Có ai đó đã nói rằng: Khi ngôn ngữ trở nên bất lực thì âm nhạc lên tiếng. Quả đúng như vậy. Âm nhạc có vai trò quan trọng trong cuộc sống của con người và cũng chỉ có con người mới có khả năng cảm thụ âm nhạc. Âm nhạc tạo nên những cung bậc tình cảm rất tinh tế, thuần hóa tâm thức và đưa con người trở về với nhân cách vốn có của mình. Có những bản nhạc làm cho ta cảm thấy hạnh phúc; có những bản nhạc tạo ra sự sung mãn về tâm hồn, nâng cao ý chí nghị lực trong cuộc sống; có những bản nhạc nếu nghe thường xuyên có khả năng chữa bệnh, giảm thiểu căng thẳng và kích thích não bộ phát triển,... Bạn đã từng biết đến và được nghe những bản nhạc nổi tiếng nhất trong lịch sử âm nhạc của thế giới chưa? Hãy cùng toplist nghe và cảm nhận nhé.
"Eine Kleine Nachtmusik" – Wolfgang A. Mozart
Spring from The Four Seasons – Vivaldi
Trong Bốn mùa của Vivaldi, mùa xuân có những giai điệu đẹp và tươi sáng nhất, cũng có lúc giai điệu khẽ khàng run rẩy tựa mầm non đâm chồi nảy lộc, cựa mình thoát khỏi cái vỏ xù xì thô ráp của mùa đông. Bản Mùa xuân từng được VTV đưa vào làm nhạc nền cho phần giới thiệu chương trình từ nhiều năm trước. Bản nhạc đã trở nên quen thuộc đến mức, chỉ cần được nghe những nốt đầu tiên, người ta đã thấy không khí mùa xuân tràn ngập.
"Ode to Joy" - Beethoven
O Fortuna – Carl Orff
Fantasia in D minor K.397
Được cho là do Mozart sáng tác vào năm 1782, tác phẩm piano ngắn này đã chứng tỏ là một trong những tác phẩm phổ biến nhất của nhà soạn nhạc. Đúng như tên gọi cho thấy một tác phẩm giả tưởng; có nghĩa là hình thức âm nhạc của nó chứa đầy những khúc quanh và khúc ngoặt; điều thường không thấy trong các tác phẩm Cổ điển. Fantasia được sáng tác theo một trong những phím tối hơn của Mozart và arpeggios mở đầu phản ánh sự không chắc chắn, dẫn đến một đoạn Adagio có cảm giác như một aria opera.
Sau đó đoạn bị ngắt đột ngột bởi một đoạn presto làm người nghe cảm nhận như trí tưởng tượng của Mozart dường như bay nhanh trước khi trở lại nhịp độ ban đầu. Nhiều yếu tố theo chủ đề có thể tạo ấn tượng rằng tác phẩm có phần sơ sài, được liên kết cẩn thận và liên quan. Điều này chỉ trở nên rõ ràng khi bạn thực sự nắm rõ những giai điệu trong từng bản nhạc. Đáng buồn thay, những nốt cuối cùng của Fantasia đã không được Mozart hoàn thành, các tác phẩm bị bỏ dở vào thời điểm ông qua đời. Có lẽ Mozart có sáng tác những phần khác trong tâm trí hoặc một kết thúc theo một cách hoàn toàn khác; chúng ta sẽ không bao giờ biết
Here Comes the Bride - Richard Wagner
Hành khúc đám cưới là một tác phẩm viết cho vở nhạc kịch Lohengrin của nhà soạn nhạc người Đức Richard Wagner, sáng tác năm 1850 thường được gọi là "Wedding March" hoặc "Here Comes the Bride". Ngày nay, "Hành khúc đám cưới" thường được chơi ở ngay đầu một lễ cưới. Điều này không giống như trong nguyên bản vở opera của Wagner. Trong đó, bản hợp xướng do những người phụ nữ hát sau khi các nghi lễ đám cưới đã xong và họ cùng nhau đưa cô dâu tới phòng tân hôn.
Danses Des pettis Cycnes - Tschaikowsky
Có thể nói tác phẩm này hội tụ đủ những yếu tố để trở thành một tác phẩm kinh điển của thời đại. Tác phẩm nhạc bắt nguồn từ một câu chuyện cổ tích kể về nàng công chúa Odette bị một tên phù thủy biến thành con thiên nga trắng. Ban ngày nàng là thiên nga, ban đêm nàng trở lại là người. Lời nguyền của tên phù thủy chỉ có thể được giải bằng tình yêu chân thành của một chàng trai giành cho Odette. Câu chuyện cổ tích nổi tiếng đó hầu như đứa trẻ nào cũng từng được nghe kể. Nhạc phẩm của nhà soạn nhạc lừng danh bắt đầu từ một câu chuyện cổ tích nổi tiếng đã sinh ra một vở ballet kiệt tác – một trong những vở ballet vĩ đại nhất mọi thời đại đã khiến bộ ba truyện – nhạc – ballet đó gắn bó với nhau không rời, cái này tôn lên cái kia và cả ba cùng bất chấp sự thử thách của thời gian để cùng nhau tỏa sáng.
