Bằng một phong cách riêng vừa giàu trí tuệ lại giàu chất thơ, với đầy đủ kiến thức về địa lý, lịch sử, văn hóa, ông đã mang đến cho chúng ta những hình ảnh thật chân thực về con sông Hương của xứ Huế mộng mơ qua bút kí "Ai đã đặt tên cho dòng sông". Đây là tác phẩm hay thường là cảm hứng của người ra đề. Để nắm vững và viết tốt tác phẩm này, mới các bạn đọc các nội dung trọng tâm nhất Toplist đã tổng hợp:
Sông Hương ở thượng nguồn
Nếu người Hà Nội tự hào có con sông Hồng đỏ nặng phù sa thì người Huế cũng tự hào khi có dòng sông Hương thơ mộng chảy qua thành phố Huế cổ kính với những lăng tẩm, đền đài. Con sông ấy đã chứng kiến bao đổi thay của lịch sử, sự thăng trầm của cuộc sống. Dòng nước của con sông Hương ấy đã tươi mát cho cảnh vật cũng như con người nơi xứ Huế này. Vì thế, người Huế rất tự hào về con sông ấy nó mang đặc trưng của Huế, sông Hương là niềm tự hào kiêu hãnh của những con người xứ Huế. Có lẽ cũng vì điều đó mà sông Hương cũng đã đi vào thơ ca, nhạc họa rất trữ tình và sâu lắng. Hoàng Phủ Ngọc Tường, một người con xứ Huế đã bao lần ngắm con sông Hương rồi một lần bất chợt một lần thắc mắc, ai đã đặt tên cho con sông này là sông Hương nhỉ? Nỗi băn khoăn ấy được ông thế hiện trong tùy bút Ai đã đặt tên cho dòng sông. Bằng ngòi bút trữ tình sâu lắng, thể hiện rõ phong cách thể loại Hoàng Phủ Ngọc Tường. Tác phẩm thể hiện sự uyên bác tài hoa của chủ thể sáng tạo trong cái nhìn liên tưởng cùng với những triết luận sâu sắc về quan hệ giữa dòng sông và lịch sử, dòng sông với thi ca nhạc họa, dòng sông và người xứ Huế.
Mở đầu Hoàng Phủ Ngọc Tường đã giới thiệu sự độc đáo, đặc biệt và đầy ấn tượng của con sông Hương. Nó là con sông duy nhất của thành phố. Trước về vùng châu thổ êm đềm, con sông thơ mộng ấy đã vượt qua bao thác ghềnh cuộn xoáy. Mang tính lưỡng thể, sông Hương vừa hùng vĩ “một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, xoáy như cơn lốc vào những đáy vực thắm”, vừa mang vẻ đẹp “dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Tính lưỡng thể của dòng sông Hương ở thượng nguồn vừa “phóng khoáng và man dại " như một nửa cuộc đời có gái Di-gan, biểu lộ “sức mạnh bản năng ở người con gái", vừa mang sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”.
Dòng chảy của sông Hương ở thượng nguồn là “cuộc hành trinh gian truân" không kém phần kì lạ và bí mật, vì nó đã đọng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khó trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng”.
Nguyễn Tuân đã từng tả tiếng thác sông Đà “như oán trách... như van xin... như khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo”, có lúc như tiếng rống của một ngàn con trâu mộng “đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa”... Đó là những ấn tượng vô cùng sâu sắc mà bác Nguyễn đã gieo vào lòng ta khi đọc tùy bút Người lái đò Sông Đà. Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng thật tài hoa khi ông đã sáng tạo nên những liên tưởng, những so sánh, ẩn dụ và nhân hóa miêu tả vẻ đẹp mang tính lưỡng thể đầy tính nhân văn của dòng sông Hương giữa đại ngàn Trường Sơn. Tác giả đã nhắc khẽ mọi người “nếu chỉ mãi mê nhìn ngắm khuôn mặt kinh thành của nó... sẽ không hiểu một cách đầy đủ bản chất của sông Hương với cuộc hành trình gian truân mà nó đã vượt qua... Suy tưởng ấy đã làm cho liên tưởng mà tác giả nêu lên thêm phần rung động thấm thía.
Đoạn trích là đoạn văn xuôi súc tích và đầy chất thơ về sông Hương. Dưới cái nhìn tài hoa, uyên bác của tác giả, sông Hương được khám phá ở nhiều góc độ khác nhau, từ địa lí lịch sử đến văn hóa, thơ ca. Nhà văn đã kết hợp linh hoạt giữa kể và tả sử dụng tài hoa các biện pháp tu từ nghệ thuật như nhân hóa, so sánh, ẩn dụ khiến cho con sông từ vật vô tri vô giác nay bỗng trở nên có hồn, có tính cách, có tâm trạng khi thì dịu dàng, đắm đuối khi lại mạnh mẽ, quyết liệt. Ngôn từ phong phú, đa dạng, giọng văn đầy biến hóa đã tạo nên tuyệt bút “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” mang nét riêng biệt trong văn phong của tác giả.
