Sốt rét là căn bệnh truyền nhiễm rất phổ biến trên thế giới, đặc biệt ở các vùng nhiệt đới hay cận nhiệt đới. Bệnh rất dễ lây truyền từ người sang người thông qua vật truyền trung gian là muỗi. Vì dễ lây nên cần phải có biện pháp phòng tránh cũng như chữa trị ngay khi phát hiện. Hãy cùng Toplist tìm hiểu những lưu ý quan trọng nhất về bệnh sốt rét nhé!
Biện pháp chẩn đoán bệnh sốt rét
Chẩn đoán bệnh sốt rét bằng các triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng
Ca bệnh lâm sàng: bệnh nhân có các triệu chứng lâm sàng điển hình hoặc sốt không điển hình mà không được xét nghiệm máu hoặc kết quả xét nghiệm âm tính nhưng có 4 đặc điểm sau:
- Hiện đang sốt (trên 37,5 độ C) hoặc có sốt trong 3 ngày gần đây
- Không giải thích được nguyên nhân gây sốt khác
- Đang ở hoặc qua lại vùng sốt rét trong vòng 9 tháng trở lại
- Điều trị bằng thuốc sốt rét có đáp ứng tốt trong vòng 3 ngày
Ca bệnh xác định mắc sốt rét: bệnh nhân có ký sinh trùng sốt rét dương tính trong máu được khẳng định qua xét nghiệm máu. Phương pháp xét nghiệm:
- Phương pháp nhuộm Giemsa: lam máu nhuộm Giemsa được soi dưới kính hiển vi quang học. Phương pháp này được coi là tiêu chuẩn vàng để tìm ký sinh trùng sốt rét.
- Phương pháp nhuộm nhanh AO (Acridine Orange) soi kính hiển vi huỳnh quang.
- Phương pháp QBC (Quantative Buffy Coat) soi kính hiển vi huỳnh quang.
- Các test chẩn đoán nhanh (rapid diagnostic test) dựa trên phương pháp miễn dịch sắc ký phát hiện kháng nguyên ký sinh trùng sốt rét trong máu.
- Phương pháp sinh học phân tử (polymerase chain reaction - PCR): có độ nhạy và độ đặc hiệu cao, có thể phát hiện 1 ký sinh trùng/mm3 máu, chẩn đoán được sốt rét tái phát hay sốt rét tái nhiễm.
- Phương pháp phát hiện kháng thể kháng ký sinh trùng sốt rét: phương pháp huỳnh quang gián tiếp (indirect fluorescent antibody test - IFAT) và phương pháp miễn dịch gắn men (enzyme-linked-immunosorbent assay - ELISA) đều phát hiện kháng thể trong huyết thanh bệnh nhân sốt rét.
Chẩn đoán phân biệt với một số bệnh tương tự:
- Phân biệt sốt rét sơ nhiễm với thương hàn, sốt mò, sốt xuất huyết Dengue độ I, nhiễm siêu vi đường hô hấp trên (siêu vi cúm, Adenovirus).
- Phân biệt sốt rét tái phát với nhiễm khuẩn huyết, viêm đường tiết niệu, viêm đường mật, áp xe gan.
Triệu chứng bệnh sốt rét
Thời gian ủ bệnh còn tùy thuộc vào muỗi Anophen đang mang trùng loài ký sinh nào như: đối với P.falciparum thì thời gian ủ bệnh trung bình là 12 ngày, P.vivax trung bình 14 ngày, P.malariae là 20 ngày thậm chí là một tháng, P.ovale từ 11 ngày đến 10 tháng. Theo như phân loại của Tổ Chức Y Tế Thế Giới (WHO) thì bệnh sốt rét ở Việt Nam được chia làm hai loại như sau:
Sốt rét thông thường
Đây là dạng bệnh có những biểu hiện triệu chứng thường gặp khi mới mắc, dạng này không đe dọa đến tính mạng con người. Sốt rét thông thường được thể hiện qua ba dạng sốt như sau:
- Sốt sơ nhiễm: Dạng sốt này thường xuất hiện đầu tiên nhưng không điển hình, sốt cao liên tục trong vài ngày và hay bị nhầm lẫn với những bệnh thông thường.
- Sốt điển hình: Dạng này được chia thành 3 giai đoạn khác nhau: Giai đoạn rét run, toàn thân run rẩy, môi tái, nổi da gà, kéo dài từ 30 phút đến 2 giờ. Giai đoạn sốt nóng, lúc này bệnh nhân giảm triệu chứng run mà bắt đầu nóng dần lên thân nhiệt có thể đạt đến 41 độ, mặt đỏ, da khô, tim đập nhanh, thở mạnh, nhức đầu và khát nước, có thể kéo dài đến 3 giờ. Giai đoạn vã mồ hôi, lúc này thân nhiệt lại giảm, bệnh nhân ra mồ hôi nhiều, giảm nhức đầu, khát nước, giai đoạn này bệnh nhân cảm thấy dễ chịu.
