Trong thời kì kháng chiến chống Pháp, có rất nhiều bài thơ hay đã ra đời để khích lệ tinh thần các chiến sĩ cách mạng cũng như tố cáo tội ác của bọn thực dân. Mỗi trang thơ là một câu chuyện xúc động và chân thật của nhân dân ta trong những ngày gian khổ. Hãy cùng Toplist điểm qua một vài áng thơ nổi tiếng nhất trong thời kì này nhé.
Tây Tiến - Quang Dũng
Quang Dũng không có quá nhiều bài thơ nổi tiếng, nhưng chỉ cần một bài "Tây Tiến" là đã đủ cho độc giả nhớ đến nhà thơ lãng mạn này. Tây Tiến ra đời cùng thời với Đồng Chí nhưng lại được tiếp cận theo bút pháp lãng mạn hoá. Chính vì thế, những vần thơ Tây Tiến luôn chứa đựng một nét gì đó bay bổng mà lại lãng mạn khác thường. Không chỉ miêu tả bức tranh phong cảnh miền núi Tây Bắc trên đường hành quân vừa đẹp lại hùng vĩ, Tây Tiến còn khắc hoạ bức chân dung những người lính trẻ xuất thân từ tầng lớp tri thức thủ đô. Họ là những chàng trai dám gác lại những giấc mộng cá nhân để đi theo tiếng gọi của Tổ quốc. Hình ảnh "đoàn binh Tây Tiến" hiện lên vừa anh dũng lại hào hùng đã gây ấn tượng mạnh với người đọc qua bao thế hệ.
Bài thơ Tây Tiến:
"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi.
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời.
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống,
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Anh bạn dãi dầu không bước nữa,
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét,
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói,
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,
Kìa em xiêm áo tự bao giờ.
Khèn lên man điệu nàng e ấp,
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy,
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ?
Có nhớ dáng người trên độc mộc,
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa?
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Áo bào thay chiếu, anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Tây Tiến người đi không hẹn ước,
Đường lên thăm thẳm một chia phôi.
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy,
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi."
Việt Bắc - Tố Hữu
Bài thơ Việt Bắc được trích trong tập thơ cùng tên được Tố Hữu sáng tác vào tháng 10-1954 nhân dịp cán bộ cách mạng rời Việt Bắc trở về xuôi. Bài thơ được viết ở thể thơ lục bát, mượn cách xưng hô dân gian mình - ta giúp tác giả dễ dàng bộc lộ cảm xúc của mình. Bài thơ là lời tâm tình của tác giả về những chuỗi ngày sinh sống và làm việc tại Việt Bắc trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Gắn bó như máu thịt tại vùng đất này nên đến lúc chia tay, tâm trạng của Tố Hữu và các cán bộ về xuôi rất xúc động, bùi ngùi nhớ về mười lăm năm đã qua. Tóm lại, Việt Bắc là một áng thơ hay trong thời kì kháng chiến mà các bạn nên đọc và cảm nhận.
Trích đoạn Việt Bắc
"Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
- Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già.
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?
- Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.
Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi...
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô.
Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa...
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây.
Núi giăng thành luỹ sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng.
Ai về ai có nhớ không?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng.
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao - Lạng, nhớ sang Nhị Hà...
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.
Ai về ai có nhớ không?
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công
Điều quân chiến dịch thu đông
Nông thôn phát động, giao thông mở đường
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu...
Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.
Mười lăm năm ấy, ai quên
Quê hương Cách mạng dựng nên Cộng hoà
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào..."
Màu tím hoa sim - Hữu Loan
Màu tím hoa sim là một vần thơ buồn về kháng chiến chống thực dân Pháp. Bài thơ được nhà thơ Hữu Loan viết tặng người vợ quá cố của mình là bà Lê Đỗ Thị Ninh vào năm 1949. Xuyên suốt tác phẩm là câu chuyện của một đôi vợ chồng trẻ cưới nhau đương lúc chiến tranh chống Pháp. Người trai ra trận trở về thì nghe tin người vợ hiền ở hậu phương đã ra đi. Bài thơ khắc hoạ một nỗi đau dai dẳng về sự mất mát khôn nguôi mà chiến tranh mang lại. Đồng thời, từng câu từng chữ trong tác phẩm cũng thể hiện nét nghĩa tình sắt son mà nhà thơ Hữu Loan dành cho vợ mình. Hình ảnh màu tím hoa sim vừa tượng trưng cho màu áo cưới lại vừa ghi dấu cho tình cảm sâu đậm của nhà thơ. Chính vì thế không ít người cho rằng đây là bài thơ tình hay nhất thế kỉ 20.
