Nếu như trong thời kì văn học trung đại ta được biết đến nghệ thuật trào phúng qua những sáng tác thơ ca của cụ Tam nguyên Yên Đổ-Nguyễn Khuyến hay Tú Xương thì trong nền văn học Việt Nam hiện đại nó lại được thể hiện xuất sắc trong thể loại tiểu thuyết với tác phẩm “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng-ông thầy trào phúng. Tiêu biểu là đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” thể hiện thành công nghệ thuật trào phúng qua các khía cạnh như: tình huống, nhân vật, chi tiết nghệ thuật đặc sắc đã tái hiện lại bức tranh xã Việt Nam lúc bấy giờ. Mời các bạn tham khảo một số bài văn phân tích nghệ thuật trào phúng trong "Hạnh phúc của một tang gia" mà Toplist đã tổng hợp trong bài viết sau để thấy rõ hơn tài năng của Vũ Trọng Phụng.
Nghệ thuật trào phúng trong "Hạnh phúc của một tang gia" bài số 2
Với đặc điểm là một tiểu thuyết hoạt kê, tác phẩm Số Đỏ của Vũ Trọng Phụng đã miêu tả thật sống động bao nhiêu cảnh đời và con người mang tính hài hước, giễu cợt. Không chỉ một cuộc đời của nhân vật chính – Xuân Tóc Đỏ- đáng cười, mà hầu như tất cả các nhân vật, các tình huống, chi tiết truyện đều đáng cười, đáng phê phán. Chương XV của tác phẩm – với tiêu đề Hạnh phúc của một tang gia – miêu tả đám tang cụ cố tổ, giống như một chuỗi cười dài, một cuộc đưa tiễn tập thể, cuộc hành trình tới mộ của cả xã hội, cái xã hội tư sản thành thị Âu hoá rởm, văn minh rởm hết sức lố lăng, đồi bại đang hiện diện ở Việt Nam những năm 30 – 45 của thế kỉ XX. Mỗi tình huống truyện, mỗi nhân vật cứ tự nhiên làm bật ra tiếng cuời. Tiếng cười mang nhiều sắc độ, liên tục không dứt. Nó kéo dài trong suốt thời gian đám tang, suốt cuộc hành trình đưa tiễn….
Đọc tên chương - Nguyên văn trong tác phẩm là: Hạnh phúc của một tang gia – một cái đám ma gương mẫu… chúng ta không khỏi bật cười bởi cách thông báo hóm hỉnh của nhà văn. Nội dung sự việc là một việc đau đớn, bất hạnh. Vậy mà “tang gia” lại có ”hạnh phúc”! Việc tang là nghi lễ thiêng liêng, cần trang trọng, vậy mà, ngôn từ dành cho cái việc đại hiếu của một gia đình như gia đình cụ cố Hồng lại hỗn độn, pha trộn tuỳ tiện chữ Hán, chữ Nôm, nào hạnh phúc, nào tang gia, nào văn minh, gương mẫu, cứ như chuyện đùa, chuyện vui vậy! Cái sự đùa vui ấy mở màn cho vở hài kịch mà trên sân khấu hiện thật rõ hai trạng huống nực cuời: đám tang nhưng không phải là đám tang, nó là một đám…. rước. Con người nhưng không phải là con người mà là… những hình nhân dị dạng, những quái vật.
Sau thời gian bối rối theo lẽ thường tình của một nhà có việc tang, khi ba người quan trọng nhất – ông Cố Hồng, bà vợ và Văn Minh từ trên gác xuống dưới nhà cắt đặt mọi việc, thì cái gia đình có đại tang đó bừng lên một ngày hội. Lúc đưa đám thì cả bàn dân thiên hạ ở phố phường, ai cũng thấy đám ma được tổ chức linh đình, đủ kiểu cách, lễ nghi theo cả lối ta, tây, tàu. Đám ma đưa đến đâu làm huyên náo đến đấy. Cả thành phố nhốn nháo… ”Kèn ta, kèn tây, lèn tàu lần lượt thay nhau mà rộn lên”. Tiếng khóc của những người trong tang gia xen lẫn tiếng “thì thầm” về chuyện vợ con, nhà cửa, may áo, sắm tủ, hoặc những tiếng nói “thì thào” của bọn đàn ông bình phẩm sắc đẹp của các cô gái, “than thở” việc “vợ béo, chồng gầy”.
Vậy đấy, trên cái sân khấu hài hước, người đọc thấy được một khung cảnh pha tạp, hỗn độn, đồ vật và con người hỗn độn, âm thanh và màu sắc hỗn độn, việc vĩnh biệt một con người là việc đùa vui, tiếng khóc của nhiều người cũng hỗn độn, việc vĩnh biệt một con người và việc đùa vui, tiếng khóc của nhiều người cũng hỗn độn. Đám rước mà như “ở hội chợ”. Đám tang hay đám rước? Bởi vì, như tác giả kể: “Đám cứ đi” rồi lại “Đám cứ đi”. Những lời văn bỡn cợt, lơ lửng, hóm hỉnh, chua chát. Và ông nhận xét: “Thật đúng là một đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cuời sung sướng, nếu không gật gù cái đầu”.
Chương 15 – Hạnh phúc của một tang gia là một trong những màn hài kịch đặc sắc nhất của tiểu thuyết “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng. Để dàn dựng một màn hài kịch cười, trước hết phải phát hiện ra một mâu thuẫn trào phúng. Tiếng cười có muôn hình vạn trạng, tuy nhiên bao giờ nó cũng bật ra trước một mâu thuẫn trào phúng được phóng đại lên. Mâu thuẫn trào phúng trong chương 15 được gợi lên ngay từ cái nhan đề của nó. Tang gia mà lại hạnh phúc! Nhà có người chết mà lại vui! Tang gia quả có bối rối nhưng đó là cái bối rối sung sướng, bối rối không phải để tổ chức một đám rước, một ngày hội. Người chết là cụ cố tổ. Cụ mất đi để lại một gia tài lớn. Nhưng ông già quái ác này lại ghi trong di chúc: chỉ chia gia tài cho con cháu khi cụ đã qua đời. Thật là sốt ruột, vì cụ cứ sống mãi. Con cái, dâu rể đều chờ đợi cái chết của cụ như chờ đợi một hạnh phúc vậy. Và hạnh phúc đã đến.
Đặc sắc của đoạn trích là đã diễn tả được chung quanh hạnh phúc chung của tang gia, mỗi thành viên trong gia đình lại có một hạnh phúc riêng không ai giống ai, gắn liền với tính cách riêng của mỗi người và mỗi nhân vật lại có một mâu thuẫn trào phúng. Chẳng hạn, cụ cố Hồng. Vì là cụ cố nên luôn đóng vai già yếu, tuy tuổi cụ mới ngoài 50. Xưa nay, cụ mới đóng trò già yếu trong nhà, nay nhờ có đám tang cụ được diễn trò già yếu trước hàng nghìn người. “Cụ cố Hồng đã nhắm nghiền mắt mà mơ màng đến lúc cụ mặc đồ xô gai. Lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc, vừa khóc mếu, để cho thiên hạ phải chỉ trỏ: Úi chà! Trông kìa! Con trai lớn đã già đến thế kia kìa!”
Vợ chồng Văn Minh thì chắc chắn sẽ được chia một gia tài kha khá, chỉ còn phải lo mời luật sư đến chứng kiến cái chết của cụ cố tổ để cái chúc thư kia đi vào giai đoạn thực hành chứ không còn là lí thuyết viển vông nữa. Đây cũng là dịp để tiệm may âu hóa và ông TYPN có thể lăng xê những mốt trang phục táp bạo nhất có thể ban cho những ai có tang đương đau đớn, vì kẻ chết cũng được hưởng chút ít hạnh phúc ở đời.
Cô Tuyết thì sung sướng vì được mặc bộ y phục Ngây thơ hở cả nách và nửa vú viền đen, đội cái mũ mấn xinh xinh…. Tuyết mời các quan khách rất nhanh nhẹn, trên mặt lại có vẻ buồn lãng mạn rất đúng mốt. Ông Phán mọc sừng lại hả hê vì đã được cụ cố Hồng hứa chia thêm cho vài nghìn đồng. Chính cụ cũng không ngờ giá trị đôi sừng hươu lại to đến như thế. Cậu Tú Tân mừng điên người vì đã sẵn sàng mấy cái máy ảnh mà vẫn chưa được dùng đến. Xuân Tóc Đỏ càng được vênh vang hơn vì nhờ nó mà cụ Cố mới lăn đùng ra chết. (Nó tố cáo ngay trước mặt cụ tội ngoại tình của cô Hoàng Hôn, cháu gái của cụ, và cắm sừng vào đầu ông Phán, cháu rể cụ).
Là cố vấn của báo Gõ Mõ, Xuân còn đem lại danh giá bất ngờ cho đám tang vì đã bổ sung vào sự long trọng sáu chiếc xe chở sư cụ chùa bà Banh, đại diện hội Phật Giáo, báo Gõ Mõ cùng với những vòng hoa đồ sộ… Hạnh phúc còn lan ra cả ngoài gia đình người chết. Cảnh sát Min Đơ, Min Toa được thuê giữ trật tự cho đám tang. Những bạn bè tai to mặt lớn của cụ cố Hồng được dịp khoe khoang sự oai vệ và danh giá của mình, những bội tinh và râu ria… Hàng phố thì vui quá vì mấy khi được xem đám ma to như thể là hội chợ.
Một trong những nét đặc sắc của chương truyện là tả đám đông ồn ào. Láo nháo, nhặng xị. Dường như có ý thức khi vận dụng kĩ thuật điện ảnh, tác giả lùi xa quay toàn cảnh đám tang đang nghiêm chỉnh đi theo quan tài người chết đến tận huyệt với cái điệp khúc đám cứ đi…. Có khi lại dí sát ống kính quay cận cảnh để thấy đây không phải là một đám ma mà là một đám rước, đám hội hết sức vui vẻ. Đám cứ đi nhưng không ai nghĩ đến việc đưa đám. Đến đây không phải để khoe những bộ ngực đầy huân, huy chương và những bộ râu ria oai vệ thì cũng để thì thầm với nhau về những chuyện vợ con, chuyện sắm một cái áo, cái tủ…. Còn bọn thanh niên thì chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau bằng vẻ mặt buồn rầu của người đi đưa đám ma. Màn kịch kết thúc bằng chi tiết hài hước chó đểu. Ông Phán mọc sừng dúi vào tay Xuân 5 đồng thanh toán tiền thuê Xuân tố cáo cái nhục mọc sừng của ông ta.
Số Đỏ là một cuốn tiểu thuyết dùng hình thức giễu nhại, lật tẩy tính chất bịp bợm của những tầng lớp gọi là thượng lưu, trí thức của Hà Nội xưa. Tất cả là một cuộc diễn trò lớn: MỘT CUỘC BÁO HIẾU LINH ĐÌNH NHẤT CỦA MỘT GIA ĐÌNH ĐẠI BẤT HIẾU.
Nghệ thuật trào phúng trong "Hạnh phúc của một tang gia" bài số 10
Vũ Trọng Phụng một trong những cây bút trào phúng bậc thầy của Văn học Việt Nam. Trong các sáng tác của ông nổi bật nổi bật nhất là Số đỏ - tác phẩm có thể đem lại vinh dự cho bất cứ nền văn học nào. Đoạn trích “Hạnh phúc một tang gia” tuy chỉ là trích đoạn ngắn ngủi nhưng cũng đã làm nổi bật tài năng trào phúng bậc thầy của Vũ Trọng Phụng.
Trào phúng là khái niệm để nói việc sử dụng những lời lẽ bóng bẩy, hào nhoáng để chế nhạo những sự vật, hiện tượng, con người đáng cười trong cuộc sống. Tiếng cười được tạo ra khi ta phát hiện ra cái đáng cười, phát hiện mâu thuẫn trào phúng. Trào phúng không chỉ mới xuất hiện trong văn học hiện đại mà trước đó đã có những nhà thơ với các sáng tác đậm tính trào phúng, tự trào như Tú Xương. Vũ Trọng Phụng đã kế thừa và phát huy nghệ thuật trào phúng lên một đỉnh cao mới. Trong đoạn trích này, nghệ thuật trào phúng được thể hiện ở những mâu thuẫn, sự kệch cỡm của những đứa con, đứa cháu trước cái chết của người thân trong gia đình. Cùng với giọng điệu lạnh lùng đã cho thấy ngòi bút châm biếm sắc sảo, vạch trần bộ mặt “chó đểu” của xã hội đương thời.
Tính trào phúng được thể hiện trước hết ở nhan đề của đoạn trích “Hạnh phúc một tang gia”. Nhắc tới đám tang là nhắc đến kẻ ở người đi, là sự biệt li mãi mãi, thường đem đến sự xót thương, đau đớn đến tột cùng. Nhưng ở đám tang này lại khác hẳn, người ta hạnh phúc, sung sướng khi được thỏa mãn ước nguyện. Ngay từ nhan đề của tác phẩm đã thể hiện mâu thuẫn, nghịch lý, đây đồng thời cũng là mẫu thuẫn được triển khai trong toàn bài, để làm nổi bật chủ đề tác phẩm, và thái độ phê phán sâu sắc của tác giả với xã hội.
Để làm tính chất trào phúng được bộc lộ rõ nét hơn, ngòi bút của Vũ Trọng Phụng soi chiếu vào từng chân dung, để thấy được bản chất xấu xa của mỗi người. Hòa với niềm vui chung, khi cụ cố tổ chết đi, bản di chúc vốn lâu nay chỉ được nằm trên giấy thì đến đây đã được đi vào thực hành, mỗi nguời sẽ được chia những gia sản kếch xù. Ai ai cũng như mở cờ trong bụng. Nhưng bên cạnh niềm vui chung đó, mỗi người lại có những niềm vui riêng cho bản thân. Cụ cố Hồng hạnh phúc, sung sướng khi tưởng tượng đến cảnh mình được mặc bộ đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, và để người ta khen: “úi kìa, con giai nhớn đã già thế kìa à”.