Tùy bút “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” đã thể hiện được tấm lòng yêu quê hương, yêu con người xứ Huế của nhà văn. Qua đó, cho thấy vốn hiểu biết sâu rộng và phong phú của nhà văn về các kiến thức văn hóa, nghệ thuật. Bài kí trên đã khẳng định được thành công của tác giả trên con đường văn học ở thể bút ký đồng thời cũng thể hiện cái “tôi” cá nhân riêng biệt, trữ tình. Nhà văn đã đem đến cho chúng ta một bài học về tình yêu thiên nhiên, quê hương đất nước. Bởi nếu có quê hương thì mới có chúng ta ngày hôm nay. Phải chăng vì thế mà trong thơ của Đỗ Trung Quân đã viết:
“Quê hương là gì hở mẹ
Mà cô giáo dạy phải yêu
Quê hương là gì hở mẹ
Ai đi xa cũng nhớ nhiều”
“Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là một tìm tòi và thể hiện sự mới mẻ của Hoàng Phủ Ngọc Tường đối với thể loại bút kí. Qua đó, tác giả đã ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên xứ Huế và khẳng định được tài năng uyên bác của mình. Chính vì thế mà sông Hương đã trở thành một dòng sông bất tử, luôn chảy trôi mãi cùng thời gian và trong tâm trí độc giả
Sông Hương dưới góc nhìn địa lí
Xứ Huế mộng mơ là cái nôi nuôi dưỡng tâm hồn cho biết bao nghệ sĩ tài năm của nền văn học Việt Nam để rồi khi trưởng thành, họ quay lại, góp tiếng nói của mình làm giàu đẹp quê hương. Những lần Tố Hữu về thăm Huế là những chuyến đi của máu trở về tim. Về lần đầu tiên, ông viết:
“Đường về xứ Huế quê ta
Mấy sông cũng lội mấy xa cũng gần”
(Đường vào)
“Hương Giang ơi, dòng sông êm
Quả tim ta, vẫn ngày đêm tự tình ”
(Bài ca quê hương)
Sông Hương là không chỉ là một biểu tượng mà còn là niềm tự hào của người dân xứ Huế. Cũng là người con cố đô, Hoàng Phủ Ngọc Tường góp vào văn hoá xứ sở những trang bút kí đặc sắc viết về dòng sông Hương quê mình, tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”. Trong tác phẩm có đoạn: “Từ đây, như đã tìm đúng đường về...những vấn vương của một nỗi lòng.” thể hiện vẻ đẹp dịu dàng của con sông qua góc nhìn địa lý. Từ đó ta cũng thấy được phong cách nghệ thuật độc đáo của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn có phong cách độc đáo và có sở trường chuyên về bút ký. Nét đặc sắc trong sáng tác của ông là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén và suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học, văn hoá, lịch sử, địa lý,... Tất cả được thể hiện qua lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm, tài hoa. Bút ký đặc sắc “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” được viết ngày 4/1/1981 tại Huế và in trong tập sách cùng tên.
Sau khi ngược tìm về cội nguồn Hương giang, tác giả xuôi theo dòng chảy để khám phá dòng sông qua góc nhìn địa lý. Vượt qua những chặng khác nhau, sông Hương về được với mảnh đất của mình. Điều đầu tiên tác giả muốn cho người đọc thấy nét thay đổi của sông Hương khi gặp kinh thành Huế là nó vui tươi hẳn lên “giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long, kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng Tây Nam - Đông Bắc”. Đó là quy luật tình cảm tất yếu. Có ai từng quá nửa hành trình trong cuộc đời mình đi tìm một người tình trong mộng với bao gian nan, vất vả giờ đây khi gặp được chủ nhân của lòng mình lại không vui hay sao? Chính điểm vui tươi của một người con gái trong tình yêu là thời gian đẹp nhất. Hai chữ "yên tâm" trong đoạn văn chính là cảm giác của Hương giang khi tìm được tình yêu đích thực của mình. Sau cảm giác bình yên giữa lòng thành phố Huế, Hương giang lại hiện ra với những đường cong mềm mại, thướt tha, duyên dáng, quen thuộc như vốn có. Nó đang uốn lượn trước mắt, đang làm duyên làm dáng với người tình:“Giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên, sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến; đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu.” Sông Hương hiện lên không chỉ là dòng địa lý vô tri vô giác, người con gái Hương giang bây giờ thật dịu dàng, nhẹ nhàng và e thẹn mang chút ngập ngừng của khi nhận được sự yêu thương. Tiếng “vâng” thẹn thùng này cho ta nhớ đến những câu thơ của Hoàng Mai:
Em theo dòng người về đến quê anh …
...Ta nhận ra nhau vỡ òa màu nắng
Em thẹn thùng anh lâng lâng đỏ mặt
Hai đứa cùng cười nhịp bước song đôi
Tình yêu thật kì diệu. Những khoảng lặng e ấp sao mà đáng yêu đến thế. Và nàng Hương giang khi được ở bên xứ Huế đã nữ tính càng thêm dịu dàng, vừa mạnh mẽ, phóng khoáng ở đại ngàn lại trở lên e thẹn và duyên dáng. Nghệ thuật nhân hóa khiến cho sông Hương trở nên gần gũi như con người và mảnh đất cố đô nơi này.
