiện niềm vui sướng và hạnh phúc vô bờ bến của tác giả khi bắt gặp lý tưởng, lẽ sống của đời mình, khi ông còn băn khoăn giữa lẽ sống của đời, cảm thấy chán cuộc sống này thì cũng là lúc Tố Hữu bắt gặp lý tưởng cộng sản, lý tưởng của đời mình.
Câu thơ đầu tiên được bắt đầu bằng cụm từ “từ ấy” thể hiện sự đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời của nhà thơ.
Đây là thời điểm tác giả giác ngộ lý tưởng cách mạng, bắt gặp lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, được giác ngộ vào năm 1938 ông vinh dự được đứng vào hàng ngũ của Đảng khi tròn 18 tuổi,
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim”
Bài thơ “từ ấy” thuộc phần “máu lửa” của tập thơ cùng tên, phần thơ ra đời trong không khí đầy sục sôi, đấu tranh giành độc lập, tự do của các dân tộc, nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng. Khổ thơ mở ra là những cảm nhận vẻ đẹp sâu sắc lý tưởng của cách mạng và tác giả đón nhận nó bằng một tâm hồn tươi trẻ.
“Từ ấy” ở nhan đề và được nhắc lại ngay câu mở đầu để tô đậm giây phút thiêng liêng, sự kiện trang trọng trong đời của Tố Hữu, là bước ngoặt lớn lao cho thanh niên tiểu tư sản trở thành một chiến sĩ cộng sản thay đổi về nhận thức, về lẽ sống.
Dòng thơ thứ hai sử dụng nhiều âm điệu ở âm vực cao, phấn chấn như một tiếng reo, tiếp tục ca ngợi vẻ đẹp lý tưởng cách mạng, không chỉ là nguồn sáng chói mà là nguồn sống lớn lao, lý tưởng sống đúng đắn, cao cả.
Khái niệm lý tưởng cách mạng một khái niệm chính trị trừu tượng đã được nhà thơ cụ thể hóa bằng hình ảnh ẩn dụ rất đỗi trữ tình.
“Mặt trời chân lý”, tiếp nối động từ “bừng” và từ “chói” ở câu hai để khẳng định lý tưởng cách mạng như nắng hạ chói lòa, như mặt trời vĩ đại, bất diệt đã tác động sâu sắc vào lý trí, tình cảm và thấm nhuần vào con tim, khối óc của nhà thơ
Với cách diễn đạt vừa gợi hình vừa gợi cảm, tôn vinh lý tưởng cộng sản, giúp cho bao nhiêu người được sáng mắt, sáng lòng. Khẳng định bản chất cao đẹp của lý tưởng ấy là giải phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột, thống khổ, chỉ cho họ con đường sống ý nghĩa nhất.
Qua cách thể hiện sáng tạo, hai câu thơ còn mang hàm ý: với dân tộc Việt Nam, với tầng lớp trí thức, thanh niên trẻ những năm 30, 45. Lý tưởng cần thiết như mặt trời, tất yếu như chân lý.
Hai câu thơ còn diễn tả sự phục sinh mạnh mẽ của một tâm hồn tươi trẻ khi được mặt trời lý tưởng soi rọi, chỉ lối, niềm vui tràn ngập trong lòng, người thanh niên yêu nước đã cất thành tiếng hát sôi nổi, náo nức, say mê:
“Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim”
Trước khi bắt gặp lý tưởng cách mạng, người thanh niên trí thức trẻ này sống một cách buồn bã, ảm đạm, lụi tàn như mảnh vườn trong mùa đông giá lạnh nhưng sau khi được gặp và giác ngộ được lý tưởng cách mạng. Cuộc sống lẫn tâm hồn của nhà thơ như một mảnh hồn thơ đầy hương sắc giữa mùa xuân, mang đến nguồn sinh lực dồi dào cho biết bao tâm hồn trẻ trung, nhiệt huyết
Nhịp thơ sôi nổi cùng với hai tính từ “đậm”, “rộn” rất thẩm mỹ, đặc biệt với lối vắt dòng đặc sắc, hai câu thơ của Tố Hữu diễn tả chân thực, tinh tế bao cảm xúc dâng trào, niềm vui, niềm hạnh phúc vô hạn trong buổi đầu gặp gỡ lý tưởng.
Khổ thơ vừa hay về nội dung và đẹp về hình thức, ngôn ngữ, hình ảnh thơ sáng tạo đẹp đẽ, cảm xúc thơ chân thành mãnh liệt là sự ngợi ca lý tưởng cách mạng, ngợi ca Đảng cộng sản Việt Nam quang vinh.
Qua đoạn thơ nhà thơ đã giúp chúng ta nhận thức sâu sắc hơn về lý tưởng cách mạng chính là lẽ sống, con đường sống đúng đắn của cả dân tộc tộc, khổ thơ như khúc hát của một trái tim mà cũng là khúc hát say mê của triệu triệu trái tim hướng về Đảng, hướng về cách mạng.
Khổ 2 của bài thơ thể hiện sự nhận thức của tác giả về chân lí sống, lẽ sống mới qua lí tưởng đảng.
“Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải khắp muôn nơi”
Động từ “buộc” được sử dụng một cách rất “đắt” trong câu thơ này. Nó là sự tự nguyện, là thái độ mong muốn được gắn kết sẻ chia. Nhà thơ tự kết dính tấm lòng của mình với tất cả mọi người. Ông xem mọi người đều là người thân của mình, đều là đồng chí anh em cùng chung hoạn nạn sướng vui, để chính ông tự muốn ràng buộc bản thân mình với họ.