Tuy mới ngoài năm mươi tuổi nhưng lúc nào ông Hồng cũng muốn được người ta gọi là cụ. Ông bà Văn Minh thì sung sướng, đây chính là cơ may hiếm có để vợ chồng ông bà tung bộ sưu tập mới, lăng xê những mẫu quần áo âu hóa mới nhất đến với mọi người. Riêng ông Văn Minh được Vũ Trọng Phụng lia máy quay đến cận cảnh, ghi lại khoảnh khắc vò đầu bứt tóc, vô cùng đăm chiêu vì không biết xử lí với Xuân Tóc Đỏ ra sao. Còn người đàn ông chuyên đào mỏ, mang cái sừng to trên đầu lại sung sướng, thỏa mãn khi biết cái sừng trên đầu lại đem đến cho mình những món hời lớn đến như vậy, chính ông ta cũng không ngờ giá trị đôi sừng hươu vô hình trên đầu ông ta mà lại to đến như thế . Cô Tuyết với bộ mặt buồn rầu, rất đúng mốt của nhà có đám, mặc bộ quần áo ngây thơ, hững hờ, nữa kín nửa hở khiến các bạn của cụ cố Hồng không thể rời mắt.
Bộ mặt buồn rầu đó không phải dành cho người đã chết mà là đang trông ngóng người tình – Xuân Tóc Đỏ mãi vẫn chưa xuất hiện. Đối với cậu Tú Tân, niềm vui của cậu là được mang chiếc máy ảnh đã có từ lâu đem vào sử dụng, cậu đã ao ước đến ngày này rất lâu rồi. Không chỉ người trong nhà vui mà những kẻ bên ngoài cũng hết sức sung sướng. Min Đơn Min Toa đang thất nghiệp, bỗng nhận được lời thuê trông đám tang thì vui sướng khôn xiết; đây cũng là cơ hội để bạn bè cụ cố Hồng khoe khoang những huân chương dính đầy trên ngực.
Không dừng lại ở đó, tính chất trào phúng còn được thể hiện đậm nét trong cảnh đám rước tang đông vui, ồn ào như một đám hội, một buổi diễu hành. Đám tang họ cố làm cho thật to, thật hoành tráng để xứng đáng với chữ “hiếu” mà họ muốn bày tỏ với người đã khuất. Đám tang đi đến đâu làm huyên náo đến đó, ai cũng phải trầm trồ về một đám tang tầm cỡ. Kèn tây, kèn ta, kèn tàu, rồi cả lốc bốc xoảng hòa vào nhau tạo nên sự pha tạp, hỗn độn. Giữa lúc đám đang đi thì xuất hiện thêm chiếc xe “trên có sư chùa Bà Banh, xe nào cũng che hai lọng” đi cùng với đó là “hai vòng hoa đồ sộ, một của báo Gõ mõ, một của Xuân”. Khi lia góc máy đến cận cảnh người ta còn hết sức hoảng hốt về những câu chuyện trong đám tang ấy, với gương mặt buồn bã chuẩn mực của đám tang, họ chim chuột nhau, nói xấu người này, kể chuyện người kia, “đám cứ đi” kéo dài theo đó là sư suy đồi, bại hoại về nhân cách và đạo đức. Cả đám tang đó là hội tụ của những nhân cách bị tha hóa, của thói đạo đức giả đang lên ngôi trong xã hội lúc bấy giờ.
Cảnh hạ huyệt cũng là là một trong những cảnh trào phúng đặc sắc không kém. Cậu Tú Tân ra bắt bẻ từng người, đứng kiểu này, đứng dáng nọ sao cho đau khổ nhất để cậu chụp được những bức ảnh hoàn hảo. Nhưng có lẽ đỉnh cao của ngòi bút trào phúng chính là khi Vũ Trọng Phụng tinh mắt nhận ra cuộc mua bán, trao đổi quá đỗi nhanh chóng của ông Phán mọc sừng và Xuân Tóc Đỏ. Tờ tiền gấp làm tư, trong lúc khóc oặt cả người đi, ông Phán Mọc Sừng đã nhanh nhẹn đặt vào tay Xuân, như một lẽ tự nhiên Xuân cất ngay đi để người ta khỏi trông thấy. Quả là sự phối hợp hết sức hài hòa, nhịp nhàng của những diễn viên lão làng.
Để hoàn thiện bức tranh trào phúng ta cũng không thể không nhắc đến ngôn ngữ trào phúng bậc thầy được tác giả sử dụng trong tác phẩm. Ngôn từ được sự dụng tinh tế, có chọn lọc, đúng bản chất sự vật. Đầu tiên là về tên nhân vật: Tuyết ngây thơ, Phán mọc sừng, ông bà Văn Minh, Xuân Tóc Đỏ,… Sử dụng linh hoạt các hình ảnh so sánh hài hước: Cảnh sát không được biên phạt buồn như nhà buôn vỡ nợ; Từ chối việc chạy chữa như những vị danh y biết tự trọng… đã vạch trần bộ mặt đểu giả, bất nhân của xã hội bấy giờ. Giọng văn đậm chất châm biếm: Thật là một đám ma to tát ; Cái chết kia làm cho nhiều người sung sướng lắm… Sự kết hợp linh hoạt các thủ pháp nghệ thuật cùng với tình huống trào phúng đặc sắc, Vũ Trọng Phụng đã vẽ nên một bức tranh vô cùng chân thực về xã hội âu hóa rởm đời, khi mà càng âu hóa con người càng bị mài mòn về nhân tính, càng trở nên giả dối, đểu cáng hơn.
Bằng bút pháp trào phúng đặc sắc, đầy sâu cay, Vũ Trọng Phụng đã thành công khi vạch trần bộ mặt bất nhân của xã hội đương thời. Tiếng cười hài hước, hóm hỉnh lại vô cùng sắc sảo cho thấy sự khinh bỉ đến tột cùng của ông với xã hội âu hóa lố lăng, kệch cỡm của tầng lớp thị dân đương thời.
Nghệ thuật trào phúng trong "Hạnh phúc của một tang gia" bài số 4
Vũ Trọng Phụng là nhà văn hiện thực trào phúng bậc thầy của văn học Việt Nam hiện đại. Ông được mệnh danh là ông vua phóng sự đất Bắc với lối miêu tả chân thật tới tàn ác, trào phúng tới chua xót. Hạnh phúc của một tang gia là một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông. Bằng nghệ thuật trào phúng ông đã khắc họa bức tranh lố bịch về cuộc sống của những người con trong một gia đình.
Nghệ thuật trào phúng là nghệ thuật gây cười nhằm đả kích, mỉa mai, châm biếm những hiện tượng xấu xa trong đời sống. Nó được biểu hiện qua tình huống, chân dung các nhân vật biếm họa, nghệ thuật phóng đại, ngôn ngữ, giọng điệu đầy tính mỉa mai. Hạnh phúc của một tang gia tạo nên sự mâu thuẫn bởi nhắc đến tang gia là nhắc đến gia đình có người mất. Lẽ ra, không khí bao trùm phải là sự ảm đạm, nỗi buồn thương trước sự ra đi của người đã khuất, nhưng ở đây, tác giả lại sử dụng từ hạnh phúc. Hạnh phúc mang một ý nghĩa vui vẻ, sung sướng, là thỏa nguyện được nỗi mong muốn bấy lâu nay chính vì thế mà nó ngụ ý đầy mỉa mai, trách móc. Chính nhan đề đã lột tả tính châm biếm, mỉa mai của một gia đình trước sự ra đi của một ai đó.
Tình huống truyện đặc sắc ở chỗ đoạn trích gắn liền với cái chết thật của cụ cố Tổ. Khi cụ còn sống, cụ đã lập di chúc để chia tài sản cho các con cháu sau khi qua đời, chính điều đó đã tạo nên sức hấp dẫn của con cháu với mong muốn cụ chết thật. Khi cụ cố Tổ ốm, thay vì tìm ra một thầy thuốc giỏi để điều trị thì lại tìm một bác sĩ không đúng chuyên ngành, hàng ngày nguyền rủa cho cụ cố chết thật nhanh để mang cái di chúc đó chia chác nhau. Tình huống còn đặc sắc ở chỗ khi tác giả nói "Ba hôm sau, ông cụ già chết thật", chết thật chứ không phải chết giả nữa khiến cho con cháu vui mừng khôn xiết.
Niềm vui ấy được thể hiện qua những nhân vật biếm họa của câu chuyện. Cụ cố Hồng - con trai trưởng của người quá cố. "Cụ mơ màng đến lúc mặc đồ xô gai chống gậy ho khạc, mếu máo để cụ được phô trương với thiên hạ về gia đình đại phúc con cháu trưởng thành". Đấy là niềm hạnh phúc riêng của cụ cố Hồng, con trai trưởng mong muốn được mặc đồ xô gai khi đáng lẽ ông phải là người không muốn nhất, ông phải là người đau buồn nhất nhưng lại trong trạng thái mơ màng đến kỳ lạ. Bản thân cụ hiểu "trên thông thiên văn dưới tường địa lý" nhưng thực chất lại là một con người không biết một cái gì. Cụ có dịp thỏa mãn lợi ích cá nhân, được mặc sức mà hút thuốc phiện, quát tháo mọi người và người ta đếm đến 1872 câu "biết rồi, khổ lắm, nói mãi". Rồi nỗi lo lắng làm sao để tổ chức cho đứa con gái đám cưới nhanh chóng cho đỡ tốn kém của nhà, để che đậy cái xấu xa, hư hỏng của gia đình danh giá.
Ông Văn Minh - cháu đích tôn của cụ cố Tổ. Ông có niềm hạnh phúc kỳ quái với lý lẽ áp dụng "đúng lúc" và "kịp thời", cái chúc thư đi vào thời kỳ thực hành chứ không còn là lý thuyết viển vông nữa. Cái chết của ông nội là dịp may hiếm có để Văn Minh phô trương tiệm may Âu Hóa của mình. Rồi ông có nỗi niềm lo lắng là làm sao báo đáp công ơn của Xuân tóc đỏ đã có công làm cho ông nội mình chết nhanh nên Văn Minh vò đầu, bứt tóc, vẻ mặt đăm chiêu thật phù hợp với hoàn cảnh đám tang lúc đó.
Cô Tuyết - một cô gái lẳng lơ nhưng luôn cố gắng tỏ vẻ mình là người trinh tiết. Cái chết của cụ cố là dịp để cô chứng minh với thiên hạ rằng mình chưa đánh mất chữ trinh. Cô diện những bộ trang phục ngây thơ đến lố bịch nhất, lả lơi với những vị quan khách tới dự đám tang của cụ cố Tổ. Cô cố gắng đưa mắt nhìn trong đám người tới viếng mà không thấy bạn trai đâu cả, nên cô giận, cô buồn mang vẻ mặt "buồn lãng mạn" khiến ai cũng nghĩ rằng đứa cháu gái thương ông tới chà xát con tim.
Cậu Tú Tân và ông Phán mọc sừng tiêu biểu cho chân dung biếm họa lúc hạ huyệt. Tú Tân vui mừng, hả hê với chiếc máy ảnh nên bắt bẻ mọi người đứng trước cảnh hạ huyệt phải gục đầu, chống gậy, cong lưng... chẳng khác nào một bộ phim có người đạo diễn khó tính để lưu lại cảnh đau buồn giả dối nhất từ trước tới nay. Còn ông Phán mọc sừng thì khóc đến oặt cả người đi mãi không thôi. Tiếng khóc tưởng chua xót vang lên những thanh âm của sự giả dối: "Hứt... hứt... hứt...", một sự lố bịch quá rõ với mục đích dúi tiền cho Xuân Tóc đỏ như một sự liên minh, trao đổi thanh toán một cách sòng phẳng.
Nghệ thuật phóng đại đã được nhà văn sử dụng triệt để miêu tả sự đối lập giữa của con người giữ hình thức với bản chất bên trong. Giọng điệu mỉa mai, hài hước, ngôn ngữ lai căng, ám thị chơi chữ... tất cả để tạo nên một tiếng cười chua xót, lời nguyền rủ chua cay, độc địa trong xã hội thối nát.
Bằng tài năng của mình, Vũ Trọng Phụng đã khắc họa nên một bức tranh phản diện về xã hội phong kiến lúc bấy giờ. Một gia đình với những đại diện tiêu biểu nhất, với mặt trái xấu xa nhất, giả tạo nhất đã được khắc họa thành công. Tác phẩm để lại tiếng vang lớn trong lòng người đọc bởi các tình tiết khiến người ta phải nghĩ suy.
Nghệ thuật trào phúng trong "Hạnh phúc của một tang gia" bài số 5
Số đỏ là một kiệt tác vô tiền khoáng hậu. Nếu coi tác phẩm là một vở đại hài kịch lên án xã hội tư sản thành thị lố lăng đồi bại, giả dối đương thời. Thì đoạn trích “ Hạnh phúc của một tang gia” là một màn hài kịch đặc sắc thể hiện đầy đủ và đậm nét nghệ thuật trào phúng bậc thầy của tác giả.
Đoạn trích là phần đầu chương 15 của tác phẩm xoay quanh cái chết và đám tang cụ Cố Tổ. Xuân Tóc Đỏ có công làm cho cụ già hơn 80 tuổi phải chết một cách bình tĩnh và trở thành ân nhân của đám con cháu bất hiếu. Và cái đám tang to và bậc nhất Hà Thành ấy đã trở thành một kịch trường lý tưởng để cho các nhân vật thỏa sức thể hiện sự lố lăng, đồi bại và tài diễn kịch của mình. Khối căm ghét lớn của Vũ Trọng Phụng đối với xã hội mà ông gọi là “chó đểu”, “khốn nạn” ấy đã nổ thành một trận cười sảng khoái có sức công phá lớn. Ngòi bút kì tài dựng cảnh tả người, tài năng sử dụng ngôn ngữ của Vũ Trong Phụng được phát huy tối đa thành một màn hài kịch đặc sắc bậc nhất thiên truyện.