- Sốt thể cụt: Những cơn sốt không xuất hiện thành cơn mà chỉ thấy biểu hiện rét run, có thể kéo dài từ 1 - 2 giờ. Thể sốt này chỉ thường gặp ở những bệnh nhân mắc bệnh sốt rét nhiều năm.
- Ký sinh trùng lạnh: Dạng này chỉ gặp ở những người đã khỏi bệnh nhưng vẫn còn mầm bệnh trong cơ thể. Những người này khi xét nghiệm thì vẫn cho kết quả dương tính với bệnh nhưng không có biểu hiện sốt, sức khỏe ổn định bình thường.
Sốt ác tính
Dạng bệnh này gồm có 4 thể:
- Thể não: Người bệnh có biểu hiện rối loạn ý thức, sốt cao liên miên, nhức đầu dữ dội, tiêu chảy không kiểm soát,… đây là những dấu hiệu của tiền ác tính. Bệnh nhân mắc bệnh ác tính thể não tỷ lệ tử vong cao.
- Thể giá lạnh: Thể này người bệnh bị tụt huyết áp, da xanh tái nhợt, đổ mồ hôi nhiều, nhức đầu dữ dội, toàn thân lạnh.
- Thể tiêu hóa: Bệnh nhân đau bụng dữ dội, buồn nôn, tiêu chảy, thân nhiệt hạ.
- Thể gan: Thể này da của người bệnh có màu vàng, củng mạc mắt vàng, phân và nước tiểu vàng, có thể buồn nôn hoặc nôn.
Điều trị bệnh sốt rét như thế nào?
Nguyên tắc điều trị:
- Chẩn đoán sớm, điều trị càng sớm càng tốt để hạn chế tử vong và làm giảm lây lan.
- Điều trị cắt cơn kết hợp với điều trị chống lây lan (diệt giao bào) và điều trị chống tái phát (diệt thể ngủ trong gan với Plasmodium vivax, Plasmodium ovale).
Điều trị sốt rét thông thường:
Điều trị cắt cơn sốt:
Nhiễm Plasmodium vivax:
- Chloroquine tổng liều 25mg/kg cân nặng chia 3 ngày điều trị: ngày 1 và ngày 2 uống 10 mg/kg cân nặng, ngày 3 uống 5 mg/kg cân nặng hoặc.
- Hoặc artesunat tổng liều 16 mg/kg cân nặng chia làm 7 ngày điều trị: ngày 1 uống 4 mg/kg cân nặng, từ ngày thứ 2 đến ngày thứ 7 uống 2 mg/kg cân nặng (không dùng artesunat cho phụ nữ có thai trong 3 tháng đầu trừ trường hợp sốt rét ác tính).
- Hoặc Quinin sulfat liều 30 mg/kg/24 giờ chia 3 lần uống trong ngày, điều trị trong 7 ngày.
Nhiễm Plasmodium falciparum:
- Thuốc phối hợp có dẫn xuất artemisinin: thuốc viên Arterakine hoặc CV artecan (40mg dihydroartemisinin + 320mg piperaquine phosphat)
- Liều dùng:
- Dưới 3 tuổi: ngày đầu 1 viên, hai ngày sau mỗi ngày 1/2 viên.
- Từ 3 đến dưới 8 tuổi: ngày đầu 2 viên, hai ngày sau mỗi ngày 1 viên.
- Từ 8 đến dưới 15 tuổi: ngày đầu 3 viên, hai ngày sau mỗi ngày 1,5 viên.
- Từ 15 tuổi trở lên: ngày đầu 4 viên, hai ngày sau mỗi ngày 2 viên.
- Không dùng cho phụ nữ có thai trong 3 tháng đầu.
Điều trị chống tái phát và chống lây lan:
- Primaquine viên 13,2mg chứa 7,5mg bazơ
- Liều dùng: 0,5mg bazơ/kg cân nặng/ 24 giờ
- Với Plasmodium falciparum điều trị 1 ngày
- Với Plasmodium vivax điều trị 10 ngày liên tục
- Không dùng primaquine cho trẻ em dưới 3 tuổi, phụ nữ có thai, người có bệnh gan và người thiếu men G6PD.