Sự ràng buộc này không phải là một mối quan hệ cụ thể, nó chính là sợi dây ân tình ân nghĩa sâu nặng mà Tổ Hữu muốn gắn kết giữa muôn người. Ông muốn mọi người vui chung với niềm vui của ông, cùng chiêm nghiệm và giác ngộ lý tưởng cách mạng để con đường kháng chiến thêm những anh hùng. Tố Hữu đã đi từ cái “tôi” cá nhân đến cái “ta”chung ở tất cả mọi người.
“Buộc” còn có nghĩa là tự mình phải có trách nhiệm gắn bó với cộng đồng. Thân làm nam nhi sinh ra giữa đất trời, trách nhiệm nặng nề và vinh hạnh luôn trên đôi vai người chiến sĩ, chính là nhiệm vụ giải phóng, bảo vệ tổ quốc. Mọi người ở đây là những người nông dân Việt Nam, những con người hiền lành khổ cực, những con người cùng chung giai cấp vô sản. Ta bỗng nhớ đến những câu thơ nói về chí làm trai:
“Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông”.
Tố Hữu muốn ánh sang cách mạng được lan toả khắp nơi nơi, chiếu soi cho những cuộc đời đau khổ, soi sáng cho những con đường còn mù mịt tăm tối, để cuối cùng, sức mạnh toàn dân tộc được gắn chặt, trỗi dậy và hành động thực sự.
Từ “trang trải” khiến ta liên tưởng tới tâm hồn của nhà thơ đang trải rộng với cuộc đời: tạo ra khả năng đồng cảm sâu xa với hoàn cảnh của từng con người cụ thể.
Nhà thơ tìm về sức mạnh của sự đoàn kết toàn dân tộc, cùng nhau nắm chặt tay chiến đấu để trả nợ mối thù non sông. Điều này xuất phát từ ý thức giác ngộ cách mạng của người chiến sĩ Tố Hữu lúc bấy giờ. Có thể thấy rằng toàn bộ đoạn thơ là lời bộc bạch chân thành về tâm trạng của nhà thơ khi gặp ánh sáng của cuộc đời mình. Với lối viết giản dị chân thành, Tố Hữu giúp độc giả hiểu và cảm nhận được niềm vui sướng mãnh liệt đang trào dâng trong trái tim người lính anh hùng.
Bài tham khảo số 2
Tố Hữu là một trong những nhà thơ cách mạng nổi tiếng nhất, ông có những tác phẩm thơ sống mãi như tập Việt Bắc (1947-1954), tập Gió lộng (1955-1961), tập Ra trận (1962-1971), Máu và hoa (1972-1977),…. Một trong những bài thơ nổi tiếng nhất của ông là bài Từ ấy. Từ ấy là bài thơ mở đầu cho con đường cách mạng, con đường thi ca của Tố Hữu, bài thơ đồng thời là một chân lý sống của tác giả trong cuộc sống. Khổ 2 của bài thơ thể hiện sự nhận thức của tác giả về chân lý sống, lẽ sống mới của lí tưởng đảng. Chúng ta cùng đi tìm hiểu khổ 2 của bài thơ Từ ấy để hiểu rõ hơn những vấn đề trong bài.
Khi giác ngộ lý tưởng Tố hữu đã khẳng định quan niệm mới về lẽ sống. Đó là sự gắn bó hài hòa giữa cái tôi cá nhân và cái ta chung của mọi người:
“Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với muôn nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”
Động từ “buộc” thể hiện một ý thức tự nguyện và quyết tâm cao độ của Tố Hữu muốn vượt qua giới hạn của cái tôi cá nhân để sống chan hòa với mọi người. “Buộc” còn có nghĩa là tự mình phải có trách nhiệm gắn bó với cộng đồng. Mọi người ở đây là những người lao khổ, những con người cùng chung giai cấp vô sản.
Từ “trang trải” khiến ta liên tưởng tới tâm hồn của nhà thơ đang trải rộng với cuộc đời: tạo ra khả năng đồng cảm sâu xa với hoàn cảnh của từng con người cụ thể. “Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời” là tác giả nói đến tinh thần đoàn kết. “Khối đời” là hình ảnh ẩn dụ chỉ một khối người đông đảo cùng chung một cảnh ngộ, cùng chung một lý tưởng, đoàn kết với nhau, gắn bó chặt chẽ với nhau, cùng phấn đấu vì một mục đích chung: đấu tranh giành lại quyền sống và quyền độc lập dân tộc.
Như vậy, toàn bộ khổ thơ trên bằng lối sử dụng những từ ngữ chính xác, giàu ẩn ý, nhà thơ đã gửi gắm một cách sâu sắc về tư tưởng, tình cảm của mình. Đó là tình yêu thương con người của Tố Hữu gắn với tình cảm hữu ái giai cấp. Nó thể hiện niềm tin của tác giả vào sức mạnh đoàn kết, câu thơ trên cũng là một lời khẳng định: khi cái tôi chan hòa với cái ta, khi cá nhân hòa vào tập thể cùng lí tưởng thì sức mạnh nhân lên gấp bội.
Những câu thơ cũng là biểu hiện nhận thức mới về lẽ sống chan hòa cá nhân và tập thể, giữa cái tôi và cái ta. Trong lẽ sống ấy con người tìm thấy niềm vui và sức mạnh. Sự thay đổi nhận thức ấy, nó bắt nguồn sâu xa từ sự tự giác ngộ lý tưởng của nhà thơ Tố Hữu.