Nghệ thuật trào phúng là nghệ thuật mỉa mai châm biếm sâu sắc. Và Vũ Trọng Phụng là cây bút trào phúng bậc thầy khi tạo dựng những mâu thuẫn trào phúng điển hình với những cảnh tượng trào phúng đặc sắc phát họa bức chân dung biếm họa với ngôn ngữ trào phúng sâu cay.
Ngay nhan đề chương chuyện do tác giả đặt đã thể hiện mâu thuẫn trào phúng đặc sắc. Nói đến tang gia là nói đến một gia đình có người thân qua đời chắc hẳn phải gắn liền với sự bi thương, đau đớn của những người trong gia đình. Nhất là đám tang của một đại gia đông con nhiều cháu lại càng bội phần trang nghiêm. Tang gia lại đi đôi với hạnh phúc, quả là một nghịch lý ở đời. Hơn thế hạnh phúc lại được cho lên đầu nhấn mạnh một niền hạnh phúc to lớn bất ngờ không nén nổi mà cứ thế bật trào ra. Nghe có vẻ mâu thuẫn nhưng suy nghĩ kỹ cách sắp xếp ngôn ngữ của Vũ Trọng Phụng lại vô cùng hợp lý và chính xác. Trong cái gia đình danh giá và bậc nhất Hà Thành ấy làm gì có chỗ đứng cho chữ “hiếu”, chữ “đạo lí”, mà đâu chỉ trong phạm vi của gia đình ấy mà nhan đề đã nêu bật lên được tính chất đại bất hiều, sự suy đồi đạo đức nghiêm trọng của cả một xã hội thối nát đương thời chạy theo lối sống Âu hóa lố lăng, đồi bại đương thời.
Mâu thuẫn trào phúng tiếp tục triển khai suốt trong đoạn trích, lời bình luận ngoại đề chua chát đã thể hiện điều đó “Cái chết kia …lắm” niềm vui sướng ấy muôn hình muôn vẻ, mỗi người mỗi khác. Nhưng chúng vẫn còn bị kìm nén chưa có cơ hội bật trào ra. Việc đáng lưu tâm, đáng lo bội phần lúc này không phải là chôn cho xong cái xác của cụ Cố Tổ mà là lo cưới chạy tang gả chồng cho cô Tuyết để cứu lấy cái danh giá của gia đình khỉ bị hoan ố. Vũ Trọng Phụng tốn không ít giấy mực để bốc trần một cách cặn kẽ, cụ thể chi tiết cái việc bối rối chẳng hề liên quan đến đám tang kia. Thế mới biết ngòi bút của ông không hề đơn giản. Nếu không có chi tiết bối rối rất hợp mốt của nhà có tàn gia kia thì sự bất hiếu của đám con cháu không khiến độc giả chua xót đến thế. Và sự lố lăng, đồi bại không khiến người ta ghê tởm đến vậy.
Niềm hạnh phúc bị nén chặt nên khi mọi việc tạm thời ổn thỏa chúng mới có cơ hội òa ra bao chum tất cả. Người ta sung sướng lắm, thỏa thích lắm. Trong không khí tưng bừng, náo nhiệt như một ngày hội mỗi người trong gia đình lại có một niềm hạnh phúc riêng vì những lí do riêng. Thật là một niềm hạnh phúc muôn màu, muôn vẻ sinh động và hấp dẫn. Hạnh phúc trong gia đình có tang rất lớn khiến cho nỗi đau tràn ra ngoài. Hai cảnh sát minđơ, mintoa, nhờ cái chết mà có việc làm, hàng phố nhờ có đám tang đó mới có dịp vui vẻ thỏa thích. Chắc ở nơi xuối vàng cụ Cố Tổ cũng hài lòng khi thấy cái chết của mình đem lại hạnh phúc nhiều như thế cho đám con cháu bất biến thật là một mâu thuẫn trào phúng cười ra nước mắt.
Nhưng đám con cháu bất hiếu vô đạo kia lại muốn khẳng định chúng là những người hiếu thảo nhất đời. Đám tang là dịp chúng khoe sự danh giá, khoe sự giàu có, khoe luôn cả sự hư hỏng, vô đạo của mình. Cảnh đưa đám trở thành một cảnh trào phúng đặc sắc.
Ống kính với độ khuếch đại cao cảu Vũ Trọng Phụng đã lùi ra xa. Quay ống kính của tác giả hiện ra toàn cảnh đám ma hỗn độn như một đám rước phô chương sự giả dối lố lắng đến mức kinh tởm. Đó là một đám tang gương mẫu được tổ chức theo món chộn hổ lốn với đủ món nghi thức tây ta tầu với lốc bốc xoảng và lợn quay đi lọng. Nó có đủ mọi thứ trên đời nhưng lại thiếu điều quan trọng nhất để trở thành một đám ma bình thường đó là “tình người”, là sự tiếc thương cho người đã khuất.
“Đám cứ đi …” điệp khúc vang lên với dấu chấm lửng đầy ẩn ý. Người chết cứ việc chết, trong quan tài nếu sung sướng cứ việc gật gù cái đầu, còn người đưa tang có việc của người đưa, một chân dung đám đông hiện lên qua ngòi bút châm biếm đặc sắc của Vũ Trọng Phụng. Vài trăm người đi đưa chẳng ai nghĩ đến người đã khuất đang nằm trong quan tài kía. Đám ma nay đã trở thành một cơ hội vàng để các bà trưng diện, quảng cáo mốt, để các ông đua nhau khoe huân chương râu và ria, để các đôi trai gái tha hồ “chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm nhau, ghen tuông nhau, chê bai nhau”, chúng đú đởn, chim chuột bằng bộ mặt nghiêm chỉnh, rầu rầu cảu người đưa tang. Có hai lớp hình ảnh, hai lớp âm thanh bị ngòi bút của Vũ Trọng Phụng bóc tách tài tình để bộc lộ bản chất thật dưới lớp vỏ ngoài hòa nhoáng. Xen lẫn những tiếng khóc lóc là những lời thì thầm hết sức nhảm nhí bậy bạ “con bé … bỏ mẹ …” Những tiếng thì thầm ấy đã nói lên rất rõ sự đồi bại vô liêm sỉ của những con người vẫn tự xưng văn minh thượng lưu. Đó là một cái chết thật và một đám ma giả.
Ống kính phóng đại của Vũ Trọng Phụng rà soát không thương tiếc tạo nên những bức chân dung biếm họa điển hình về lũ con cháu bất hiếu. Cụ cố Hồng đang mếu máo khóc ngất đi diễn chọn vai của một người con chí hiếu, đống vai già cả trước mặt bàn dân thiên hạ trầm trồ “ Úi con trai lớn đã già đến thế kia” nhưng cảnh tưởng ấy nhàm quá chẳng ai quan tâm. Cậu Tú Tân là diễn viên kiêm luôn vai trò đạo diễn nghiệp dư hạng xoàng, cậu bắt từng người phải chống gậy, gục đầu khom lưng lau nước mắt trong khi đám bạn của cậu thì nhảy lên những ngôi mộ khác nhau để chụp ảnh cho khỏi giống nhau. Các diễn viên đã đống kịch rất tồi.
Chỉ riêng ông cháu rể, ông Phán mọc sừng là đau khổ hơn ai cả, ông khóc oặt đi “hức hốt hốt” thực là một sự thương tiếc cảm động hiếm có. Bạn đọc tưởng chừng đã được an ủi, hóa ra luân lí đạo đức chưa tới mức suy đồi tất cả. Xuân có mặt ở đó cũng không khỏi bực tức trước sự thương tiếc quá chân thành của ông Phán. Phải chăng ông ta đang ân hận về cái sừng vô hình trên đầu mà đã khiến cho cụ cố Tổ uất lên mà chết. Dù thế nào đi nữa ông Phán đúng là một tấm gương con cháu mẫu mực.
Đúng lúc ấy xảy ra một sự việc mà đến cả một kẻ giả dối đến mức thiện nghệ như Xuân cuàng phải giật mình, hóa ra ông Phán khóc lặng người ngã nhất vào tay Xuân chỉ là động tác giả để bí mật dúi cho Xuân món tiền công thuê gã tố cáo việc ông bị cắm sừng nên mới có cái đám ma to tát này. Ông ta phải đưa tiền ngay bên miệng huyệt, làm ăn phải giữ chữ tín, Cháo đã múc – người đã chết nên tiền phải trao. Hóa ra ông Phán ngốc nghếch lại là một diễn viên có hạng thậm chí siêu hạng. Có thể nói đây là chi tiết đỉnh cao của nghệ thuật trào phúng.
Cái tài của Vũ Trọng Phụng là phóng đại mà cứ như không, phóng đại làm cho sự việc rõ ràng hơn, thật hơn và hơn cả thật. Cái giả dối, bịt bợm đã lên đến độ vô liêm sỉ chỉ có ngòi bút trào phúng của mới có thể vạch trần. Vũ Trọng Phụng đã khai thác triệt để mâu thuẫn giữa cái giả và cái thật giữa cái bề ngoài đẹp đẽ với thực chất bề ngoài xấu xa đó vạch trần bản chất xã hội tiếng cười sâu cay.
Nghệ thuật trào phúng còn thể hiện ở việc tác giả sử dụng kết hợp những từ ngữ câu văn theo nghĩa ngược hết một cách bình tĩnh gia đình nề nếp, bày con chí hiếu … xen lẫn với những câu bình luận ngoại đề như: “ Cái chết kia … lắm”, “thật là một đám tang to tát” dẫn đến cái chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng nếu không gật gù cái đầu … trở thành sự hài hước, châm biếm sâu cay.
Giọng điệu tác giả không dấu được sự mỉa mai châm biếm khi khoe các kiểu râu ria đủ loại dài ngắn, đen, hung hung … mà các ông đang trưng bày trên bộ mặt đểu giả của mình. Lối liên kết con ngời, sự vật hay một thứ đồ vật tựa như cái giá để treo áo cái tái để đựng cơm. Lối gọi tên Văn Minh chồng, vợ, minđơ, ông Phan mọc sừng … kết hợp lối so sánh ví von hài hước khiến ta phải cười ra nước mắt.
Đoạn trích xứng đáng là một màn hài kịch xuất sắc phô bày tất cả sự lố lăng đồi bại dả dối của xã hội của xã hội thượng lưu đang chạy theo lối sống Âu hóa đương thời. Ngòi bút kì tài của Vũ Trọng Phụng đã xoáy sâu những mâu thuẫn trào phúng điển hình phóng đại không thương tiếc những bức chân dung biếm họa. Ném vào cái xã hội mục duỗm, thối nát ấy một khối căm phẫn lớn với một giọng điệu mỉa mai châm biếm sâu cay và một ngôn ngữ trào phúng bậc thầy cùng với các chương khác của “ Hạnh phúc một tang gia” đã tạo nên “ Số đỏ” một kiệt tác có một không hai của văn học trào phúng Việt Nam đương đại.
Nghệ thuật trào phúng trong "Hạnh phúc của một tang gia" bài số 8
Từ lâu nhiều người đã kể Số đỏ của Vũ Trọng Phụng vào hàng những tác phẩm xuất sắc nhất của thể loại trào phúng trong văn xuôi Việt Nam. Với Số đỏ, người đọc được cười từ đầu đến cuối, cười một cách hả hê. Nhưng cũng với Số đỏ người đọc phải phẫn uất mà kêu lên: Trời! Cái xã hội gì mà giả dối, bịp bợm đến thế, bất nhân, bạc ác đến thế!
Đọc Số đỏ, người ta nghĩ, đây đúng là đất cho ngón võ sở trường của Vũ Trọng Phụng. Trong tác phẩm này, ngón võ ấy đã được sử dụng hết sức lợi hại trong một chương, chương XV, có nhan đề là "Hạnh phúc của một tang gia". Ngón võ ấy là ngón gì, ấy chính là nghệ thuật tạo mâu thuẫn. Thật ra không phải Vũ Trọng Phụng tạo ra mâu thuẫn. Mâu thuẫn vốn tự có trong bản chất xã hội, và nhà văn họ Vũ với cái nhìn sắc như dao của mình, với cái tài của một “ông vua phóng sự” bẩm sinh đã nhận ra nó, chỉ nó ra, nâng nó lên cho cả toàn dân thiên hạ thấy để cười, để căm ghét và khinh bỉ nó.
Cách đặt nhan đề chương sách của Vũ Trọng Phụng đã lạ lùng, đầy mâu thuẫn: Hạnh phúc của một tang gia. Tang gia mà cũng hạnh phúc à? Tang gia mà cũng có thể hạnh phúc được ư? Cái chết của người thân gia đình có thể đem lại cho người ta hạnh phúc được sao? Nếu chỉ đọc nhan đề, người ta có thể nghĩ là nhà văn đã bịa ra một cách ác ý bằng sự kết hợp của hai khái niệm hoàn toàn đối lập ấy. Nhưng không, đó không phải là ác ý của nhà văn, đó là sự thật của đời sống, sự thật của xã hội mà nhà văn muốn mổ xẻ ra để mọi người nhìn thấy nó tận mắt.
Mọi sự bắt đầu từ cái chết của một ông già. Ông già ấy là cha, là ông của "một gia đình đông đảo và đáng kính" của một xã hội “thượng lưu”. Cả cái gia đình ấy đã "nhao lên mỗi người một cách". Nhưng nhao lên vì đau khổ, vì đau đớn, vì lo lắng... trước cái chết của người thân chăng? Không phải, chúng đã nhao lên vì.... hạnh phúc! "Cái chết kia đã làm cho nhiều người sướng lắm'': Câu văn tưởng chừng như ngược đời kia của Vũ Trọng Phụng đã thâu tóm tất cả mọi thứ "thế thái nhân tình".