Fur Elise - Beethoven
Thư gửi Elise là một trong những bản nhạc dành cho piano nổi tiếng nhất của Ludwig van Beethoven. Bản nhạc thường được xếp vào loại khúc nhạc ngắn bagaten, nhưng đôi khi nó cũng được xem là một albumblatt (một tiêu đề chung cho các tác phẩm nhạc cổ điển, thường là độc tấu piano).
Như cảm xúc muôn đời của tình yêu, Thư gửi Elise dạt dào tình cảm. Bản nhạc không phức tạp về mặt kỹ thuật, thậm chí có thể chơi bằng một tay trên phím dương cầm, nhưng để đạt được tình cảm dạt dào, sâu lắng, tinh tế và trong sáng mà Beethoven thể hiện trong bản nhạc là điều không đơn giản. Beethoven đã sáng tác Thư gửi Elise khi ông đã 40 tuổi và đã được khẳng định là một trong những nhạc sĩ vĩ đại nhất của mọi thời đại. Trong khoảng thời gian này, Beethoven đã bị điếc. Thư gửi Elise đã được sáng tác trong sự “yên tĩnh” của nhạc sĩ. “Tình yêu có chiều sâu hơn khi người ta lớn tuổi”, Thư gửi Elise chứa đựng sự chiêm nghiệm của người đàn ông đã trải qua bao thăng trầm, cay đắng nhưng vẫn còn nguyên vẹn một tình yêu mãnh liệt và trong sáng trước một cô gái.
"Symphony 5" - Beethoven
Rondo a La Turka (từ Sonata cho Piano trong A Major; K. 331)
Tác phẩm Mozart cực kỳ nổi tiếng này trích 1 đoạn trong bản Piano Sonata A Major. Đây là bản Sonata thứ mười một mà Mozart viết cho nhạc cụ và thường bao gồm 3 chương theo kiểu nhanh-chậm-nhanh. Không giống như nhiều biệt danh, Mozart được cho là đã thực sự chọn chính mình Mạnh mẽ, Hạnh Phúc cho cao trào cuối, giống như âm thanh của ban nhạc Marching Thổ Nhĩ Kỳ.
Tác phẩm có chủ đề mở đầu hấp dẫn, khoảnh khắc nhẹ nhàng hơn. Hình thức Rondo cho phép Mozart thể hiện sức mạnh phát minh vô hạn của mình vì sau mỗi lần thematic restatement theo chủ đề, ông tạo ra một giai điệu mới khác. Phần Coda là phần cuối cùng của tác phẩm nhưng nó không mất đi tinh thần và năng lượng của nó khi kết thúc một bản sonata một cách tuyệt vời và thú vị.
Rondo a La Turka bao gồm 3 chương, cụ thể:
- Chương 1: Andante grazioso - Một chủ để với sáu biến tấu. Đây là chương được mở đầu một cách chậm rãi rồi kết thúc với những tiết tấu nhanh, có thời lượng hơn 14 phút.
- Chương 2: Menuetto-minuet và trio. Đây là chương vẫn mở đầu chậm rãi, nhưng có phần vô tư hơn, thời lượng khoảng 5 đến 6 phút.
- Chương 3: Rondo Alla Turca-Allegretto. Chương này chỉ kéo có hơn 3 phút, nhưng nó khiến người ta không thể nào quên với những tiết tấu vui tươi mang phong cách Thổ Nhĩ Kỳ.
"Ride of the Valkyries" – Richard Wagner
Turkish March - Mozart
Phong cách Thổ Nhĩ Kỳ có lẽ là phong cách phương Đông đầu tiên ảnh hưởng mạnh mẽ đến âm nhạc phương Tây đến thế. Phong cách Thổ Nhĩ Kỳ mà các nhà soạn nhạc thời Cổ điển sử dụng giống với phong cách của các ban quân nhạc đế chế Ottoman, đặc biệt là các ban nhạc vệ binh của vua Thổ.
Một sự thúc đẩy quan trọng dẫn tới trào lưu phong cách âm nhạc Thổ thống trị những sáng tác nhạc giao hưởng cổ điển đến từ sự kiện xảy ra vào năm 1699 khi hai đế chế Áo và Ottoman (Thổ) đàm phán Hiệp ước Karlowitz. Để ăn mừng việc ký kết thành công hiệp ước, đoàn ngoại giao Thổ đã mang theo một ban nhạc vệ binh tới Viên để trình diễn. Ngay lập tức nhiều nhà soạn nhạc cổ điển châu Âu ở thế kỉ 18 khi đó đã bị hấp dẫn bởi phong cách nhạc Thổ Nhĩ Kỳ.