Bài thơ Màu tím hoa sim:
"Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh
Tôi người Vệ quốc quân
xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn
nàng không đòi may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
đôi giày đinh
bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
bên anh chồng độc đáo
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến binh
Mấy người đi trở lại
Nhỡ khi mình không về
thì thương
người vợ chờ
bé bỏng chiều quê...
Nhưng không chết
người trai khói lửa
Mà chết
người gái nhỏ hậu phương
Tôi về
không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
thành bình hương
tàn lạnh vây quanh
Tóc nàng xanh xanh
ngắn chưa đầy búi
Em ơi giây phút cuối
không được nghe nhau nói
không được trông nhau một lần
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa
một mình đèn khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa...
Một chiều rừng mưa
Ba người anh trên chiến trường Đông Bắc
Được tin em gái mất
trước tin em lấy chồng
Gió sớm thu về rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió sớm thu về
cỏ vàng chân mộ chí
Chiều hành quân
Qua những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim
những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
tím chiều hoang biền biệt
Có ai ví như từ chiều ca dao nào xưa xa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu
Ai hỏi vô tình hay ác ý với nhau
Chiều hoang tím có chiều hoang biết
Chiều hoang tím tím thêm màu da diết
Nhìn áo rách vai
Tôi hát trong màu hoa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu...
Màu tím hoa sim, tím tình trang lệ rớm
Tím tình ơi lệ ứa
Ráng vàng ma và sừng rúc điệu quân hành
Vang vọng chập chờn theo bóng những binh đoàn
Biền biệt hành binh vào thăm thẳm chiều hoang màu tím
Tôi ví vọng về đâu
Tôi với vọng về đâu
Áo anh nát chỉ dù lâu..."
Đồng Chí - Chính Hữu
"Đồng chí" là một trong những áng thơ tiêu biểu nhất trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp. Bài thơ ra đời vào năm 1948 và được in trong tập "Đầu súng trăng treo" - tập thơ duy nhất của nhà thơ Chính Hữu. Bức chân dung những người lính được tác giả miêu tả qua những câu thơ hết sức chân thực và xúc động, lột tả được hết những gian lao, khắc khổ mà những người lính phải trải qua trong thời kì kháng chiến. Hơn thế nữa, bài thơ ca ngợi vẻ đẹp chung chí hướng của những người đồng đội, đồng chí vì cùng chung lý tưởng mà gặp gỡ, quen biết và đồng hành cùng nhau. Bài thơ "Đồng chí" với ngôn từ giản dị đã khắc hoạ nên hình tượng những người nông dân khi hoá thân thành các chiến sĩ anh dũng, chạm vào trái tim của người đọc sau này.
Bài thơ Đồng Chí:
"Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ
Đồng chí!
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người, vừng trán ướt mồ hôi.
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo."
Đất Nước - Nguyễn Đình Thi
Bài thơ Đất Nước của nhà thơ Nguyễn Đình Thi khắc họa nên một Việt Nam vừa bi tráng mà cũng đậm nét đau thương giữa mưa bom bão đạn. Những hình ảnh thanh bình, yên ả thường thấy nay được thay bằng cảnh hoang tàn, đổ nát. Tất cả đã tố cáo tội ác man rợ của bọn thực dân gây nên. Đặc biệt hơn, Nguyễn Đình Thi đã sử dụng rất nhiều biện pháp tu từ cũng như những hình ảnh gợi hình, gợi cảm để biến những đau thương ban đầu thành một nét đẹp hào hùng và khí thế. Từ đó, nhà thơ thể hiện một tình yêu Đất Nước nồng nàn và bất diệt. Đất Nước từng được in trong chương trình sách giáo khoa Ngữ Văn 12 giai đoạn 1990-2006, sau đó bài thơ được chuyển thành đọc thêm trong sách giáo khoa Ngữ văn 12 từ 2007.
Bài thơ Đất Nước:
"Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.
Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha!
Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa
Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Ðêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về!
Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.
Từ những năm đau thương chiến đấu
Ðã ngời lên nét mặt quê hương
Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu
Ðã bật lên những tiếng căm hờn
Bát cơm chan đầy nước mắt
Bay còn giằng khỏi miệng ta
Thằng giặc Tây, thằng chúa đất
Ðứa đè cổ, đứa lột da...
Xiềng xích chúng bay không khoá được
Trời đầy chim và đất đầy hoa
Súng đạn chúng bay không bắn được
Lòng dân ta yêu nước thương nhà!
Khói nhà máy cuộn trong sương núi
Kèn gọi quân văng vẳng cánh đồng
Ôm đất nước những người áo vải
Ðã đứng lên thành những anh hùng.
Ngày nắng đốt theo đêm mưa dội
Mỗi bước đường mỗi bước hy sinh
Trán cháy rực nghĩ trời đất mới
Lòng ta bát ngát ánh bình minh.
Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng loà."