Nhận định ấy không hề là một sự bịa đặt cho vui của nhà văn. Sự thật rất rành rành cụ thể. Ông Phán mọc sừng sau cái chết của ông nội vợ, bỗng thấy cái "sự mọc sừng" của mình tăng giá lên vài nghìn đồng. Cụ cố Hồng sung sướng "mơ màng đến cái lúc mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy vừa ho khạc, vừa khóc mếu" để được người ta ngợi khen "một cái đám ma như thế, một cái gậy như thế,...". Còn ông Văn Minh, cháu đích tôn, nhà cải cách xã hội? Ông ta sung sướng tột đỉnh bởi vì với cái chết của ông nội, ông ta thấy rằng tờ di chúc đã được thực hiện, nghĩa là cái ao ước cho ông nội mình chết đi để được chia của đã trở thành sự thật. Bà Văn Minh sung sướng theo đúng cách của một phụ nữ tân thời, bà ta nhận ra từ cái chết của ông nội chồng một dịp may hiếm có để có thể mặc "trang phục tân thời'', "đồ xô gai tân thời", "những sáng tạo mốt mới" của tiệm may Âu hoá!
Tâm địa của lũ người kia tưởng đến thế là tởm và lố bịch. Nhưng chưa hết, đến đây, Vũ Trọng Phụng còn đẩy lên một tầng nữa. Bởi bọn con cháu bất hiếu nhất trần đời đó còn muốn tỏ ra mình là kẻ có hiếu, có thảo cũng nhất trần đời nữa kia. Thế là dưới ngòi bút của nhà văn trào phúng, sự bịp bợm cao nhất, đáng phỉ nhổ nhất cũng bộc lộ ra. Những kẻ mong cho ông già mau chết đã tổ chức một đám ma thật to để bày tỏ lòng hiếu thảo, tiếc thương đối với người đã chết! Chính vì thế ngòi bút của Vũ Trọng Phụng tập trung sức mạnh như có thần trong phần thứ hai của chương sách - phần tả cảnh đám ma.
Trước hết nhà văn tả cô Tuyết, một cô gái hư hỏng nhưng chỉ "hư hỏng một nửa", một thiếu nữ đang rất tiêu biểu cho xã hội "tân thời ngày ấy". Tuyết mặc bộ trang phục nửa kín nửa hở, với nét mặt đó, "vẻ buồn lãng mạn" vì nhớ nhân tình chứ không phải vì thương người chết, đã gây một hiệu quả lạ lùng. Các vị tai to mặt lớn đi đưa đám chỉ nhìn vào vẻ khêu gợi của Tuyết để mà cảm động, cứ như thực sự cảm động trước nỗi buồn tang tóc vậy.
Đám ma to thật, to đến mức "có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng". Người ta đã lợi dụng đám ma đến mức cao nhất để khoe giàu, khoe sang và để khoe lòng hiếu thảo giả vờ của mình. Nếu như mong muốn của tất cả đám con của người chết kia là trong đám ma này đưa sự giả dối, bịp bợm đồng thời là sự tàn nhẫn bất nhân, đểu giả của mình lên đến mức hoàn toàn thì quả thực chúng đã đạt được một cách trọn vẹn, xuất sắc.
Nhưng chưa hết. Dưới mắt Vũ Trọng Phụng, cái lũ người giả dối không chỉ bao gồm một nhóm nhỏ ấy. Chúng đông đảo lắm. Chúng là toàn xã hội văn minh Âu hoá. Bắt đầu là hai nhà đại diện cảnh sát, nghĩa là đại diện của nhà nước, thầy Min Đơ và thầy Min Toa. Tác giả đã nói lên vẻ mừng rỡ hí hửng của hai thầy khi được chủ nhà đám ma thuê làm người giữ trật tự. Lí do của sự mừng rỡ, duy nhất chỉ là vì họ đang không có việc gì để làm và đang "buồn như nhà buôn sắp vỡ nợ". Thứ đến là các vị tai to mặt lớn, lớp' "hoa" của giới thượng lưu xã hội, mặt mũi sang trọng; người đeo đầy đủ các thứ "hội rinh". Trong đám ma này, sự cảm động của họ không phải là đã nhớ đến người đã khuất, cũng không phải vì tiếng kèn đưa ma não ruột bi ai, mà chỉ vì... được ngắm không mất tiền làn da trắng thập thò trong làn áo mỏng của cô Tuyết.
Sự xuất hiện của hai tên đại bịp là Xuân Tóc Đỏ và sư ông Tăng Phú trong dịp này lại khiến người ta cảm động đến cực điểm. Vì sao? Vì với sáu chiếc xe kéo và những vòng hoa đồ sộ hai kẻ này đã làm cho đám ma thêm long trọng, to tát. Đến bà cụ cố Hồng, có lẽ là người lương thiện nhất trong cái gia đình vừa hư hỏng vừa đại bịp ấy, cũng cảm động đến hớt hải lên.
Những người đi đưa đám thật đông đảo. Bằng điệp khúc "Đám cứ đi..." được nhắc lại đến mấy lần, tác giả như muốn nói, đám ma thật là to, thật là đông, thiên hạ tha hồ mà chiêm ngưỡng để thấy rõ sự to tát của nó. Nhưng cứ thử tìm xem trong đám người đông đảo ấy có ai là người đang thực sự "đi đưa đám", nghĩa là có chút tiếc thương đối với người chết mà họ đang đưa tiễn? Không có ai cả, tất cả mọi người, đàn ông cũng như đàn bà, già cũng như trẻ, tuy đang giữ một vẻ nghiêm chỉnh, nhưng đều đang nói một điều gì đó, nghĩ một điều gì đó không dính dáng đến người chết và đám ma cả. Trai thanh gái lịch thì chim nhau, bình phẩm, chê bai nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau... nhưng tất cả đều "mang vẻ mặt buồn rầu của người đi đưa đám ma".
Thật là nhẫn tâm, thật là vô liêm sỉ. Ta sẽ nghĩ như thế. Nhưng, với Vũ Trọng Phụng có nghe được những lời mà họ nói với nhau mới thấy sự vô liêm sỉ còn trơ tráo đến mức nào mà nhà văn đã đưa ra một số lời ấy. "Đám cứ đi..." có nghĩa là sự vô liêm sỉ ấy không hề khép lại, nó còn kéo dài. Đến lúc đám tang không "cứ đi" nữa mà dừng lại để hạ huyệt, Vũ Trọng Phụng còn hiến cho người đọc hai chi tiết đặc sắc, đẩy cảnh đưa đám này lên đến đỉnh điểm. Chi tiết thứ nhất là cảnh câu Tú Tân bắt bẻ từng người một làm những động tác, giữ những tư thế đau buồn để cho cậu ta... chụp ảnh.
Chi tiết thứ hai là ông Phán mọc sừng, cái kẻ giả dối và vô liêm sỉ nhất trong cái gia đình này đã khóc đến tưởng chừng ngất đi. Tuy vậy, giữa lúc oằn người khóc lóc, chính ông ta đã giúi vào tay Xuân Tóc Đỏ món tiền năm đồng vì đã có công gọi ông ta là "người chồng mọc sừng" (chính là cái công gián tiếp khiến cho ông già chết). Thật là những kịch sĩ thượng hạng của những tấn trò đời. Hai chi tiết ấy đóng lại một cách trọn vẹn và sắc sảo chương nói về sự giả dối của con người.
Những điều Vũ Trọng Phụng viết trong trang sách là thật ư? Nhưng những điều ấy vô lí lắm mà và hình như đều có thật cả. Ngòi bút Vũ Trọng Phụng đúng là sắc như dao. Đằng sau những lời nói như đùa, những cảnh trào phúng cười ra nước mắt, sự thật của đời sống cứ hiện ra lồ lộ mà trên nó nổi lên hai điều lớn nhất: Sự tàn nhẫn và sự dối trá.
Nghệ thuật trào phúng trong "Hạnh phúc của một tang gia" bài số 7
Là một nhà văn xuất sắc của nền văn học hiện thực phê phán, Vũ Trọng Phụng không chỉ là Ông vua phóng sự đất Bắc mà còn là một cây bút trào phúng đặc sắc nhất. Mỗi chương trong tác phẩm là một màn hài kịch. Chương XV Hạnh phúc một tang gia là màn hài kịch tiêu biểu.
Hiệu quả trào phúng của đoạn trích Hạnh phúc một tang gia tạo lên bởi sự phát huy hiệu quả của hàng loạt các yếu tố trào phúng: mâu thuẫn trào phúng, những chân dung trào phúng. Những lời văn, giọng điệu trào phúng. Không có chi tiết nào không hướng tới mục đích bóc trần những sự lố lăng trong tang gia tràn trề hạnh phúc này.
Để dàn dựng màn hài kịch nhà văn trước hết đã phát hiện ra mâu thuần trào phúng. Mâu thuẫn trào phúng trong chương truyện này được gợi ra trước hết ở cái tên của nó: Hạnh phúc một tang gia. Tang gia và hạnh phúc là hai căn từ ngữ đối nhau. Nói đến tang gia là nói đến một gia đình vừa có người thân mất. Theo quy luật tâm lí thông thường hẳn tang gia phải bao trùm cái không khí khổ đau, sầu thương não nề bời mỗi khi một ngọn nến đời tắt đi là để lại bao vết thương cho người sống. Vậy mà trong tang gia của một gia đình được xem là danh giá nhất Hà thành, trước cái chết của một người Ông, người cha (cụ tổ) chẳng đứa con cháu nào của cụ sầu não, tiếc thương cả. Trái lại, cái chết ấy như đã đem đến một nguồn hạnh phúc to lớn không nén nổi cứ tuôn ra, trào ra.
Tang gia mà hạnh phúc. Đó là chuyện là đời nhưng lại có thật. Vì sao cái chết của cụ tổ lại là hạnh phúc của cái tang gia đại bất hiếu này? Ấy là vì cụ tổ có một gia tài kếch xù. Bao ngày lũ con cháu hau háu trông đợi phần mình. Cụ cố Hồng chưa có dịp tỏ ra sự rộng rãi và biết điều của mình đối với bầy con trai, con gái, dâu, rể... Họ từng muốn giết chết cụ bằng bài thuốc Thánh nhưng cụ vẫn chưa chịu chết. Bây giờ mơ ước trở thành sự thực lẽ nào họ không vui. Cũng như Vũ Trọng Phụng nhận xét: Tang gia ấy ai ai cũng vui vẻ cả hoặc cái chết ấy làm cho nhiều người sung sướng lắm.
Mâu thuẫn trào phúng không chỉ thể hiện ở tâm trạng mong cụ tổ chóng chết hay ở không khí chuẩn bị tang lễ mà còn thể hiện rõ nét ở hình thức tổ chức đám tang. Có thể nói âm điệu bi thương lẽ ra phải có ở một đám tang đã thay thế bằng âm điệu náo nức phấn khởi. Nhà văn đã nêu lên một giả định có ý châm biếm chua chát: Thật là một đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu. Quả là ở thời buổi nhố nhăng này người ta đã quen sống trong sự lừa dối, rất thích lừa dối và thật sự hài lòng khi bị lừa dối.
Trong màn hài kịch này còn có một chi tiết đặc sắc nữa tô đậm mâu thuẫn trào phúng đã nói. Đó là khi cụ tổ chết, người ta quan tâm việc mai táng cái xác chết ấy thì ít mà lo lắng bàn bạc việc chôn cái xác sống của cô Tuyết cùng cai tiếng hư hỏng của cô thì nhiều. Đám tang bị trì hoãn là vì thế. Người ta còn bận thu xếp cho êm ả chuyện cô tiểu thư hư hỏng, còn bận bịt tiếng xâu xa có thể làm tổn hại đến danh giá tang gia. Trong khi quan tâm tô đậm mâu thuẫn trào phúng, Vũ Trọng Phụng còn 1 đồng thời vẽ lên nhiều bức chân dung trào phúng đặc sắc.
Trước hết là cụ cố Hồng với câu nói cửa miệng: Biết rồi, khổ lẩm, nói mãi. Xưa nay cụ mới chỉ được diễn trò già yếu ở nhà, giờ cụ được ra mắt trước đám đông: Cụ cố Hổng đã nhắm nghiền mắt lại mơ màng đến lúc cụ mật đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu để cho thiên hạ phải chỉ trỏ: úi giời ơi, trai lớn đã già đến thế kia kìa. Cô Tuyết thì sung sướng được mặc bộ y phục ngây thơ - cái áo voan mỏng với cái tráp trầu cau và thuốc lá mời khách với vẻ buồn lãng mạn rất đúng mốt.
Thật đáng cười cho chân dung trào phúng của ông Phán mọc sừng, ông là kẻ vớ bở nhờ cái chết của cụ tổ. Có vẻ như nhờ thế mà ông bộc lộ nồi đau xót của mình một cách ồn ào hơn ai hết: ông oặt người khi khóc mãi không thôi: Hứt. Hứt!. Nhưng trào phúng thay khi ông Phán dúi vào tay Xuân tờ bạc năm đồng. Màn kịch của ông Phán bị lột trần. Đây cũng là dịp may hiếm có để tiệm may Âu hóa và ông Typn có thể lăng xê những mốt trang phục mà có thể ban cho những ai có tang thương đau đớn vì kẻ chết cũng được chút ít hạnh phúc ở đời. Cậu tú Tân thì mừng quá và đang điên người lên vì đã sẵn sàng mấy cái máy ảnh mãi mà không được dùng đến. Còn Xuân Tóc Đỏ càng vênh váo vì nhờ hắn mà cụ Tổ lăn đùng ra chết.
Hạnh phúc lan tràn cả ra ngoài gia đình người chết: Hai viên cảnh sát Min Đơ và Min Toa đang thất nghiệp bỗng được thuê giữ trật tự... Bạn bè cụ cố Hồng có điều kiện khoe khoang sự oai vệ của mình... Một trong những nét đặc sắc của ngòi bút trào phúng Vũ Trọng Phụng là sự thể hiện đám đông. Tác giả lùi ống kính thật xa quay toàn cảnh đám tang với điệp khúc đám cứ đi. Có khi tác giả lại quay cận cảnh để vạch trần bản chất nhố nhăng giả tạo của đám tang này. Vũ Trọng Phụng đã thể hiện ngôn ngữ trào phúng khi miêu tả một số kiểu râu ria của các cụ: Có cụ râu lún phún rầm rậm, có vị râu hung hung, lại có vị râu loăn xoăn... Các cụ ấy đã thực sự cảm động vì làn da trắng nơi ngực và cánh tay cô Tuyết. Đến đưa ma cụ tổ phần đông là trai thanh gái lịch đất Hà thành ngàn năm văn hiến, đến với đám cốt để chim nhau, hò hẹn nhau... nói với nhau đủ chuyện hàng ngày, cho nên đám ma đông là thế, ồn ào náo nhiệt là vậy.