Qua góc nhìn địa lý để miêu tả Hương giang khi chảy qua lòng thành phố Huế, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã cảm nhận vẻ đẹp của nó bằng cảm quan của một người nghệ sĩ: một người họa sĩ kiêm một nhạc sĩ. Dưới con mắt của hội họa, Hương giang hiện lên mang vẻ đẹp của cố đô, vẻ đẹp của Việt Nam. Tác giả hướng tới cái nhìn xưa cũ của "những cây đa, cây cừa cổ thụ tỏa vầng lá u sầm xuống xóm thuyền xúm xít", của những ánh lửa thuyền chài lập lòe. Không chỉ gợi nên bằng đường nét, sông Hương còn được gợi nên với màu sắc. Điều này khiến cho Huế mang một vẻ đẹp riêng mà không một thành phố hiện đại nào có được. Qua bàn tay của người nghệ sĩ tài ba, Hoàng Phủ Ngọc Tường còn gợi nên dòng sông Hương với đầy đường nét quyến rũ, sắc màu hài hòa, màu biêng biếc của hàng cau, bóng trúc, lung linh trong trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh trên sông và đặc biệt là cây cầu trắng in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như một vầng trăng non. Phải là người yêu quê hương, yêu dòng sông Hương, yêu mảnh đất Huế đến nhường nào thì Hoàng Phủ Ngọc Tường mới viết lên được áng văn lay động lòng người đến vậy.
Nếu qua hội hoạ, sông Hương mang vẻ đẹp cố đô, vẻ đẹp của văn hoá, con người thì qua lăng kính của âm nhạc, sông Hương chính là “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”, rất chậm rãi, sâu lắng, trữ tình. Có lẽ không một ai đến Huế mà không yêu điệu chảy lững lờ của sông Hương. Thi sĩ Thu Bồn trong “Tạm biệt” cũng từng tha thiết trước điệu chảy ấy:
“Con sông dùng dằng, con sông không chảy
Sông chảy vào lòng Huế nên rất sâu”
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thật tinh tế khi nhận ra cái đặc trưng của Hương giang. Để minh chứng cho sự “thực chậm”, tác giả đã so sánh với lưu tốc của dòng sông Nê-va “cuốn trôi những đám băng lô xô”. Những “con tàu thuỷ tinh” chở hải âu đi nhanh đến nỗi “không kịp cho lũ hải âu nói một điều gì với người bạn của chúng đang ngẩn ngơ trông theo”. Càng gắn bó, càng khám phá, cảm nhận, nhà văn càng “thấy quý điệu chảy lặng lờ” của sông Hương. Phải chăng vì chỉ lặng lẽ chảy “cơ hồ như mặt hồ yên tĩnh” nên những vẻ đẹp xứ sở còn lắng đọng mãi, tích tụ thành những vỉa phù sa văn hoá đầy ắp nơi cố đô, để ta không phải tiếc như “một người Hi Lạp tên là Hê-ra-clít, đã khóc suốt đời vì những dòng sông trôi đi quá nhanh”. Dòng chảy chầm chậm của Hương giang còn được cảm nhận qua thị giác khi “trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng Bảy từ điện Hòn Chén trôi về, qua Huế bỗng ngập ngừng như muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng”.
