Top 10 Bài thơ hay nhất của nhà thơ Lý Bạch

Lý Bạch sinh năm (701 – 762), tự là Thái Bạch, hiệu là Thanh Liên cư sĩ. Ông sinh ra ở làng Thanh Liên, huyện Chương Minh nay gọi là huyện Miện Dương, tỉnh Tứ Xuyên. Quê gốc của ông là ở Cam Túc, huyện Thiên Thủy. Lý Bạch là một trong những nhà thơ nổi bật nhất của nền văn học Trung Quốc thời bấy giờ. Khác với các ngòi bút đương thời, thơ Lý Bạch thích viễn vông, phóng túng, thích gió thích trăng, yêu cảnh đẹp chứ ít động chạm đến thế sự nhân tình. Và dưới đây toplist xin giới thiệu đến bạn các bài thơ hay nhất của nhà thơ Lý Bạch.

Nguyệt dạ giang hành ký Thôi viên ngoại Tông Chi

Nguyệt dạ giang hành ký Thôi viên ngoại Tông Chi

"Phiêu phiêu giang phong khởi

Tiêu táp hải thụ thu

Đăng lô mỹ thanh dạ

Quải tịch di khinh chu

Nguyệt tùy bích sơn chuyển

Thủy hợp thanh thiên lưu

Diểu như tinh hà thượng

Đán giác vân lâm u

Quy lộ phương hạo hạo

Tồ xuyên khứ du du

Đồ bi huệ thảo yết

Phúc thính lăng ca sầu

Ngạn khúc mê hậu phố

Sa minh hám tiền châu

Hoài quân bất khả kiến

Lưu viễn tăng ly ưu."

Nguyệt dạ giang hành ký Thôi viên ngoại Tông Chi
Nguyệt dạ giang hành ký Thôi viên ngoại Tông Chi
Nguyệt dạ giang hành ký Thôi viên ngoại Tông Chi
Nguyệt dạ giang hành ký Thôi viên ngoại Tông Chi

Đối tửu

Đối tửu

"Bồ đào tửu,

Kim phả la,

Ngô cơ thập ngũ tế mã đà.

Thanh đại hoạ mi hồng cẩm ngoa,

Đạo tự bất chính kiều xướng ca.

Đại mội diên trung hoài lý tuý,

Phù dung trướng để nại quân hà."


Dịch nghĩa:

Rượu nho uống với chén vàng

Gái Ngô ngựa nhỏ tuổi chừng mười lăm

Mày xanh giày ủng gấm hồng

Giọng tuy chưa chuẩn thanh âm nhẹ nhàng

Tiệc đang dở bỗng say ngang

Trướng hoa bất tỉnh cô nàng cười chăng?

Đối tửu
Đối tửu
Đối tửu
Đối tửu

Thanh bình điệu kỳ 1

Đây là bài thơ hay viết về Dương Quý Phi, người phụ nữ đẹp sắc nước hương trời được sự sủng ái của Đường Minh Hoàng Lý Long Cơ. Vẻ đẹp của người đàn bà này đã trở thành đề tài trong thơ văn Lý Bạch.


Thanh bình điệu kỳ 1

"Vân tưởng y thường, hoa tưởng dung,
Xuân phong phất hạm, lộ hoa nùng.
Nhược phi Quần Ngọc sơn đầu kiến,
Hội hướng Dao Đài nguyệt hạ phùng."


Dịch nghĩa:
"Nhìn mây nhớ đến xiêm áo, thấy hoa nhớ đến dung nhan,
Gió xuân thổi nhẹ qua hiên, sương hoa nồng nàn.
Nếu không phải người ở mé núi Quần Ngọc,
Thì cũng là thấy ở dưới trăng chốn Dao Đài."