Nghệ thuật trào phúng bậc thầy của Vũ Trọng Phụng còn hiện ra ở giọng điệu trong chương truyện. Nhà văn sử dụng giọng kể dửng dưng, giễu cợt, thậm chí bằng những lời ác khẩu. Luôn luôn có sự khập khiễng giữa sự vật được nói tới với giọng điệu câu văn: Ông già hơn tám mươi tuổi phải chết một cách bĩnh tĩnh Bầy con cháu chí hiếu chỉ nóng ruột đem chôn cho chóng cái xác chết cụ tổ; điệp khúc đám cứ đi..., tiếng khóc cũng nhại lại đầy sự châm biếm: Hứt!.. Hứt... Hứt!.
Tất cả những thành công đó chỉ có được ở cây bút trào phúng bậc thầy của Vũ Trọng Phụng một xã hội nhố nhăng thị thành hiện lên chân thực sinh động. Nhà văn đã bóc trần bản chất xấu xa, thói lừa bịp rởm đời chạy theo lối sống thị thành của hàng loạt người. Ngòi bút châm biếm của ông có sức mạnh ghê gớm bắt nguồn tư chính sự phẫn uất của ông trước xã hội thực dân phong kiến - xã hội mà ông gọi là chó đểu.
Bằng tài năng, nghệ thuật trào phúng bậc thầy, qua việc tả người, dựng cảnh, sử dụng các chi tiết nghệ thuật biếm họa chân dung, ngôn ngữ hài hước... Chương truyện Hạnh phúc một tang gia như một làn roi quất mạnh vào xã hội thượng lưu tiểu tư sản thành thị hết sức lố lăng, đồi bại, nổi bật là sự giả dối. Đám tang của cụ tổ là cuộc hành quân đi xuống mồ chôn của xã hội chó đểu này.
Nghệ thuật trào phúng trong "Hạnh phúc của một tang gia" bài số 6
Nhắc đến Vũ Trọng Phụng, người ta không chỉ nhớ đến một "ông vua phóng sự đất Bắc" mà còn nhớ đến một cây bút trào phúng độc đáo. Ông còn có tài sở trường xây dựng kiểu nhân vật đám đông. Sự kết hợp tài tình giữa chất trào phúng và sở trường xây dựng nhân vật kiểu đám đông này đã đem đến cho ta một tác phẩm được coi là kiệt tác của văn xuôi Việt Nam trước 1945. Mỗi chương trong tác phẩm là một màn hài kịch và chương XV với tên gọi Hạnh phúc của một tang gia là một màn tiêu biểu.
Chất trào phúng trong đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia tạo bởi sự phát huy hiệu quả của hàng loạt các yếu tố trào phúng: mâu thuẫn trào phúng, những chân dung trào phúng. Những lời văn, giọng điệu trào phúng. Không có chỉ tiết nào không hướng tới mục đích bóc trần sự lố lăng trong tang gia tràn trề hạnh phúc này.
Để dàn dựng màn hài kịch, nhà văn trước hết đã phát hiện ra mâu thuẫn trào phúng. Mâu thuẫn trào phúng trong chương truyện này được gợi ra trước hết là cái tên của nó: Hạnh phúc của một tang gia. Tang gia và hạnh phúc là cặp từ ngữ đối nhau. Nói đến tang gia là nói đến một gia đình vừa có người thân mất. Theo quy luật tâm lí thông thường hẳn tang gia phải bao trùm cái không khí khi đau, sầu thương não nề bởi mỗi khi một ngọn nến đời tắt đi là để lại bao đau thương cho người sống. Vậy mà trong tang gia của một gia đình được xem là danh giá nhất Hà thành, trước cái chết của một người ông, người cha (cụ tổ) chẳng đứa con nào của cụ sầu não, tiếc thương cả. Trái lại, cái chết ấy như đã đem đến một nguồn hạnh phúc to lớn không nén nổi cứ tuôn ra, trào ra.
Tang gia và hạnh phúc. Đó là chuyện lạ đời nhưng lại có thật. Vì sao cái chết của cụ tổ lại là hạnh phúc của cái tang gia đại bất hiếu này? Ấy là vì cụ tổ có một gia tài kếch xù. Bao ngày lũ con cháu hau háu trông đợi phần mình, cụ cố Hồng chưa có dịp tỏ ra sự rộng rãi và biết điều của mình đối với bầy con trai con gái, dâu, rể.... Họ từng muốn giết cụ bằng bài thuốc Thánh nhưng cụ vẫn chưa chịu chết. Bây giờ mơ ước trở thành sự thực lẽ nào họ không vui. Đúng như Vũ Trọng Phụng nhận xét: Tang gia ấy ai ai cũng vui vẻ cả hoặc cái chết làm cho nhiều người sung sướng lắm.
Mâu thuẫn trào phúng không chỉ thể hiện ở tâm trạng mong cụ tổ chóng chết hay ở không khí chuẩn bị tang lễ mà còn thể hiện rõ nét ở hình thức tổ chức : đám tang. Có thể nói âm điệu bi thương lẽ ra phải có ở một đám tang đã bị thay thế bằng âm điệu náo nức phấn khởi. Nhà văn đã nêu lên một giả định có ý châm biếm chua chát: Thật là một đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu. Quả là ở thời buổi nhố nhăng này người ta đã quen sống trong sự lừa dối, rất thích lừa dối và thật sự hài lòng khi bị lừa dối.
Trong màn hài kịch này còn có một chi tiết đặc sắc nữa tô đậm mâu thuẫ: trào phúng đã nói. Đó là khi cụ tổ chết, người ta quan tâm việc mai táng cái xác chết ấy thì ít mà lo lắng bàn bạc việc chôn cái xác sống của cô Tuyết cùng cái tiếng hư hỏng của cô thì nhiều. Đám tang bị trì hoãn là vì thế. Người ta còn bận thu xếp cho êm ả chuyện cô tiểu thư bị hư hỏng, còn bận bịu tiếng xấu xa có thể làm tổn hại đến danh giá tang gia. Trong khi quan tâm tô đậm mâu thuẫn trào phúng, Vũ Trọng Phụng còn đồng thời vẽ lên nhiều bức chân dung trào phúng đặc sắc.
Trước hết là cụ cố Hồng với câu nói cửa miệng: Biết rồi, khổ lắm, nói mãi. Xưa nay cụ chỉ mới chỉ được diễn trò già yếu ở nhà, giờ cụ được ra mắt trước đám đông: Cụ cố Hồng đã nhắm nghiền mắt lại mơ màng đến lúc cụ mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu để cho thiên hạ phải chỉ trỏ: úi giời ơi, con trai lớn đã già đến thế kia kìa.
Tuyết thì sung sướng được mặc bộ y phục Ngây thơ - cái áo dài voan với cái tráp trầu cau và thuốc lá mời khách, trên mặt lại hơi có một vẻbuồn lãng mạn rất đúng mốt.
Còn ông Phán mọc sừng chân dung ông hiện lên cũng không kém phần nực cười. Ông là kẻ vớ bở nhờ cái chết của cụ Tổ. Có vẻ như nhờ thế mà ông bộc lộ niềm đau xót của mình một cách ồn ào hơn ai hết: Ông oặt người đi và khóc Hứt!....hứt... Nhưng mỉa mai thay khi ông Phán dúi vào tay Xuân tờ bạc năm đồng. Màn kịch của ông Phán đã bị lột trần. Đây cũng là dịp may hiếm có để tiệm may Âu hóa và ông Typn lăng xê những mốt thời trang, ban cho những ai có tang đương đau đớn những mốt mới tiệm ông, bởi thế đó cũng được coi là vì kẻ chết chút ít hạnh phúc ở đời. Cậu Tú Tân thì mừng quá, bởi cậu đang điên người lên vì đã sẵn sàng mấy cái máy ảnh mãi mà không được dùng đến.
Còn Xuân Tóc Đỏ càng vênh váo vì nhờ hắn mà cụ Tổ lăn đùng ra chết. Hạnh phúc lan tràn cả ra ngoài gia đình, người chết làm bao người khác được thơm lây: Hai viên cảnh sát Min Đơ và Min Toa đang thất nghiệp bỗng được thuê giữ trật tự.... Bạn bè cụ cố Hồng có điều kiện khoe khoang sự oai vệ của mình... Một trong những nét đặc sắc của ngòi bút trào phúng Vũ Trọng Phụng là sự thể hiện nhân vật đám đông. Tác giả lùi ống kính thật xa quay toàn cảnh đám tang với điệp khúc đám cứ đi... Có khi tác giả lại quay cận cảnh để vạch trần bản chất nhố nhăng giả tạo của đám tang này. Vũ Trọng Phụng đã thể hiện ngôn ngữ trào phúng khi miêu tả một số kiểu râu ria của các cụ: Có cụ râu lún phún rầm rậm, có vị râu hung hung, lại có vị râu loăn xoăn... Các cụ ấy đã thực sự cảm đông vì làn da trắng nơi ngực và cánh tay cô Tuyết. Đến đưa ma cụ tổ phần đông là trai thanh gái lịch đất Hà thành ngàn năm văn hiến, đến với đám tang cốt để chim nhau, hò hẹn nhau.... nói với nhau đủ chuyện hàng ngày, từ chuyện mình đến chuyện người, nào là "con bé nhà ai kháu thế... cái thằng bạc tình bỏ mẹ... gớm cái ngực đầm quá đi mất"... Bởi vậy đám ma đông là thế, ồn ào náo nhiệt là thế.
Nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng còn hiện ra ở giọng địệu trong chương truyện. Nhà văn sử dụng giọng kể dửng dưng, giễu cợt, thậm chí bằng những lời ác khẩu. Luôn luôn có sự khập khiễng giữa sự vật được nói tới giọng điệu câu văn: Ông già hơn tám mươi tuổi phải chết một cách bình tĩnh. Bầy con cháu chí hiếu chỉ nóng ruột chôn cho chóng cái xác chết cụ tổ. Điệp khúc : cứ đi tiếng khóc cũng nhại lại đầy sự châm biếm: Hứt!... Hứt!... Hứt!.
Tất cả những thành công đó chỉ có được ở một cây bút trào phúng bậc thầy. Qua những trang văn của Vũ Trọng Phụng cả một xã hội nhố nhăng thị thành hiện lên chân thực sinh động. Nhà văn đã bóc trần bản chất xấu xa, thói lừa bịp rởm đời chạy theo lối sông đua đòi Tây hoá của hàng loạt người. Ngòi bút châm biếm của Vũ Trọng Phụng có sức mạnh ghê gớm bắt nguồn từ chính sự phẫn uất của ông trước xã hội thực dân phong kiến - xã hội mà ông gọi là chó đểu.
Qua việc miêu tả người, dựng cảnh, sử dụng các chi tiết nghệ thuật biếm họa, chân dung, ngôn ngữ hài hước, nét đặc biệt của cây bút trào phúng bậc thầy thể hiện rõ. Nó như một làn roi quất mạnh vào xã hội thượng lưu tiểu tư sản thành thị hết sức lố lăng, đồi bại, nổi bật là sự giả dối. Đám tang của cụ cổ là cuộc hành quân đi xuống mồ của xã hội chó đểu này. Đồng thời lại tôn vinh một cây bút trào phúng bậc thầy của văn học Việt Nam trước năm 1945 - Vũ Trọng Phụng.
Nghệ thuật trào phúng trong "Hạnh phúc của một tang gia" bài số 9
Vũ Trọng Phụng là cây bút bậc thầy của nghệ thuật trào phúng. Vốn sẵn cái tài tình, cái sắc lạnh của một ông vua phóng sự Bắc kì, ông dường như được thỏa sức trong thế giới nghệ thuật ấy. Và Số đỏ là một minh chứng cho những sáng tạo không mệt mỏi của ông. Tác phẩm là đỉnh cao trong nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng, mà trong đó nếu coi thiên truyện là một màn đại hài kịch về xã hội thượng lưu thành thị trước Cách mạng tháng Tám 1945 thì chương truyện thứ XV, với cái tên độc đáo Hạnh phúc của một tang gia là một màn hài kịch đặc sắc nhất. Ở đó, tất thảy những giá trị của nghệ thuật trào phúng được nhà văn thể hiện một cách xuất sắc nhất.
Nghệ thuật trào phúng là nghệ thuật gây cười nhằm đả kích, châm biếm những hiện tượng xấu xa trong đời sống xã hội. Nó được biểu hiện qua việc xây dựng những mâu thuẫn trào phúng, nhân vật trào phúng, cảnh tượng trào phúng, ngôn ngữ trào phúng, giọng điệu trào phúng… Trong tác phẩm Số đỏ nói chung và đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia nói riêng, nhà văn Vũ Trọng Phụng đã tạo nên chất trào phúng dựa trên những yếu tố đó, thậm chí còn đạt đến đỉnh cao.
Trong chương truyện Hạnh phúc của một tang gia, mâu thuẫn trào phúng được thể hiện qua nhan đề và tình huống trào phúng. Chắc hẳn người đọc không khỏi bất ngờ, tò mò và buồn cười vì cái tên chương truyện có một không hai này.
Hạnh phúc là một trạng thái cảm xúc sung sướng, vui mừng khi đạt được điều mình mong muốn, còn tang gia là thời khắc đau buồn, xót thương vì trong gia đình có người thân qua đời. Hai thứ vốn hoàn toàn đối lập, không thể đi liền với nhau, vậy mà giờ đây nó lại còn được đặt trong mối quan hệ sở hữu qua từ của. Trong tang gia lại có hạnh phúc, hay hạnh phúc xuất phát từ tang gia. Điều này thật nghịch lý, trớ trêu và quá hài hước. Nhưng đó lại là sự thật và không hề vô lý chút nào, khi câu văn mở đầu cho chương truyện được cất lên: Ba hôm sau cụ già chết thật. Người chết theo quy luật sinh lão bệnh tử cũng là lẽ thường tình.