Điệu “slow” của sông Hương đặc biệt bởi nó được lý giải, được tạo nên từ yếu tố địa lý thực tế và liên tưởng phóng tác của tác giả. Sông Hương khi vào đến kinh thành Huế, nếu giải thích về mặt địa lí thì do các chi lưu nhỏ dẫn nước của con sông đi khắp các biền bãi và với hai hòn đảo nhỏ trên sông làm cho lưu tốc của dòng nước chậm hẳn lại. Nhưng Hoàng Phủ Ngọc Tường yêu xứ Huế, yêu sông Hương, bởi vậy ông còn đặt cảm con tim của mình, đứng trên góc độ là người con xứ sở để giải thích. Sông Hương chảy chậm, điệu nhảy lững lờ vì nó quá yêu thành phố của mình, nó muốn được nhìn ngắm nhiều hơn nữa thành phố thân thương trước khi phải rời ra. Khi gặp người yêu, gặp chủ nhân của lòng mình thì có ai muốn nỡ rời xa, bởi khi ấy mỗi giây phút đều đong đầy yêu thương nên ai cũng muốn thời gian như ngừng lại để níu giữ lấy tình yêu. Đó là tình cảm của sông Hương dành cho thành phố Huế và cũng là tình cảm của tác giả dành cho dòng sông Hương, cho mảnh đất cố đô này. Đôi mắt sâu sắc của nhà văn đã nhìn ra mối quan hệ biện chứng giữa dòng sông Hương mềm mại với con người xứ Huế. Sông Hương dịu dàng, duyên dáng phải chăng đã góp phần hình thành nên tính cách nết na, ý nhị của người con gái cố đô.
Qua đoạn trích trong tác phẩm, ta đã thấy được phần nào vẻ đẹp quyến rũ, gợi cảm của Hương giang. Đối với mỗi người chắc rằng sông Hương sẽ “gợi cảm” theo một cách khác nhau. Thành công của đoạn trích cũng thể hiện phong cách nghệ thuật độc đáo của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Phong cách nghệ thuật được hiểu là một phạm trù thẩm mĩ, chỉ sự thống nhất tương đối ổn định của hệ thống hình tượng của các phương tiện biểu hiện nghệ thuật, nói lên cái nhìn độc đáo trong các sáng tác của nhà văn, trong tác phẩm riêng lẻ, trong trào lưu văn học hay văn học dân tộc. Phong cách văn học có dấu hiệu riêng và nổi lên trên bề mặt của tác phẩm như một thực thể hữu hình , mà yếu tố cơ bản là nội dung và hình thức tác phẩm. Chỉ có ở những nhà văn có tài năng, có bản lĩnh mới có được phong cách riêng độc đáo. Viết về sông Hương, Hoàng Phủ Ngọc Tường thể hiện một sự hiểu biết sâu rộng về mọi mặt: văn hóa, lịch sử, địa lí,… Nhà văn đã cung cấp cho người đọc một lượng thông tin đa dạng để hiểu sâu hơn về dòng sông. Kết hợp với đó, chất trữ tình, chất thơ toát ra từ những từ ngữ, câu văn, những hình ảnh đẹp. Đó là cảnh mờ nhòe lung linh trên sông nước, là cách so sánh liên tưởng gợi cảm: “Chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời nhỏ nhắn như những vầng trăng non”.
Như vậy, đặc sắc nghệ thuật của đoạn trích chính là phong cách nghệ thuật của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Qua góc nhìn địa lý, tác giả đã thổi hồn vào dòng sông, ghi lại chân thực những vẻ đẹp đa chiều, thơ mộng của nó. Đoạn trích nằm trong mạch viết miêu tả sông Hương trong thủy trình từ thượng lưu về thành phố Huế rồi đổ ra biển, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tiếp cận dòng sông từ nhiều không gian và thời gian khác nhau. Ở mỗi góc độ, nhà văn đã phát hiện ra những vẻ đẹp riêng, độc đáo, mới lạ và thể hiện một cảm nghĩ sâu sắc về con sông đã trở thành biểu tượng của Huế. Từ mỗi góc nhìn, qua giọng điệu thiết tha, say đắm trong mỗi trang văn, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra tình cảm yêu mến, gắn bó sâu nặng và cả niềm tự hào của nhà văn về vẻ đẹp của sông Hương, vẻ đẹp tự nhiên và mang đậm màu sắc văn hóa của dòng sông quê hương.