Thanh bình điệu kỳ 1
Thanh bình điệu kỳ 1
Thanh bình điệu kỳ 1
Thanh bình điệu kỳ 1

Nguyệt hạ độc chước kỳ 1

Lý Bạch là người ít quan tâm đến thế sự nhân tình, ông thích cuộc sống phóng túng nay đây mai đó. Vì thế, thơ Lý Bạch cũng khác với các hồn thơ đương thơi. Nếu bạn từng đọc về thơ của ông sẽ thấy bộ 3 hình ảnh: trăng, rượu, thơ xuất hiện rất nhiều. Đó được xem là người bạn tri kỷ của ông. Bài thơ Nguyệt hạ độc chước kỳ 1 là một trong số đó. Trăng, thơ, rượu đã giúp hồn thơ Lý Bạch cất cánh bay lên.


Nguyệt hạ độc chước kỳ 1

"Uống rượu một mình

Hoa gian nhất hồ tửu,

Độc chước vô tương thân.

Cử bôi yêu minh nguyệt,

Đối ảnh thành tam nhân.

Nguyệt ký bất giải ẩm,

Ảnh đồ tùy ngã thân.

Tạm bạn nguyệt tương ảnh,

Hành lạc tu cập xuân.

Ngã ca nguyệt bồi hồi,

Ngã vũ ảnh linh loạn.

Tỉnh thì đồng giao hoan,

Tuý hậu các phân tán.

Vĩnh kết vô tình du,

Tương kỳ mạc Vân Hán."


Dịch nghĩa:

Trong đám hoa với một bình rượu

Uống một mình không có ai làm bạn

Nâng ly mời với trăng sáng

Cùng với bóng nữa là thành ba người

Trăng đã không biết uống rượu

Bóng chỉ biết đi theo mình

Tạm làm bạn với trăng và bóng

Hưởng niềm vui cho kịp với ngày xuân

Ta hát trăng có vẻ bồi hồi không muốn đi

Ta múa bóng có vẻ quay cuồng mê loạn

Lúc tỉnh cùng nhau vui đùa

Sau khi say thì phân tán mỗi một nơi

Vĩnh viễn kết chặt mối giao du vô tình này

Cùng nhau ước hẹn lên trên Thiên hà gặp lại.

Nguyệt hạ độc chước kỳ 1
Nguyệt hạ độc chước kỳ 1
Nguyệt hạ độc chước kỳ 1
Nguyệt hạ độc chước kỳ 1

Anh Vũ Châu

Lý Bạch năm 56 tuổi bị lưu đày đi huyện Dạ Lang tỉnh Quý Châu. Khi chờ đò ngang để qua sông Trường Giang, ông làm bài này.


Anh Vũ Châu

"Anh vũ lai quá Ngô giang thuỷ,
Giang thượng châu truyền Anh Vũ danh.
Anh vũ tây phi Lũng sơn khứ,
Phương châu chi thụ hà thanh thanh.
Yên khai lan diệp hương phong khởi,
Ngạn giáp đào hoa cẩm lãng sinh.
Thiên khách thử thời đồ cực mục,
Trường châu cô nguyệt hướng thuỳ minh?


Dịch nghĩa:
Chim anh vũ xưa bay đến sông Ngô
Bãi trên sông mới truyền lại tên Anh Vũ
Chim anh vũ đã bay về Tây qua núi Lũng
Bãi thơm cây xanh biếc làm sao!
Khói toả ra từ lá cây lan làm gió thơm nổi dậy
Bờ liền với hoa đào, sóng gấm sinh
Lúc ấy người đi đày trông hoài cõi xa
Trên bãi dài mảnh trăng cô đơn còn soi sáng cho ai.

(Năm 760)

Anh Vũ châu
Anh Vũ châu
Anh Vũ châu
Anh Vũ châu

Cổ ý

Cổ ý

"Quân vi nữ la thảo,

Thiếp tác thố ti hoa.

Khinh điều bất tự hành,

Vị trục xuân phong tà.

Bách trượng thác viễn tùng,

Triền miên thành nhất gia.