Vậy mà sao nhà văn lại dùng từ thật? Nghĩa là cụ già ấy đã từng chết giả? Nghe thật nực cười, nhưng đúng là như vậy, sau nhiều lần ốm thập tử nhất sinh, đám con cháu trong gia đình lo toan hết ông lang băm đến ông lang tây, thuốc nọ thuốc kia… mà cuối cùng ông cụ vẫn chưa chết. Bởi chúng đang mong ngóng từng ngày cụ từ giã cõi đời để còn được chia chác cái gia tài kếch xù. Vậy nên chúng vô cùng bất ngờ và mừng rỡ vì hôm nay cụ chết thật sau ba ngày chạy chữa. Cái chết ấy làm cho nhiều kẻ sung sướng lắm! Nhan đề và tình huống ấy đã tạo nên cái chất trào phúng vô cùng độc đáo. Người thân lại vui mừng, phấn khởi khi trong nhà có tang!
Và thế là bao nhiêu bộ mặt giả dối của đám con cháu trong gia đình thượng lưu bậc nhất đất Hà thành ấy được nhà văn khắc họa đầy mỉa mai, châm biếm trong đám tang của cụ cố tổ. Mở màn là cụ cố Hồng – con giai nhớn của người mất. Ở địa vị này, ông ta phải là người đau buồn nhất, vì người cha đã không còn. Ông tỏ ra “buồn đau” thật khi mơ màng nghĩ đến cảnh tượng mặc đồ xô gai, miệng ho khạc, mếu máo, được dân tình bàn tán: “Úi kìa, con giai nhớn đã già đến thế kia kìa!”. Trong cơn bối rối vì cha mất, ông không thể kiềm chế được mà hút đến sáu mươi điếu thuốc phiện, nói một nghìn tám trăm bảy mươi hai câu: “Biết rồi khổ lắm nói mãi”. Kẻ luôn tự nhận “trên thông thiên văn, dưới tường địa lí” ấy thực chất chả biết cái gì. Ngày cha mất, ông ta hiện ra nguyên hình chân tướng của một kẻ háo danh, bất hiếu. Tiếp đến là ông Văn Minh, con trai cụ cố Hồng và là cháu trưởng của người mất.
Cái vẻ đăm đăm chiêu chiêu rất hợp với gia đình có tang ấy lại không phải là nỗi buồn, mà Văn Minh còn bao nhiêu nỗi bối rối cần giải quyết. Ông ta sốt ruột vì sao luật sư còn chưa đến để chuyển cái chúc thư kia từ thời kì lý thuyết sang thực hành. Ông ta băn khoăn vì không biết xử trí thế nào với Xuân Tóc Đỏ kẻ có hai cái tội nhỏ là tố cáo tội hoang dâm của một người em gái ông và quyến rũ một người em gái khác của ông nhưng lại có một cái ơn to vì câu nói: “Thưa ngài, ngài là một người chồng mọc sừng” khiến cho ông cụ chết thật. Đám con cháu còn lại kẻ thì sốt ruột, la ó như bà Văn Minh vì chưa được phát tang để trưng diện những mốt tang phục của tiệm may Âu Hóa, kẻ thì phát điên người lên như cậu Tú Tân vì chưa được sử dụng những chiếc máy ảnh, kẻ thì buồn lãng mạn như cô Tuyết trong bộ dạng thất thần với bộ cánh Ngây thơ hở hang nhưng là mong ngóng người tình Xuân Tóc Đỏ mãi không đến, kẻ thì vô liêm sỉ đến mức tự hào vì cái sừng hươu vô hình trên đấu lại đáng giá vài nghìn bạc như ông Phán mọc sừng…
Ai cũng có nỗi buồn riêng mà thành ra lại hợp mốt với nhà có tang. Nhưng rõ ràng Vũ Trọng Phụng đã dùng ngòi bút trào phúng đầy mỉa mai của mình để lột tả cái bản chất tàn nhẫn, bất hiếu, vô đạo đức bên trong được che lấp bởi cái vỏ bên ngoài quá giả tạo. Chân dung những kẻ trong gia đình thượng lưu ấy đã góp phần quan trọng làm cho nghệ thuật trào phúng của chương truyện thành công.
Chưa dừng lại ở đó, ngòi bút trào phúng của nhà văn như con dao sắc lạnh, nó còn lia xa hơn, rộng hơn. Không chỉ những đám con cháu trong tang quyến, mà cả những người đến dự cũng được miêu tả một cách đầy mỉa mai. Có hai tên cảnh sát Min Đơ và Min Toa lại sướng điên người vì được thuê giữ trật tự đám ma khi đang thất nghiệp. Có ông Typn nhà thiết kế tiệm may Âu hóa bực bội vì sự chậm chễ trong việc phát tang khiến những bộ sưu tập tang phục của ông chưa được ra mắt công chúng. Có đám bạn ông cụ cố Hồng đầy những râu, những huân huy chương và cũng đầy xao xuyến, não nùng như điệu nhạc Xuân Nữ khi nhìn thấy làn da trắng thập thò dưới cánh tay và ngực cô Tuyết. Có sư cụ Tăng Phú xuất hiện như một ngôi sao đầy kiêu hãnh vì vừa lật đổ được hội phật giáo, đi cùng với cố vấn báo Gõ Mõ là Xuân Tóc Đỏ – kẻ gây ra cái chết của cụ cố tổ lại được đón tiếp nồng hậu.
Cả đám giai thanh gái lịch bạn cô Tuyết đi dự đám tang như đi trẩy hội, tán tỉnh, chọc ghẹo… nhau một cách hồn nhiên. Tuy miêu tả nhiều nhân vật, nhưng nhà văn Vũ Trọng Phụng dường như không bỏ sót một nhân vật nào. Ai cũng hiện lên với những nét chân dung điển hình nhất. Điều ấy vừa cho thấy cái tài của nhà văn vừa thể hiện sức phản ánh hiện thực mạnh mẽ của tác phẩm. Không chỉ đám con cháu trong gia đình mà đến những kẻ ngoài xã hội cũng cùng một ruộc. Tất cả bọn chúng tạo nên một xã hội dị hợm, nhố nhăng, đồi bại, vô đạo đức mà nhà văn gọi là cải cách, văn minh, Âu hóa. Ngòi bút trào phúng của Vũ Trọng Phụng vì thế mà có sức công phá mạnh mẽ.
Song có lẽ đọc chương Hạnh phúc của một tang gia, ngoài những chân dung biếm họa trên, người đọc chắc hẳn không thể quên cảnh tượng trào phúng mà tác giả dựng lên. Mơ ước của con trai cụ cố tổ là cụ cố Hồng sẽ phải làm một đám ma thật to tát, một đám ma gương mẫu, một đám ma danh giá nhất bậc Hà thành. Chính vì vậy cảnh tượng đám ma trong tác phẩm là một trong những thành công xuất sắc của nghệ thuật trào phúng mà nhà văn đã dụng công miêu tả. Trước hết là cảnh đám tang. Có lẽ do sự mong ngóng từ lâu nên nó đã được chuẩn bị kĩ lưỡng. Từ tang phục đến đồ vật, phụ kiện cho tang lễ đều chuẩn bị hoành tráng, chu đáo và tươm tất.
Chỉ cần nhìn bộ đồ đám tang cô Tuyết mặc là đủ biết nó được thiết kế “cầu kỳ, tinh xảo” đến mức như thế nào, mà cả gia đình ấy đều hứng khởi, vui mừng. Đồ vật chuẩn bị cho đám tang thì không đám nào có thể bì được. Kiệu bát cống, lợn quay đi lọng, có đủ các loại kèn Ta, Tây, Tàu, có đến ba trăm vòng hoa… Đoàn người đi đưa đám kéo dài cả mấy con phố. Không khí của đám tang cũng đặc biệt. Không tiếng khóc, không lời xót thương, không giọt nước mắt nào nhưng lại đầy rẫy sự ồn ào, hỗn loạn. Đám đi đến đâu huyên náo đến đó, người dân hàng phố đổ ra xem rồi trầm trồ khen ngợi, thành thử người chết nằm trong quan tài cũng gật gù cái đầu và mỉm cười sung sướng. Cảnh tượng ấy đúng hơn là một đám rước, một đám hội, chứ không phải đám tang!
Và rồi thời khắc đau thương, xót xa nhất cũng đã đến – lúc hạ huyệt. Đây là lúc mà người âm kẻ dương sẽ vĩnh viễn, mãi mãi chia lìa, không bao giờ gặp lại. Vậy mà cảnh hạ huyệt trong chương truyện lại được ví như một màn trò hề lố bịch. Cụ cố Hồng mếu máo rồi ngất đi. Cậu tú Tân trong bộ tang phục luộm thuộm cùng đám bạn bè nhảy hết lên mả này đến mả khác, bắt mọi người phải uốn éo, tạo dáng, khóc như này, khóc như kia để chụp ảnh. Nhưng có lẽ diễn viên làm tròn vai nhất phải là ông Phán mọc sừng. Ông cháu rể quý hóa ấy khóc quá, khóc nức nở, khóc oặt cả người nhưng thực ra là để trá hình cho một vụ thương thảo với Xuân Tóc Đỏ.
Cảnh tượng ấy khiến người đọc cười ra nước mắt. Những trò hề đầy đốn mạt, mất hết nhân tính, tình người dưới ngòi bút trào phúng của Vũ Trọng Phụng đậm chất mỉa mai, châm biếm. Đến đây, chúng ta hiểu vì sao nhà văn lặp lại hai câu “Đám cứ đi…” trong lúc đưa tang. Cũng chẳng biết đây là đám ma hay đám gì nữa, nhưng đám cứ đi, cứ đi là đi đến cái huyệt để chôn sống hết những kẻ từ gia đình đến xã hội kia. Tiếng khóc Hứt! Hứt! Hứt! của Phán mọc sừng như thể là “Hất! Hất! Hất” tất cả xuống nấm mồ đó. Đám ma to tát, gương mẫu, danh giá nhất, cái gì cũng có nhưng lại thiếu cái quan trọng nhất, đó là Tình thương với người đã khuất. Sức tố cáo mạnh mẽ được khơi gợi lên từ những cảnh tượng đậm chất trào phúng độc đáo như thế này.
Một trong những giá trị thành công của nghệ thuật trào phúng của tác phẩm thể hiện qua ngôn ngữ và giọng điệu. Trong đoạn trích không ít lần người đọc bật cười vì những từ ngữ đậm chất mỉa mai, châm biếm mà Vũ Trọng Phụng sử dụng. Nổi bật có những từ như “cả nhà ấy nhao lên”, từ nhao lột tả rất chân thực cái biểu hiện về sự bất ngờ, sung sướng của đám con cháu khi nghe tin cụ cố tổ chết, nhưng đồng thời cũng lột tả được cái bản chất nhơ bẩn của bọn chúng. Hay trong một đám tang của gia đình danh giá bậc nhất Hà thành này điều quan trọng nhất là sự trang nghiêm, tôn kính, quy củ. Ấy vậy mà tác giả không ít lần dùng những từ ngữ như nhốn nháo, vui vẻ, huyên náo… để mô tả không khí của đám tang. Trong khi đó còn chưa kể đến cách dùng tử miêu tả chân dung nhân vật đạt đến mức độ mỉa mai cao nhất, như: cụ cố Hồng mơ màng, ông Văn Minh băn khoăn, bối rối, đăm đăm chiêu chiêu, cô Tuyết buồn lãng mạn…
Thi thoảng nhà văn lại chua thêm một số câu văn đến người đọc cũng “nhột cả người”: Cái chết kia đã làm cho nhiều người sung sướng lắm, Thật là đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng nếu không gật gù cái đầu… Không chỉ là cảm giác cười hả hê, sung sướng, mà cười đến chảy nước mắt. Giọng điệu mỉa mai, chấm biếm “phủ sóng” khắp cả chương truyện. Không thể tưởng tượng một xã hội, một gia đình trong bối cảnh thời đại ấy lại có những biểu hiện mục nát, băng hoại đến mức độ như vậy.
Không thể phủ nhận, Vũ Trọng Phụng có phần hơi gay gắt trong cách nhìn nhận đánh giá về hiện thực đời sống xã hội thành thị đương thời. Tuy nhiên với quan điểm nghệ thuật rất dứt khoát: tiểu thuyết phải là sự thật ở đời và ngòi bút trào phúng sắc lạnh, nhà văn đã đem đến cho người đọc những vết thương đã trở thành “ung nhọt” trong xã hội cần phải “chữa trị” gấp. Có nhiều người vẫn cho rằng: tuy Vũ Trọng Phụng không làm cách mạng nhưng cách mạng phải cảm ơn ông vì những cái nhìn hiện thực quá sâu sắc như vậy. Và nghệ thuật trào phúng chính là công cụ để giúp ông làm tốt điều này. Ông xứng đáng trở thành một trong những gương mặt nhà văn hiện thực tiêu biểu, xuất sắc của văn học giai đoạn 1930 – 1945.
Nghệ thuật trào phúng trong "Hạnh phúc của một tang gia" bài số 1
Vũ Trọng Phụng được tôn vinh là "ông vua phóng sự đất Bắc" và mỗi tác phẩm của ông được ví như một quả bom ném vào cái xã hội lố lăng, ô trọc của Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX. Tiêu biểu cho nghệ thuật trào lộng, châm biếm sâu cay của ông có thể kể đến tiểu thuyết "Số đỏ" - cuốn tiểu thuyết mà mỗi chương truyện sinh động, sắc sảo, nhạy bén như một thiên phóng sự. Đoạn trích "Hạnh phúc của một tang gia" (thuộc chương XV của tác phẩm "Số đỏ") là đoạn trích tiêu biểu cho nghệ thuật trào phúng sắc sảo của Vũ Trọng Phụng trong tác phẩm này.