Trước khi có “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” Hương giang vốn dĩ vẫn chảy, vẫn đẹp, vẫn thơ mộng. Thế nhưng dường như phải đến bút ký này của Hoàng Phủ Ngọc Tường ta mới thấy được sông Hương một cách toàn diện nhất, sâu sắc nhất, huyền bí nhất. Và ta cũng dần dần nhận ra Huế đang có thêm một người kể chuyện cho văn hóa quê hương xứ sở. Đó là một người kể chuyện rất mực say mê, rất mực tài hoa. Để rồi từ đó cho mãi đến về sau này, nhắc về xứ Huế hình ảnh đại diện sẽ là sông Hương, nhắc về sông Hương là sẽ nhớ đến “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Sông Hương dưới góc nhìn lịch sử
“Đã đôi lần đến với Huế mộng mơ, tôi ôm ấp một tình yêu dịu ngọt, Vẻ đẹp Huế chẳng nơi nào có được…” Huế là nơi con người và thiên nhiên hòa quyện với nhau là một, nếu đã đến Huế chắc hẳn mỗi chúng ta sẽ cảm nhận được điều này. Và có ai về xứ Huế mộng mơ mà không một lần ngắm nhìn sông Hương xuôi dòng. Con sông đã làm nên nét đặc trưng của xứ Huế. Chính vì thế mà từ bao giờ nó đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho văn chương nói riêng và nghệ thuật nói chung. Một trong những tác phẩm nổi tiếng về sông Hương chính là tùy bút “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Ngoài vẻ đẹp thơ mộng, dịu dàng mà nó mang trong mình thì đây còn là một dòng sông gắn với lịch sử đất nước và văn hóa xứ Huế nói riêng.
Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh năm 1937 tại Huế. Quê gốc ở làng Bích Khê, xã Triệu Long, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, song gần như suốt cuộc đời, ông gắn bó với xứ Huế yêu thương. Chính vì ông là một con người dành nhiều tình cảm cho xứ Huế nên tâm hồn nhà văn thấm đẫm đặc trưng của văn hóa Huế. Năm 1960, ông tốt nghiệp ban Việt – Hán Trường Đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, tốt nghiệp khoa Triết – Văn Đại học Huế. Sau đó, ông về dạy tại trường Quốc học Huế. Năm 1966, Hoàng Phủ Ngọc Tường thoát li lên chiến khu, tham gia cuộc kháng chiến chống Mĩ bằng hoạt động văn nghệ, ông đã giữ các chức vụ: Tổng thư kí Hội Văn học nghệ thuật Trị Thiên – Huế. Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Bình Trị Thiên.
Trong mối quan hệ với lịch sử đất nước, sông Hương là dòng “sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc” theo dòng thời gian sông Hương là chứng nhân lịch sử, nhà văn đã đưa người đọc trở về với quá khứ gian truân mà hào hùng của đất nước để cảm nhận được hết nét đẹp này của sông Hương. Nó chính là một ải Chi Lăng ở phía Nam Tổ quốc đã bao lần làm quân thù khiếp sợ. Châu Hóa giữ vị trí chiến lược trong việc trấn giữ biên cương của Tổ quốc Đại Việt. Lịch sử đã gọi nó là Vạn Lí Trường Thành của Phương Nam. Trong sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi, sông Hương là dòng Linh Giang âm vang lịch sử, là dòng sông biên thùy từng chiến đấu oanh liệt để bảo vệ biên giới của Tổ quốc. Thế kỉ XVIII nó soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ. Nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ XIX với máu của những cuộc khởi nghĩa. Thế kỉ XX, sông Hương đi vào Cách mạng tháng tám bằng những chiến công rung chuyển để rồi sau đó nó tiếp tục có mặt trong những năm tháng bi hùng nhất của lịch sử đất nước với cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ ác liệt. Quay về quá khứ xa xưa, ngòi bút nhà văn lấp lánh niềm tự hào về lịch sử một dòng sông có cái tên mềm mại, dịu dàng nhưng kiên cường, kiêu hãnh qua bao thăng trầm lịch sử. Khi hòa bình lặp lại, sông Hương đã trở về cuộc sống đời thường khi đó nó là một người con gái dịu dàng của đất nước. Xuyên suốt trang văn của mình, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã phát hiện ra vẻ đẹp hùng tráng của dòng Hương Giang. Ông đã hiểu một cách thấu đáo, sông Hương từ cội nguồn của nó cho đến khi đổ ra biển Đông đều gắn với lịch sử dựng và giữ nước oai hùng của dân tộc.
Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã chìm trong vẽ đẹp của Hương Giang để phát hiện ra cái nôi văn hóa của kinh thành Huế đã được khai sinh.Từ đây bằng vốn kiến thức am hiểu sâu sắc về nhiều lĩnh vực âm nhạc, thi ca văn hóa truyền thống, ông khẳng định ” toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này” từ nhã nhạc cung đình, ca Huế, cho đến những điệu hò dân gian, mái nhì, mái đẩy. Ai đã từng nghe ca Huế trên sông Hương mới có thể cảm nhận hết nét thơ mộng, lãng mạn của hồn điệu dân gian xứ Huế, trong trường liên tưởng của mình tác giả phát hiện ra mối quan hệ giữa những bản nhạc xưa của Huế với truyện Kiều của Nguyễn Du để thấy được sự giao thoa tương đồng giữa thơ và nhạc.