Thuỳ ngôn hội diện dị,

Các tại thanh sơn nha (nhai).

Nữ la phát hinh hương,

Thố ty đoạn nhân trường.

Chi chi tương củ kết,

Diệp diệp cánh phiêu dương.

Sinh tử bất tri căn,

Nhân thuỳ cộng phân phương.

Trung sào song phỉ thuý,

Thượng túc tử uyên ương.

Nhược thức nhị thảo tâm,

Hải triều diệc khả lường."


Dịch nghĩa:

Chàng là loài cỏ nữ la

Thiếp là loài hoa thố ti

Cành nhỏ nhắn không thể tự đi

Nghiêng ngả theo gió xuân

Gởi thân nơi cây tùng trăm trượng xa xôi

Lâu ngày thành chung một nhà

Ai bảo gặp nhau đã dễ

Mỗi bên ở một bên sườn núi xanh

Cỏ nữ la toả mùi thơm ngát

Hoa thố ti làm người ta đứt ruột

Cành cành kết lại với nhau chằng chịt

Lá lá phất phơ theo gió

Sinh con chẳng biết đến rễ

Nhờ ai mà cùng thơm

Bên trong là tổ phỉ thuý

Bên trên đôi uyên ương đậu

Ví như biết được tấm lòng của hai loài cỏ ấy

Thì có thể đo được nước triều ở biển.

Cổ ý
Cổ ý
Cổ ý
Cổ ý

Bả tửu vấn nguyệt

Bả tửu vấn nguyệt

"Thanh thiên hữu nguyệt lai kỷ thì,
Ngã kim đình bôi nhất vấn chi!
Nhân phan minh nguyệt bất khả đắc,
Nguyệt hành khước dữ nhân tương tuỳ.
Kiểu như phi kính lâm đan khuyết,
Lục yên diệt tận thanh huy phát
Đãn kiến tiêu tòng hải thượng lai,
Ninh tri hiểu hướng vân gian một.
Bạch thố đảo dược thu phục xuân,
Thường nga cô thê dữ thuỳ lân.
Kim nhân bất kiến cổ thì nguyệt,
Kim nguyệt tằng kinh chiếu cổ nhân.
Cổ nhân kim nhân nhược lưu thuỷ,
Cộng khan minh nguyệt giai như thử.
Duy nguyện đương ca đối tửu thì,
Nguyệt quang thường chiếu kim tôn lý."

Dịch nghĩa:
"Trời xanh có vầng trăng đã bao lâu rồi?
Nay ta ngừng chén hỏi trăng đây!
Người thường không thể vin với được vầng trăng sáng,
Trăng đi đâu thì vẫn cứ theo người.
Ánh sáng trắng như gương vút tận cửa son,
Khói biếc tan đi hết, để lộ vẻ trong trẻo lan tỏa ra.
Chỉ thấy ban đêm trăng từ biển tới,
Nào hay sớm lại tan biến giữa trời mây.
Thỏ trắng giã thuốc mãi thu rồi lại xuân,
Thường Nga lẻ loi cùng ai bầu bạn?
Người ngày nay không thấy bóng trăng xưa.
Trăng nay thì đã từng soi người xưa.
Người xưa nay tựa như giòng nước chảy,
Cùng ngắm vầng trăng sáng như vậy đó.
Chỉ mong trong lúc ca say trước cuộc rượu,
Ánh trăng cứ mãi sáng soi vào chén vàng."

Bả tửu vấn nguyệt
Bả tửu vấn nguyệt
Bả tửu vấn nguyệt
Bả tửu vấn nguyệt

Cửu nguyệt thập nhật tức sự

Ngày 9 tháng 9 là lễ hội Trùng Dương bên Trung Hoa. Trong ngày này, mọi người giắt lá cây thù du trong mình, lên cao, uống rượu cúc với nhau. Họ cho rằng làm như thế để được may mắn. Ngày hôm sau, tức 10 tháng 9, vẫn có nơi còn làm như thế. Tác giả làm bài này tỏ ý mình.