"Nghệ thuật trào phúng" là nghệ thuật tạo tiếng cười mang ý nghĩa đả kích, lên án, vạch trần bản chất xấu xa của đối tượng. Tiếng cười chỉ xuất hiện khi phát hiện ra những mâu thuẫn trái với tự nhiên rồi phóng đại lên để gây cười. Trong đoạn trích, nghệ thuật trào phúng được thể hiện qua cách xây dựng mâu thuẫn trào phúng, tình huống trào phúng, mô tả chân dung trào phúng, cảnh trào phúng và giọng điệu, ngôn từ.
Mâu thuẫn trào phúng được thể hiện trước hết ở nhan đề chứa đựng nghịch lí: "Hạnh phúc của một tang gia". "Hạnh phúc" là trạng thái thỏa mãn, thoải mái về tinh thần khi được đáp ứng một nhu cầu nào đó trong cuộc sống. "Tang gia" là gia đình có tang, có người thân mất đi, nghĩa là có sự mất mát về người. Theo Vũ Trọng Phụng, tang gia tuy có mất mát về người (cụ cố Tổ) song bù lại nó đem lại rất nhiều lợi lộc về tiền bạc và danh tiếng. Cách lí giải này sẽ là lời hé mở về mở bản chất của tầng lớp thượng lưu trong xã hội: chỉ quan tâm đến danh lợi mà bất chấp đạo lí tình nghĩa. Không dừng lại ở nhan đề, mâu thuẫn trào phúng sẽ được triển khai trong toàn bộ chương truyện và được tăng dần về mức độ, phóng đại niềm hạnh phúc. Ban đầu là niềm hạnh phúc của các thành viên trong gia đình, sau đó là hạnh phúc được tràn ra cả ngoài xã hội. Cái chết cụ cố Tổ ban phát niềm hạnh phúc cho tất cả các thành viên trong và ngoài gia đình.
Tình huống trào phúng được lựa chọn là một tình huống đạo đức: tác giả dùng cái chết của người thân làm phép thử độ sáng của đạo hiếu trong gia đình, dùng cái chết đồng loại làm phép thử độ sáng của tình người và tính người. Để triển khai tình huống, Vũ Trọng Phụng đã tập hợp và miêu tả những tâm trạng, hành vi, cách ứng xử, thái độ hoàn toàn trái với chuẩn mực đạo đứ thông thường. Đó là tang gia song không ai nghĩ đến người chết và việc báo hiếu. Mỗi người đều có mối quan tâm riêng nhưng đều hướng đến hai chữ danh lợi thu được từ cái chết ấy. Đó là tang gia song không ai đau buồn, thương tiếc. Nếu có đau buồn, thương tiếc cũng chỉ là cái mặt nạ, là màn kịch được dựng lên để che đậy những nhu cầu, mưu đồ, toan tính. Ẩn sau lớp mặt nạ là niềm vui thực sự của cả người thân trong gia đình và những người ngoài gia đình. Niềm vui ấy khiến đám tang có xu hướng trở thành đám hội tưng bừng, náo nhiệt.
Trong nghệ thuật biếm họa, chỉ với đôi ba nét, người họa sĩ tóm được thần thái của đối tượng trào phúng, lột tả được mâu thuẫn, phơi bày được bản chất của con người xấu xa để tạo tiếng cười đầy chất trí tuệ, có sức công phá lớn. Lần lượt các chân dung biếm họa hiện lên dưới ngòi bút như có thần của Vũ Trọng Phụng.
Đó là cụ cố Hồng - con trai cả của người chết. Với vị trí này, trách nhiệm của ông là lo ma chay của cha mình cho chu tất nhưng những hành động cụ thể của ông lại hoàn toàn trái ngược. Ông nằm dài, hút thuốc phiện và mơ màng theo khói thuốc. Ông nghĩ đến việc cưới chạy cho cô con gái Tuyết nhưng lại đùn đẩy việc cưới xin cho vợ. Cái danh mà ông mơ ước và tô vẽ là gia thế của một gia đình nề nếp, gia phong, danh gia vọng tộc. Vì thế ông đã tỏ ra già cả dù chưa đến 60 để được gọi là "cụ Cố". Ông sẵn sàng mùa hè mặc áo bông, trả nhầm tiền xe để chứng minh mình lẩm cẩm; luôn gắt gỏng để chứng tỏ mình già cả, ốm yếu. Nghĩ đến cái chết của bố mình, ông sung sướng đến độ đê mê nên "đã nhắm nghiền mắt lại để mơ màng đến cái lúc cụ mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu, để cho thiên hạ phải chỉ trỏ: Úi kìa, con giai nhớn đã già đến thế kia kìa!" và khen "một cái đám ma như thế, một cái gậy như thế"... Tấm lòng của người con trơ như khúc gỗ, vô cảm trước cái chết của người cha. Vai trò và tình cảm của một đứa con trong ông đã chết bởi ông chỉ nghĩ đến cái gậy mà thôi!
Ông Văn Minh là đứa cháu đích tôn, là "nhà cải cách xã hội" danh giá thì sung sướng tột đỉnh vì "Thế là từ nay mà đi, cái chúc thư kia sẽ đi vào thời kì thực hành chứ không còn là lí thuyết viển vông nữa". Mọi hành động của ông đều đối lập với trách nhiệm và tình cảm của một người cháu. Ông mời luật sư đến chứng kiến cái chết của ông nội để đảm bảo tính pháp lí của chúc thư. Ông còn nghĩ đến cách đối xử với Xuân Tóc Đỏ mà thực chất là tìm cách bịt miệng vì Xuân Tóc Đỏ biết những bí mật tày đình của ông. Ông quan niệm tội bôi nhọ danh dự của người thân trong gia đình là tội nhỏ và tội làm chết người thân trong gia đình mới là cái ơn lớn. Để trả cái ơn to lớn ấy, ông đã dùng hạnh phúc trăm năm của cô em gái lá ngọc cành vàng để trả ơn cho một kẻ vô học. Ở ông tồn tại sự mâu thuẫn giữa cái bên ngoài là vẻ mặt "đăm đăm chiêu chiêu" của cái bối rối lo lắng rất hợp thời trang nhà có tang với cái bên trong là việc nghĩ cách đối xử với người đã mang đến cái "ơn to" cho gia đình.
Cô Tuyết, cô cháu gái giữ gìn nửa chữ trinh, mới chỉ hư hỏng được một nửa. Mặt cô phảng phất vẻ buồn lãng mạn vì nhớ nhung nhân tình chứ không phải xót thương ông nội. Đám tang mang đến niềm hạnh phúc cho cô vì cô được mặc bộ y phục "Ngây thơ" để chứng tỏ phẩm giá mới chỉ đánh mất nửa chữ trinh. Bộ y phục nửa kín nửa hở làm cho các ông tai to mặt lớn bạn của cụ cố Hồng cảm động thực sự, còn hơn cả "những khi nghe tiếng kèn Xuân nữ ai oán, não nùng".
Cậu tú Tân thì "cứ điên người lên vì cậu đã sẵn sàng mấy cái máy ảnh mà mãi cậu không được dùng đến". Ông nội chết là dịp để cậu trổ tài đạo diễn, chụp ảnh trong dịp đám tang. Cậu tỏ ra là một tài tử chụp ảnh, những chiếc máy ảnh được chuẩn bị từ lâu nay sẽ có dịp dùng đến. Cậu và bạn hữu của cậu rầm rộ nhảy lên những ngôi mộ khác nhau để chụp ảnh ở những khoảnh khác nhau. Cậu đạo diễn mọi người gục đầu, cong lưng, khóc rồi đóng kịch xót thương cho đúng không khí đám tang.
Ông Phán mọc sừng là con rể của cụ cố Hồng. Ông sung sướng vì "không ngờ rằng giá trị đôi sừng hươu vô hình trên đầu ông lại lớn đến như thế, nó có giá đến "vài nghìn đồng" Đông Dương. Ông trù tính ngay một cuộc doanh thương với Xuân Tóc Đỏ để nhân cái số vốn ấy lên. Là một diễn viên đại tài, ông Phán đã hoàn thành xuất sắc màn kịch vờ tỏ ra khóc thương. Trong đám tang ông vợ, ông mặc cái khăn trắng to tướng, áo thụng trắng lòe xòe và khóc mãi không thôi. Ngay cả Xuân Tóc Đỏ - kẻ chuyên đi lừa đảo người khác cũng bị ông lừa. Tưởng rằng ông khóc đến lả oặt người đi nên đã đưa tay ra đỡ, nhưng đến khi ông Phán dúi vào tay tờ 5 đồng gấp tư hắn mới hiểu ra bộ mặt thật tham lam đến mức tình người khô héo, trái tim vô cảm và thậm chí là việc bán rẻ cả danh dự bản thân. Ngay trước mặt cha vợ, trước linh hồn ông vợ, ông ta vẫn thản nhiên hoàn thành công việc thanh toán tiền để chuẩn bị chuyển nốt sang công việc toan tính khác.
Không chỉ khắc họa chân dung châm biếm cá nhân, tác giả còn khắc họa hình tượng đám đông. Những tốp người đó là nhóm các vị quan chức cao cấp thì long trọng gắn lên ngực đủ các thứ huy chương: "Bắc Đẩu bội tinh, Long bội tinh,..: đủ các thứ màu sắc và kiểu râu ria trên cằm "hoặc dài hoặc ngắn, hoặc đen hoặc hung hung, hoặc lún phún hoăc rầm rạm, loăn quoăn..". Các vị đi cạnh linh cữu bị kích động, bởi "làn da trắng thập thò trong làn áo voan trên cánh tay và ngực Tuyết". Nhóm đông đảo nhất gồm toàn "giai thanh gái lịch, nên họ chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm với nhau, chê bai nhau, ghen tuông hẹn hò nhau, bằng những vẻ mặt buồn rầu của những người đi đưa ma". Đám tang là cơ hội để tất cả mọi người không phân biệt già trẻ, gái trai thỏa mãn cái sung sướng, hạnh phúc của mình.
Cảnh trào phúng là những cảnh tượng trái với lẽ thông thường, tập trung rất nhiều điều trái với thuần phong mĩ tục được phóng đại lên để gây cười. Cảnh đưa tang là một cảnh trào phúng vì bề ngoài là đám tang nhưng thực chất lại mang tính chất đám hội, đám rước. Được tổ chức pha tạp, đám tang có cả âm thanh thuộc về nghi thức tang lễ và âm thanh không thuộc nghi thức tang lễ song cảm giác chung là nhốn nháo, ầm ĩ. Âm thanh thuộc tang lễ đó là tiếng kèn pha tạp, lẫn lộn cả kèn ta, tàu và Tây; tiếng khóc "Hứt!..Hứt!.. Hứt!." của Phán mọc sừng - một thứ âm thanh lạ lùng sẽ khiến người khác bật cười vì ngạc nhiên.
Thực chất đây là hành vi ngụy trang che đậy cho mục đích thực sự của ông. Âm thanh không thuộc tang lễ là tiếng cãi cọ, chê trách nhau của đám người trong nhà. Tiếng cãi cọ này sẽ phơi bày những mâu thuẫn ngấm ngầm dù luôn được dàn xếp trong vẻ ngoài êm đẹp. Đó còn là tiếng trêu chọc, đùa cợt thô lỗ, tục tĩu của đám "giai thanh gái lịch" càng bộc lộ rõ sự tồi tệ, vô liêm sỉ của tầng lớp thượng lưu. Hình ảnh trong đám tang có hình ảnh thuộc nghi lễ và không liên quan đến tang lễ song đều tạo ấn tượng về sự phô trương đầy kệch cỡm. Hình ảnh thuộc nghi lễ thông thường là vòng hoa, câu đối và người đưa tang nhưng nó xuất hiện với số lượng khổng lồ là 300 vòng hoa, 300 câu đối và mấy trăm người đi đưa. Nó cho thấy sức ảnh hưởng và mối quan hệ rộng rãi của gia đình. Đó còn là y phục tang lễ tân thời do tiệm may Âu hóa thiết kế đã biến đám tang thành một cuộc trình diễn mốt để quảng cáo sản phẩm với mục đích kinh doanh.
Hình ảnh thuộc nghi lễ là kiệu bát cống, lợn quay đi lọng; bộ y phục "Ngây thơ" của cô Tuyết cùng những huân chương của các bạn cụ Cố. Một hình ảnh ấn tượng nhất với người đọc chính là tờ 5 đồng được gấp tư, thể hiện sự chuẩn bị chu đáo để hoàn thiện phần còn lại của bản hợp đồng. Nó cho thấy bản chất bỉ ổi và cũng là lời kết đầy chua chát về một xã hội vì tiền, chạy theo đồng tiền mà quên đi tình nghĩa.
Giọng điệu mỉa mai, chua chát là giọng điệu bao trùm chương truyện. Có những câu văn tưởng như là giọng trần thuật khách quan bình thản "Đám cứ đi" nhưng khi nhắc đến hai lần nó đã mang ý nghĩa mỉa mai châm biếm đám ma thật to, thiên hạ tha hồ ngắm thật kĩ cái giả dối, vô nhân đạo của đám người ấy. "Đám cứ đi" nghĩa là sự vô liêm sỉ không khép lại mà kéo dài tưởng như vô tận, nó kéo theo cái xác chết đến tận huyệt miệng. Về ngôn từ, tác giả đã sử dụng những kết hợp từ độc đáo trong các câu văn để tạo nên tiếng cười hài hước như "vẻ buồn lãng mạn đúng mốt", "chưa đánh mất cả chữ trinh"; những so sánh gây cười như "Tuyết như bị kim châm vào lòng vì không thấy bạn giai đâu cả".
Tất cả những đặc điểm trên đã góp phần làm nên giá trị của nghệ thuật trào phúng Vũ Trọng Phụng. Bằng tiếng cười mang ý nghĩa đả kích phê phán, nhà văn đã vạch trần bản chất xấu xa của xã hội thượng lưu tư sản thành thị đương thời. Đó là một xã hội băng hoại đạo đức, khô héo tình người, chạy theo lối sống văn minh rởm, vô cùng đồi bại, lố lăng. Đằng sau tiếng cười không phải niềm vui mà là nỗi đau đời, là khao khát đổi thay, muốn chôn vùi xã hội ấy. Qua đó thể hiện tấm lòng tốt đẹp, mong muốn con người tránh được sự suy đồi về đạo đức do xã hội bất lương tác động. Quan trọng hơn cả, nghệ thuật tào phúng đã thể hiện tài năng, phong cách riêng của Vũ Trọng Phụng.