Vẻ đẹp của sông Hương không được tô đậm, nếu nhà văn quên đi một dòng sông thi ca. Dòng sông đã khơi nguồn cảm hứng cho biết bao nghệ sĩ và họ chưa bao giờ lặp lại mình. Khi nhìn vẻ đẹp của Hương Giang nó vẫn mãi mãi là nỗi hoài vọng về một cái đẹp nào đó chưa đạt tới, thi sĩ Tản Đà gọi dòng sông xanh biếc ấy là ” dòng sông trắng, lá cây xanh”. Từ một Linh Giang mơ màng sông Hương còn bảng lảng nỗi sầu vạn cổ trong thơ bà Huyện Thanh Quan. Đó còn là hình ảnh dòng sông mang tráng khí cao người anh hùng Cao Bá Quát “Trường giang như kiếm dựng thanh niên”. Suy cho cùng vẻ đẹp phong phú biến ảo của Hương giang đã chảy qua những tâm hồn, những trang thơ, trang văn của người nghệ sĩ làm phong phú thêm mạch nguồn thi ca dân tộc.
Có người đã từng nói rằng nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường rất uyên bác với vốn hiểu biết phong phú về lịch sử, văn hóa, nghệ thuật xứ Huế. Đó là sự uyên bác của một nhà Huế học. Nhận xét đó rất đúng với nhà văn, ông đã mang đến cho người đọc những kiến thức rất mới mẽ, sâu sắc về văn học Huế. Có lẽ vì yêu mến dòng sông Hương nên vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của thiên nhiên ấy đã khơi gợi nguồn cảm hứng để những nghệ nhân xưa may trang phục truyền thống của cô dâu Huế theo đúng màu sương khói trên sông Hương. Họ kết hợp loại vải vằn thưa màu xanh chàm với màu đỏ để làm nên một màu tím nhân loại của xứ Huế. Sự phát hiện ấy cho thấy sự am tường về văn hóa Huế đồng thời lối viết rất độc đáo, sáng tạo, bày tỏ được cảm xúc mến thương dành cho sông Hương và xứ Huế.
Chất trí tuệ và chất thơ trong bài kí là biểu hiện của một phong cách văn xuôi vừa tài hoa nghệ sĩ vừa uyên bác. Ở bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông có sự hòa hợp tương giao linh ứng giữa cảnh sắc, lịch sử, văn hóa Huế với một tâm hồn nhà văn dễ rung động, vô cùng nhạy cảm. Qua bài kí, ta có thể cảm nhận được tấm lòng của nhà văn dành cho thiên nhiên, cho đất Huế, sâu xa hơn là tấm lòng cho quê hương đất nước, thiết tha với những giá trị cổ xưa của dân tộc. Đó là những giá trị mà cuộc sống hôm nay vẫn cần đến. Dòng sông Hương không chỉ bồi đắp nên một nền văn hóa cố đô mà còn làm màu mỡ thêm cho cuộc sống của mỗi chúng ta hiện tại.
Sông Hương trong lòng thành phố
Ngay từ khi đọc nhan đề, ở người đọc đã vang lên câu hỏi: “Ai đã đặt tên cho dòng sông” - câu hỏi có dáng dấp ngẩng ngơ rất thi sĩ. Từ thoáng ngẩn ngơ này, bao nhiêu ấn tượng về cái đẹp của sông Hương sẽ ùa về trong tâ, trí, khơi lên mạch viết dạt dào cảm xúc về “nhan sắc” thiên phú của dòng nước êm đềm chảy qua Huế cố đô. Vang lên những lần khác trong tác phẩm, câu hỏi biến thành một nỗi suy tư thâm trầm, đánh động bao vốn liếng văn hóa tích tụ trong người viết và cũng dòi hỏi nó phải được hiện diện trên trang giấy. Vậy đó, ta đang nói đến những mạch cảm hứng lớn đã dẫn dắt nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đến và đi với sông Hương, để rồi tiếp nữa, làm một cuộc viễn du vào lòng muôn dộc giả, đóng vai người truyền cảm hứng cho họ bộc lộ tình yêu xứ sở hết sức thiết tha của mình.
Sau khi làm “bản trường ca của rừng già” và “rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn” ở khúc thượng nguồn, thành “người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại” ở ngoại vi thành phố Huế, sông Hương chính thức chảy vào trong thành phố Huế.