Điều trị sốt rét ác tính:
- Artesunat tiêm tĩnh mạch. Liều dùng: giờ đầu 2,4 mg/kg cân nặng, 24 giờ sau tiêm nhắc lại 1,2 mg/kg cân nặng, sau đó mỗi ngày tiêm 1 liều 1,2 mg/kg cân nặng cho đến khi bệnh nhân có thể uống được thì chuyển sang thuốc uống cho đủ 7 ngày.
- Chú ý điều trị triệu chứng và biến chứng tuỳ thể sốt rét biến chứng.
Bệnh sốt rét là gì?
Sốt rét còn gọi là ngã nước là một chứng bệnh gây ra bởi ký sinh trùng tên Plasmodium, lây truyền từ người này sang người khác khi những người này bị muỗi đốt.
Bệnh phổ biến ở các khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới của châu Mỹ, châu Á và châu Phi. Mỗi năm có khoảng 515 triệu người mắc bệnh, từ 1 đến 3 triệu người tử vong - đa số là trẻ em ở khu vực phía nam sa mạc Sahara, châu Phi. 90% số ca tử vong xảy ra tại đây. Sốt rét thường đi kèm với đói nghèo, lạc hậu, và là một cản trở lớn đối với phát triển kinh tế.
Sốt rét là một trong những bệnh truyền nhiễm phổ biến nhất và là vấn đề rất nghiêm trọng đối với sức khoẻ cộng đồng. Bệnh gây ra bởi ký sinh trùng protozoa thuộc chi Plasmodium. Nhóm các loài Plasmodium gây bệnh ở người thường được gọi chung là ký sinh trùng sốt rét.
Mọi người đều có thể nhiễm bệnh sốt rét. Khả năng miễn dịch với sốt rét không đầy đủ và ngắn do vậy có thể bị tái nhiễm ngay. Không có miễn dịch chéo nên một người có thể nhiễm đồng thời hai ba loại ký sinh trùng sốt rét.
Cách phòng ngừa bệnh sốt rét
Bệnh sốt rét lây truyền từ người sang người qua ký chủ trung gian là muỗi. Để phòng chống sốt rét, người dân cần thực hiện các biện pháp để tránh muỗi đốt, vệ sinh môi trường quanh nơi ở, tuyên truyền cộng đồng về cách phòng tránh bệnh sốt rét.
Để hạn chế tối đa nguy cơ bị muỗi đốt, bạn hãy thực hiện những cách phòng tránh dưới đây:
- Diệt muỗi bằng các biện pháp dân gian như đập muỗi, dùng vợt điện, đèn bắt muỗi.
- Mặc quần áo dài tay, mang vớ chân khi trời tối hoặc khi làm việc trong rừng rẫy.
- Ngủ mùng sớm vào lúc 8 giờ tối để tránh giờ hoạt động cao nhất của muỗi Anopheles, tốt nhất ngủ trong màn tẩm hóa chất phòng chống bệnh sốt rét.
- Dùng hương tinh dầu xua muỗi, hun khói.
- Dùng loại cây có mùi thơm chống muỗi như lá cây long não.
- Sử dụng kem xua muỗi khi sinh hoạt hoặc làm việc ban đêm trong rừng, rẫy.
Thực hiện những cách sau đây để muỗi không còn nơi ẩn nấp và sinh sản:
- Làm vệ sinh môi trường quanh nhà, phát quang bụi rậm, khai thông cống rãnh để thoát hết nước, lấp các vũng nước đọng, đậy nắp chum vại, vớt cỏ cây hai bên bờ khe suối để bọ gậy không có nơi trú ẩn.
- Vệ sinh cá nhân thường xuyên, sắp xếp đồ đạc, quần áo ngăn nắp, gọn gàng.
- Dời chuồng gia súc, gia cầm ra xa nhà, sinh sống ở nơi xa rừng, xa nguồn nước để muỗi không bay vào nhà đốt người.
Tại các nước có dịch sốt rét lưu hành nặng cần thực hiện chủ trương uống thuốc phòng chống cho những người mới vào vùng sốt rét, phụ nữ có thai ở vùng sốt rét, người từ vùng ngoài đến định cư.
Ở nước ta hiện nay đang thực hiện cấp thuốc cho các đối tượng trên để tự điều trị khi mắc bệnh sốt rét. Người dân đi lên rừng, rẫy tại những nơi cao điểm dịch sốt rét hãy đến cơ sở y tế để lấy thuốc và được bác sĩ hướng dẫn cách nhận biết dấu hiệu điển hình của cơn sốt rét và xử trí đúng cách khi bị sốt rét.