Ngòi bút trào phúng của Vũ Trọng Phụng sắc bén đến lạnh lùng. Đằng sau những lời nói như đùa, sự thật của xã hội thượng lưu thành thị buổi Âu hóa dưới chế độ thực dân nửa phong kiến cứ hiện lên rõ mồn một, trên đó nổi lên hai sự thực khắc nghiệt: sự tàn nhẫn, vô nhân đạo và sự giả dối, bịp bợm. Vũ Trọng Phụng đã đứng về phía nhân dân mà phê phán mạnh mẽ bản chất giả dối và sự lố lăng, đồi bại của xã hội thượng lưu ở thành thị những năm trước Cách mạng tháng Tám 1945.
Nghệ thuật trào phúng trong "Hạnh phúc của một tang gia" bài số 3
"Số đỏ" là cuốn tiểu thuyết đặc sắc nhất của nhà văn Vũ Trọng Phụng. Trong đó mỗi chương là một hài kịch chương XV "Hạnh phúc một tang gia" được đánh giá là một trong những màn hài kịch thành công nhất. Qua việc miêu tả đám tang của cụ Tổ, Vũ Trọng Phụng đã phơi bày cái bộ mặt xấu xa của trưởng giả, cái xã hội "khốn nạn", "chó đểu" đương thời như cách nói của nhà văn.
Tính chất trào phúng được thể hiện sâu sắc qua cái nhan đề đầy nghịch lí: "Hạnh phúc một tang gia". Ở đây, Vũ Trọng Phụng đã khai thác sự mâu thuẫn giữa hình thức và nội dung. Thông thường, cái chết bao giờ cũng gợi lên tâm trạng đau buồn, sầu não, xót thương. Nhưng trong trường hợp này lại khác: cái chết bất ngờ của cụ Tổ đã mang lại lợi ích và niềm vui lớn lao cho mỗi thành viên trong đám con cháu của người chết. Nhà có người chết mà lại vui, cảnh tang gia có bối rối thật như người ta thường nói nhưng đó là sự bối rối một cách sung sướng. Bối rối không phải tổ chức môt đám tang ma mà là để tổ chức một ngày hội, một đám rước thì đúng hơn.
Trong chương này, Vũ Trọng Phụng cũng đã xây dựng được những bức chân dung trào phúng rất đặc sắc. Mỗi nhân vật hiện lên là một niềm "hạnh phúc" trong cảnh tang gia bối rối. Cái chết của Cụ Tổ đã khiến cho mọi thành viên trong gia đình có tang cảm thấy "sung sướng và hạnh phúc" bởi họ nóng lòng chờ đợi cái giây phút này từ lâu. Điểm đặc sắc của nhà văn Vũ Trọng Phụng là ngoài việc thể hiện cái "hạnh phúc" chung của một tang gia; mỗi người trong gia đình lại có một "hạnh phúc" riêng, không ai giống ai. Chính thông qua sự miêu tả, cảm xúc tâm trạng mỗi người trước cái chết của cụ Tổ, nhà văn đã thể hiện rõ nét bản chất, tính cách của mỗi nhân vật. Hay nói cách khác, mỗi nhân vật trong gia đình cụ cố Hồng lại có một đặc điểm, môt mâu thuẫn trào phúng riêng.
Nhân vật cụ Cố Hồng là con trai của người chết. Ông ta có một sở thích quái gở đó là thích đóng vai cụ già yếu, mặc dù tuổi tác chưa phải là cao (Ông ta bắt mọi người phải gọi mình là cụ Cố; lúc nào cũng tỏ ra ốm yếu). Nhưng từ trước đến nay, cụ Cố Hồng mới chỉ diễn trò già yếu với đám con cháu trong nhà nay nhờ có đám tang của bố mình mà cụ có được cái may mắn, diễn trò già yếu trước con mắt của công chúng hàng nghìn người. Mới nghĩ đến cảnh đám tang, ông đã thấy sướng run người. Cụ Cố Hồng đã nhắm nghiến lại để mơ màng cái lúc cụ mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy; vừa ho khạc, vừa khóc mếu máo để cho thiên hạ phải chỉ trỏ: "Uí kìa, con dai lớn đã già thế kia kìa.
Với vợ chồng Văn Minh, sau cái chết của cụ Tổ, sẽ được chia một phần gia tài khá lớn; điều mà ông ta lo lắng lúc này là phải mời luật sư đến, chứng kiến cái chết của cụ Tổ: "để cái chúc thư kia sẽ đi vào thời kì thực hành chứ không còn là lý thuyết viễn vong nữa". Đám ma của cụ Cố cũng là dịp hiếm có để tiệm may Âu hóa và ông TYPN có thể lăng xê những mẫu trang phục táo bạo nhất: "nó có thể ban cho những ai có tang đương đau đớn vì kẻ chết cũng được hưởng chút ít hạnh phúc ở đời".
Sự lố lăng được đẩy lên cao hơn nữa khi xuất hiện hình ảnh cô Tuyết, cháu nội cụ Cố. Người cháu gái hiếu thảo này luôn mong ông nội chết để có dịp diện những bộ quần áo tân trang, hở hang đầy khiêu gợi. Trong đám đông nhốn nháo ấy cô lúc nào cũng mong sẽ có dịp gặp được tình nhân Xuân tóc đỏ để có dịp thể hiện lòng hiếu thảo giả tạo của mình và mong Xuân thấu hiểu cô. Và để diễn cho thật giống vói tâm trạng ấy, cô Tuyết luôn giữ vẻ mặt buồn rầu rất "lãng mạn và hợp thời". Nhưng cô buồn không phải vì cái chết của ông nội mà vì chưa thấy mặt Xuân tóc đỏ.
Cậu Tú Tân, cháu nội người sắp chết, lại có một "niềm hân hoan" tuyệt vời khác. Cậu đã chuẩn bị cái máy ảnh từ lâu và luôn mong ngóng ông nội chết để có dịp sẵn sàng ghi lại những khoảnh khắc đau thương "tuyệt vời nhất", mà ông nội vẫn chưa chịu chết, khiến cho cậu vô cùng bức bối muốn điên người lên. Và hôm nay chính là cơ hội để cậu phô diễn hết tài năng chụp hình của mình.
Ông Phán mọc sừng, chồng cô Hoàng Hôn, và là cháu của người quá cố. Không phải ai khác mà chính ông ta là nguyên nhân gây ra cái chết của cụ Tổ. Ông Phán tỏ vẻ vui mừng hả hê trước việc vợ mình ngoại tình và lợi dụng để tống tiền nhà vợ. Không ngờ điều đó lại khiến cho cụ Tổ bị sốc mà chết. Chính ông ta cũng không ngờ rằng giá trị đôi sừng hươu vô hình trên đầu ông ta mà lại to đến như thế.
Cảnh đám tang đã được nhà văn Vũ Trọng Phụng miêu tả bằng bút pháp trào phúng bậc thầy. Cảnh đám tang được miêu tả hết sức trọng thể, phô trương, hình thức. Việc tổ chức đám tang rất hổ lốn theo kiểu Ta - Tàu - Tây (có kiệu bắt cổng, lợn quay đi lạng, có lốc cốc xoảng, có cái bu-dích,...)
Những người đi dự đám tang luôn cố tạo ra vẻ buồn rầu, nghiêm trang cho phù hợp với phong cảnh, nhưng những câu chuyện của họ thì rất sôi nổi đời thường và chẳng liên quan gì đến người chết. Người đi đưa đám mà trang phục của họ thì như đi hội; có đủ mọi thứ, nhưng chỉ thiếu một thứ duy nhất đó là tình cảm xót thương, đau đớn tiễn đưa người chết.
Trong đám tang, Xuân tóc đỏ càng được dịp huênh hoang hơn vì nhờ có nó cụ Tổ lăn đùng ra chết (nó tố cáo ngay trước mặt cụ tội ngoại tình của cô cháu gái Hoàng Hôn khiến cụ uất lên mà chết) là cố vấn của tờ báo "Gõ mõ", Xuân còn đem lại danh giá bất ngờ cho đám ma vì đã bổ sung vào sự long trọng của đám tang sáu chiếc xe chở sư cụ chùa Bà Đanh cùng với những vòng hoa đồ sộ. Việc làm của Xuân đã khiến cụ Phán bà - người đã từng chửi Xuân là đồ khốn nạn và đe sẽ nhổ vào mặt hắn cũng phải cảm động và sung sướng: "ấy giá không có món ấy thì là thiếu chưa được to. May mà ông Xuân đã nghĩ hộ tôi".
Bản chất của nghệ thuật trào phúng là làm nổi bật sự mâu thuẫn, đối lập (giữa bản chất và hiện tượng, giữa hình thức và nội dung, giữa lời nói và việc làm). Chính thông qua sự đối lập ấy làm nổi bật lên tiếng cười mỉa mai, trào phúng, chế giễu. Nói cách khác, bằng nghệ thuật trào phúng, nhà văn giúp người đọc lật mặt trái của xã hội, làm rõ sự thối nát, bất công của xã hội, cũng như con người.
Niềm vui và hạnh không chỉ biểu hiện trên gương mặt, dáng đi lời nói của mọi thành viên trong gia đình người chết mà còn lan tỏa ra những người xung quanh. Hai viên cảnh sát Min Đơ, Min Toa đang thất nghiệp thì được thuê giữ trật tự cho đám tang. Những bạn bè tai to mặt lớn của cụ Cố Hồng thì được kịp khoe khoang sự oai vệ, danh giá của mình: "ngực đầy những huy chương như Bắc đẩu bội tinh, Long bội tinh, Cao Môn Bội tinh, Vạn tượng bội tinh. Trên mép và cằm đều đủ râu ria...". Những người dân hàng phố thì vui vẻ náo nức vì chỉ mấy khi được xem một đám ma to như thế: "theo cả lối Ta - Tàu - Tây, có kiêu bắt cống, lợn quay đi lạng cho đến cốc xoáng và bu dích và vòng hoa. Có đến 300 câu đối, vài ba trăm người đi đưa, lại có cậu Tú Tân chỉ huy những nhà tài tử chụp ảnh đang thi nhau như ở hội chợ".
Có thể nói, cảnh đám tang diễn ra hết sức long trọng, vui vẻ; nó giống như một đám rước ngày hội vậy. Những người đến chia buồn và đưa ma, ai cũng cố tạo ra vẻ mặt buồn rầu và nghiêm chỉnh cho phù hợp với khung cảnh nhưng những câu chuyện trò to nhỏ của họ mới đa dạng, phong phú, nhiều màu sắc làm sao. Người ta đến đây, nếu không phải để khoe những bộ ngực đầy huy chương và những bộ râu ria oai vệ thì cũng để thì thầm với nhau về chuyện vợ con, chuyện mới sắm Lodi áo, mới mua một cái tủ,... Còn bọn thanh niên đến đám tang để có dịp tán tỉnh nhau, cười tình với nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau: "bằng những vẻ mặt buồn rầu của những người đi đưa ma".
Ở chương "Hạnh phúc môt tang gia" Vũ Trọng Phụng cũng đã chọn lựa được những chi tiết trào phúng rất tiêu biểu và đặc sắc. Qua những chi tiết này, nhà văn đã thể hiện được bản chất, tính cách của nhân vật - đằng sau cái vẻ bề ngoài đau đớn, thương xót là một bộ mặt giả dối, xấu xa và bỉ ổi. Lúc đám tang dừng lại để hạ huyệt, Vũ Trọng Phụng còn khiến cho người đọc hai chi tiết thật đặc sắc, đẩy cảnh đưa đám lên tới đỉnh điểm. Chi tiết một là cảnh cậu Tú Tân bắt bẻ từng người một phải làm những động tác, tư thế đau buồn để cậu ta chụp ảnh.
Trong khi đó thì "bạn hữu của cậu rầm rộ nhảy lên những ngôi mã khác mà chụp để cho ảnh khỏi giống nhau. Chi tiết hai là ông Phán mọc sừng, cháu rể của người chết - kẻ giả dối và vô liêm sỉ nhất trong gia đình này đã đau đớn, khóc lóc tưởng chừng như ngất đi khiến ai cũng để ý đến ông cháu rể quý hóa ấy". Vậy mà giữa lúc đoàn người khóc lóc, ông ta vẫn không quên kín đáo món tiền 5 đồng vì đã có công gọi ông ta là "người chồng mọc sừng" để kết quả là cụ Tổ chết và có đám ma to tát hôm nay.
Nghệ thuật trào phúng trong chương "Hạnh phúc một tang gia" còn được thể hiện ở ngôn ngữ và giọng điệu của nhà văn. Một thứ ngôn ngữ giọng điệu có vẻ nhẹ nhàng nhưng lại có sức công phá lớn. Điệp ngữ "đám cứ đi" giúp cho người đọc hình dung ra được đám tang rất đông, rất dài, rất trọng thể. Điệp ngữ ấy cũng góp phần làm nổi bật sự phô trương giả dối, và cả sự dửng dưng về tình của những người đi đưa tiễn.
Nếu "Số đỏ" là cuốn tiểu thuyết thành công của Vũ Trọng Phụng thì chương "Hạnh phúc một tang gia" là một trong những chương đặc sắc hơn cả. Ở chương này, nhà văn đã tạo nên được những mâu thuẫn trào phúng, những chân dung trào phúng, những hành vi trào phúng, thậm chí cả những câu nói, giọng điệu trào phúng. Điệp ngữ "đám cứ đi" được nhà văn nhắc đi nhắc lại nhiều lần; vừa làm nổi bật tính chất giả dối phô trương của đám tang vừa nhấn mạnh sự thản nhiên vô tình của những người đi đưa tiễn.