Dưới góc nhìn địa lí, sông Hương giáp mặt với Huế ở Cồn Giã Viên, uốn mình một đường cong chảy vào thành phố Huế. Lưu tốc của sông giảm hẳn do có sự hiện diện hai hòn đảo nhỏ và những chi lưu mang nước đi khắp thành phố. Vì thế sông trôi thật chậm như một mặt hồ yên tĩnh.
Dưới góc nhìn tài hoa và mê đắm của Hoàng Phủ Ngọc Tưởng, sông Hương hiện lên với gương mặt riêng. Sông chảy theo hướng tây nam - đông bắc, “kéo một nét thẳng thực yên tâm” “như tìm đúng đường về”, như người con gái đã tìm thấy bến đỗ của tình yêu, vui tươi và yên tâm. Dáng người con gái ấy “mềm mại như dáng lụa”, mềm như “tiếng vâng không nói ra của tình yêu” vừa duyên dáng và ý nhị. Cái nhìn ấy của Hoàng Phủ không chỉ đơn giản là cái nhìn quan sát, khám phá mà là cái nhìn mê đắm của chàng trai dành cho người con gái. Hai bên bờ sông có đủ những cảnh đẹp: xa - gần, cổ kính - bình dị, sang trọng - mộc mạc của cuộc sống cần lao: “những cây đa, cây cừa cổ thụ tỏa vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm xít; từ những nơi ấy, vẫn lập lòe trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ mà không một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được”. Tiếp theo đó là dáng nước. Trong cái nhìn của Hàn Mặc Tử, nhịp điệu của sông nước là nhịp buồn:
“Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”
Trong cái nhìn Tố Hữu là nhịp của những tình nghĩa:
“Hương giang ơi, dòng sông êm
Quả tim ta, vẫn ngày đêm tự tình”
Với Thu Bồn lại là nhịp lắng đọng:
“Con sông dùng dằng, con sông không chảy”
So với con sông ở Lê - nin - grát, sông Nê - va, tác giả lại càng thấy nhớ, thấy quý điệu chảy lặng lờ. Bởi điệu chảy của sông Hương là điệu tâm hồn, là nhịp sống chậm, là những giây phút vừa sống vừa cảm nhận, vừa lắng nghe. Nhìn con sông xứ người mà thêm yêu con sông xứ mình. Tác giả đã thực sự trở thành một tri kỉ của sông Hương, hiểu ngọn ngành khí chất của nó.Theo tác giả, sông Hương đã thật “tâm lí” khi “trôi chậm, thực chậm” qua kinh thành Huế, như để an ủi người ta đừng quá sầu muộn về sự biến đổi vô thường của cuộc đời, về sự vèo qua chóng mặt của thời gian. Dòng nước sông đã lặng tờ một cách cố tình để muốn những ánh hoa đăng trong đêm hội rằm tháng Bảy từ điện Hòn Chén trôi về qua Huế “bồng ngập ngừng như muốn đi muốn ở” . Bằng cách trôi rất riêng đó của mình, sông Hương như muốn nhắc người ta rằng cuộc đời này có rất nhiều cái đáng vương vấn. Rồi nữa, nếu không nhờ sự phát hiện đầy tính chất đồng điệu của tác giả đối với sông Hương, mấy ai biết rằng việc sông Hương đột ngột đổi dòng ngay khi vừa chia tay Huế là thuận theo một lí do rất tình cảm, rất “người”: chẳng qua nó muốn gặp lại Huế “để nói một lời thề trước khi về biển cả”. Ở đây có đến ba tháu độ chí tình cùng “hợp lưu” với nhau: Chí tình của sông Hương đối với Huế, chí tình của con người Huế trong tình yêu và chí tình của chính tác giả dành cho sông Hương, dành cho cả mảnh đất xưa gọi là Châu hóa. Suy cho cùng nếu không có cái chí tình của tác giả thì cái chí tình của sông Hương không thể trở thành một “khách thể tinh thần” gay ấn tượng sâu đậm đến vậy!