Chẳng hạn khi thấy biểu hiện rét run, sốt, vã mồ hôi và khát nước thì cần uống ngay thuốc đã mang theo, sau đó lập tức trở về nhà và đến cơ sở y tế để khám, làm xét nghiệm máu và tiến hành điều trị sớm ngay từ đầu, tránh để bệnh kéo dài có thể chuyển thành sốt rét mức độ trầm trọng hoặc cơ thể bị suy kiệt nặng dễ dẫn đến tử vong.
Ngoài ra, các biện pháp an toàn khi truyền máu phải được thực hiện và kiểm soát chặt chẽ, đặc biệt với người có tiền sử sốt rét hoặc đã sinh sống trong vùng có dịch sốt rét.
Bệnh sốt rét có lây không?
Bệnh sốt rét lây truyền qua đường máu. Có 4 phương thức lây truyền bao gồm:
- Do muỗi truyền: là phương thức chủ yếu.
- Do truyền máu có nhiễm ký sinh trùng sốt rét.
- Do mẹ truyền sang con qua nhau thai bị tổn thương (hiếm gặp).
- Do tiêm chích: dùng chung bơm kim tiêm dính máu có ký sinh trùng sốt rét
Bệnh sốt rét rất phổ biến ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, căn bệnh này có thể ảnh hưởng đến bất kỳ lứa tuổi nào.
Sau đây là một số yếu tố làm tăng nguy cơ mắc:
- Trẻ em và trẻ sơ sinh có nguy cơ rất lớn mắc bệnh, vì lứa tuổi này không thể tự bảo vệ mình khi muỗi đốt do đó lứa tuổi này rất dễ bị muỗi tấn công.
- Những người đi đến nơi có dịch sốt rét.
- Những vùng quê khó khăn vì nơi đây điều kiện sinh hoạt ô nhiễm thiếu thốn và ít được tiếp xúc với thông tin truyền thông, không biết cách để phòng ngừa bệnh.
- Những người nghi ngờ mình bị muỗi Anophen đốt nhưng lại không đến cơ sở y tế để kiểm tra cũng có nguy cơ cao mắc bệnh.
Nguyên nhân gây bệnh sốt rét
Tác nhân gây bệnh sốt rét: ký sinh trùng sốt rét thuộc chi Plasmodium (ngành Apicomplexa). Ở người, bệnh sốt rét gây ra bởi 5 loài: Plasmodium falciparum, Plasmodium malariae, Plasmodium ovale, Plasmodium vivax và Plasmodium knowlesi.
Nguy hiểm hơn cả là Plasmodium falciparum và Plasmodium vivax. Hai loài còn lại (Plasmodium ovale, Plasmodium malariae) cũng gây bệnh nhưng ít tử vong hơn. Riêng loài Plasmodium knowlesi, phổ biến ở Đông Nam Á, gây bệnh sốt rét ở khỉ nhưng cũng có thể gây bệnh nặng ở người.
Ký sinh trùng sốt rét không tồn tại ở môi trường bên ngoài, chỉ tồn tại trong máu người và trong cơ thể muỗi truyền bệnh là muỗi Anopheles.
Trên thế giới có khoảng 422 loài Anopheles nhưng chỉ có khoảng 70 loài truyền bệnh sốt rét, trong đó khoảng 40 loài là muỗi truyền bệnh chính. Ở Việt Nam có 15 loài Anopheles truyền bệnh, trong đó có 3 loài truyền bệnh chính là Anopheles minimus, Anopheles dirus và Anopheles epiroticus.
Muỗi Anopheles minimus phân bố ở vùng rừng núi toàn quốc có độ cao dưới 1000 mét, phát triển mạnh vào đầu và cuối mùa mưa. Muỗi Anopheles dirus phân bố ở vùng rừng núi từ 20 vĩ độ Bắc trở vào Nam, phát triển mạnh vào giữa mùa mưa. Muỗi Anopheles epiroticus phân bố ở vùng ven biển nước lợ Nam Bộ.
Sau khi muỗi truyền bệnh đốt và hút máu người bệnh có giao bào, giao bào đực và cái sẽ kết hợp trong dạ dày muỗi thành noãn. Noãn chui qua thành dạ dày và tạo thành kén ở mặt ngoài dạ dày, tại đây ký sinh trùng phát triển tạo thành hàng nghìn ký sinh trùng non gọi là thoa trùng. Khi kén vỡ giải phóng thoa trùng, thoa trùng di chuyển lên tập trung trong tuyến nước bọt của muỗi. Ở nhiệt độ môi trường từ 20-300C, sau 10 ngày, ký sinh trùng hoàn thành chu kỳ phát triển hữu tính trong cơ thể muỗi và có thể truyền bệnh đến khi muỗi chết. Ở nhiệt độ này, muỗi có thể sống được khoảng 4 tuần.