Cửu nguyệt thập nhật tức sự
"Tạc nhật đăng cao bãi,
Kim triêu cánh cử thương.
Cúc hoa hà thái khổ,
Tao thử lưỡng trùng dương."

Dịch nghĩa:
"Hôm qua lên cao uống rượu cúc xong rồi,
Sáng nay còn nâng chén uống nữa.
Sao hoa cúc phải chịu quá khổ thế này,
Như vậy là bị tới hai lần lễ trùng dương."

Cửu nguyệt thập nhật tức sự
Cửu nguyệt thập nhật tức sự
Cửu nguyệt thập nhật tức sự
Cửu nguyệt thập nhật tức sự

Bá Lăng hành tống biệt

Bá Lăng ở hướng đông nam, cách kinh thành Trường An khoảng 30 dặm, có sông Bá chảy qua. Trên bờ khúc sông này có lăng vua Hán Văn Đế, nên chỗ này kêu là Bá Lăng.


Bá Lăng hành tống biệt

"Bá Lăng hành tống biệt

Tống quân Bá Lăng đình,

Bá thuỷ lưu hạo hạo.

Thượng hữu vô hoa chi cổ thụ,

Hạ hữu thương tâm chi xuân thảo.

Ngã hướng Tần nhân vấn lộ kỳ,

Vân thị Vương Xán nam đăng chi cổ đạo.

Cổ đạo liên miên tẩu Tây kinh,

Tử khuyết lạc nhật phù vân sinh.

Chính đương kim tịch đoạn trường xứ,

"Ly ca" sầu tuyệt bất nhẫn thính."


Dịch nghĩa:

Tiễn ông nơi đình Bá Lăng,

Sông Bá chảy mênh mông.

Trên cây cổ thụ không thấy hoa,

Dưới đất cỏ xuân như lộ vẻ thương tâm.

Tôi hỏi đường người đất Tần tại ngã rẽ chia tay,

Đáp rằng chính là con đường xưa Vương Xán đi về nam.

Đường cũ xa vời vợi dẫn tới Tây kinh,

Mây chiều đang nổi trên hoàng cung.

Đúng vào lúc chiều tà chia tay buồn đứt ruột,

Ai hát bài "Ly Ca" không còn lòng dạ đâu mà nghe.


Bá Lăng hành tống biệt
Bá Lăng hành tống biệt
Bá Lăng hành tống biệt
Bá Lăng hành tống biệt

Tĩnh Dạ Tứ

Bài thơ Tĩnh Dạ Tứ – Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh là một trong những bài thơ nổi tiếng của nhà thơ Lý Bạch. Bài thơ Tĩnh dạ tứ được nhà thơ Lý Bạch sáng tác khi ông ở xa quê hương của mình. Bài thơ thể hiện tình yêu và nỗi nhớ quê hương thấm thía của một người sống xa quê, xa nhà trong cảnh đêm trăng thanh tĩnh:


Tĩnh Dạ Tứ

"Sàng tiền minh nguyệt quang

Nghi thị địa thượng sương

Cử đầu vọng minh nguyệt

Đê đầu tư cố hương."


Dịch nghĩa:

Đầu giường ánh trăng chiếu rọi

Ngỡ là sương trên mặt đất

Ngẩng đầu ngắm trăng sáng

Cúi đầu nhớ quê cũ.


Dịch thơ:

Ánh trăng chiếu sáng đầu giường

Ngỡ là mặt đất phủ sương móc dày

Ngẩng đầu ngắm ánh trăng đầy

Cúi đầu bỗng nhớ những ngày cố hương

Tĩnh Dạ Tứ
Tĩnh Dạ Tứ
Tĩnh Dạ Tứ

Bình luận

Có Thể Bạn Quan Tâm ?