Nếu biết cất tiếng người, hẳn sông Hương sẽ nói rằng nó đã thực sự yên tâm khi chọn trang viết của Hoàng Phủ Ngọc Tường để hóa thân. Có lẽ chính nhà văn cũng nhận thấy, cũng hiểu niềm tin cậy đó, nên từng câu văn của ông bay bổng, diễm ảo lạ thường. Nhiều lúc độc giả có cảm tưởng ngôn từ trong bài bút kí không phải là của tác giả dùng để miêu tả sông Hương mà chính là ngon từ của sông Hương đang hát lên bài ca cho mình. Ngôn từ ấy trôi chảy hết sức tự nhiên, nếu có “luyến láy” thì cũng “luyến láy” một cách tự nhiên bởi chất hào hoa, đa tình vốn đã là cái gì thuộc về căn cốt của người viết rồi. Thiên bút kí đưa đến rất nhiều thông tin mà đọc lên vẫn thấy thanh thoát là nhờ thế. Rất nhiều trải nghiệm của một đời viết luôn gắn bó với con người, dân tộc và đất nước đã được đưa vào đây. Yêu sông Hương nhưng tình yêu ấy không ngăn cản ta yêu những dòng sông khác có trên trái đất. Và ngược lại, niềm thích thú được quan sát dáng nét độc đáo của những dòng sông thuộc các vùng khác nhau lại làm tươi mười trong ta nỗi rung động bổi hồi rất đặc biệt trước dòng sông quê hương đã nuôi lớn cuộc đời mình.
Sông Hương ở ngoại vi thành phố
“Ai đã đặt tên cho dòng sông” là một tuỳ bút đặc sắc, thể hiện phong cách tài hoa, uyên bác, giàu chất thơ của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Bài kí đã ca ngợi dòng sông Hương như một biểu tượng của Huế (đặc biệt là đoạn từ thượng nguồn đến thành phố Huế).
Trước khi trở thành người tình dịu dàng và chung thuỷ của Kinh thành Huế có hàng trăm năm văn hiến, sông Hương đã trải qua một hành trình đầy gian truân và những thử thách. Trong cái nhìn tinh tế, lãng mạn và rất phong tình của tác giả, toàn bộ thuỷ trình của dòng sông Hương tựa như cuộc tìm kiếm có ý thức người tình nhân đích thực của người con gái trong một câu chuyện tình yêu nhuốm màu cổ tích.
Đoạn tả sông Hương chảy xuôi về đồng bằng và ngoại vi thành phố bộc lộ một nét lịch lãm, tài hoa với những hình ảnh mỹ lệ, vốn ngôn ngữ giàu có, sự hiểu biết phong phú của tác giả. Giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại, sông Hương là “cô gái đẹp ngủ mơ màng”. Nhưng ngay khi ra khỏi vùng núi, sông Hương bỗng bừng lên sức trẻ như “người đẹp bừng tỉnh sau một giấc ngủ dài” với niềm khát khao của tuổi thanh xuân trong sự “chuyển dòng liên tục”, rồi “vòng những khúc quanh đột ngột”, “vẽ một hình cung thật tròn”, “ôm lấy chân đồi Thiên Mụ”, “vượt qua”, “đi giữa âm vang”, “trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách”.
Vừa mạnh mẽ, vừa tình tứ mà dịu dàng kín đáo, đó là cái nét phẩm chất đẹp đẽ mang nét riêng của sông Hương - cô gái Huế được tác giả diễn tả bằng những nét vẽ, những hình ảnh cũng thật tình tứ, dịu dàng. Khi qua Vọng Cảnh, Tam Thai, Lưu Bảo “dòng sông mềm như tấm lụa”; khi qua “hai dãy đồi sừng sững như thành quách”, dòng sông ánh lên vẻ đẹp biến ảo với những phản quang nhiều màu sắc “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Khi qua bao lăng tẩm, đền đài mang niềm kiêu hãnh âm u được phong kín trong những rừng thông u tịch toả lan khắp cả một vùng thượng lưu “Bốn bề núi phủ , mây phong; Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng Vạn Niên”, dòng sông Hương, mang vẻ đẹp “trầm mặc như triết lí, như cổ thi, kéo dài mãi đến lúc mặt nước phẳng lặng của nó bỗng sinh động bừng sáng lên khi gặp tiếng chuông Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”.
Tóm lại, với những nét bút giàu màu sắc hội hoạ tinh tế, với cảm xúc say đắm, ở đoạn này Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tạo dựng được một bức tranh sông Hương thật đẹp bởi sự phối cảnh kì thú giữa nó với thiên nhiên xứ Huế đa dạng và rất hài hoà.
Bằng một tình cảm thiết tha với Huế, với một vốn văn hoá phong phú và một kho từ ngữ giàu có đậm chất thơ, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khắc hoạ được một dòng sông như một công trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hoá, một vẻ đẹp rất thơ, khơi nguồn cho cảm hứng thi ca và gắn liền với nền âm nhạc cổ điển Huế, tạo nên bề dày lịch sử văn hoá của cố đô. Nhờ đó, sông Hương đã trở thành dòng sông bất tử chảy mãi trong trí nhớ và tình cảm của độc giả, bồi đắp phù sa màu mỡ làm xanh tươi thêm tình yêu đối với quê hương đất nước.