"Spring" – Antoni Vivaldi
Halleluiah Chorus - George Frideric Handel
"William Tell Overture" – Gioachino Rossini
The Blue Danube - Johann Strauss II
Tác phẩm The Blue Danube đã trở thành nhạc nền cho một số bộ phim hoạt hình của hãng Warner Bros như A Corny Concerto với chú thỏ láu thông minh, tinh quái và Đa-nuýp xanh còn xuất hiện trong phim 2001: A Space Odyssey - bộ phim điện ảnh khoa học viễn tưởng đạt doanh thu khổng lồ và được nhận tới 7 đề cử giải Oscar. Những thành công mà bộ phim gặt hái được có một phần không nhỏ nhờ vào những hiệu ứng âm thanh với sự kết hợp tinh tế giữa âm nhạc và cảnh quay. Sự thành công này đã khiến Đa-nuýp xanh sau đó xuất hiện liên tục trong các bộ phim và trở thành một trong những tác phẩm giao hưởng được sử dụng phổ biến nhất trong lĩnh vực điện ảnh.
Bản nhạc mang đậm phong cách Viên này còn được coi là bản quốc ca không chính thức của Áo. Điệu nhạc van du dương thường được phát trên tất cả các kênh truyền hình quốc gia và đài phát thanh của Áo vào những thời điểm quan trọng như đón chào năm mới, Giáng sinh. Tại Viên, sáng đầu năm nào cũng có một buổi hoà nhạc giao hưởng và một quy luật bất thành văn - bản Đa-nuýp xanh phải được chơi trong hôm đó.
Bản hòa tấu piano số 21 tại C Major K. 467
Bản hòa tấu piano số 21 tại C Major K. 46 cho thấy sự đổi mới và tài năng của Mozart. Tác giả đã khai thác triệt để cuộc đối thoại và phát triển chất liệu âm nhạc giữa nghệ sĩ độc tấu và dàn nhạc, với một số phần biểu cảm tuyệt vời cho phần wind. Andante ( phần movement thứ 2), tràn ngập sự đối lập được đặt cẩn thận làm tăng thêm sự kích tính của đoạn. Nó đầy ma thuật và bí ẩn, khác xa với tình cảm mà nó được liên kết.
Mozart khai thác triệt để cuộc đối thoại và phát triển chất liệu âm nhạc giữa nghệ sĩ độc tấu và dàn nhạc, với một số phần biểu cảm tuyệt vời cho phần wind. Andante ( phần movement thứ 2), tràn ngập sự đối lập được đặt cẩn thận làm tăng thêm sự kích tính của đoạn. Nó đầy ma thuật và bí ẩn, khác xa với tình cảm mà nó được liên kết. Trong phần Finale, Mozart cũng không thất vọng. Cảm giác của sức sống trong các đoạn độc tấu di chuyển nhanh được gạch chân với một chút tinh nghịch. Chromaticism được sử dụng để tạo hiệu ứng kịch tính tuyệt vời, nhưng cuối cùng, bản concerto quay trở lại một số thang âm chiến thắng.
"Toccata in d minor" – Johann S. Bach
"Canon in D Major" – Johann Pachelbel
Piano Sonata số 16, trong C K.545
Bản Sonata này có lẽ là bản Sonata nổi tiếng nhất trong tất cả các bản Sonata dành cho piano. Nó thường, và sai, khi nhiều người cho rằng tác phẩm này thích hợp cho nghệ sĩ piano mới bắt đầu. Điều này là để bỏ qua hình thức cấu trúc đáng chú ý của tác phẩm này khác với những bản Sonata cổ điển. Hãy xem xét thực tế rằng sự tái cấu trúc không trở lại trong khóa bổ âm mà trong sự chi phối của F chính. Điều đáng chú ý là Mozart cũng hoàn thành Bản giao hưởng số 39 của ở thời điểm tương tự; một công việc đáng chú ý theo đúng nghĩa của nó.
Sự đơn giản rõ ràng của Sonata này như một lời nhắc nhở nhiều tác phẩm của Mozart có thể lấp lánh với những giai điệu đáng nhớ nhưng có một chút nữa được xây dựng theo cách mới lạ và kỹ lưỡng. Sonata có ba phần Allegro; Andante và Rondo: Allegretto. Andante ở G Major và tìm thấy Mozart ở giai điệu hay nhất. Với dấu hiệu thời gian là ba / bốn tiếng vang nhỏ của một Minuet chậm đòi hỏi phải kiểm soát hoàn toàn cân bằng giữa hai tay. Đoạn kết Finale đưa chúng ta vào một bản rondo, có lẽ là hình thức âm nhạc yêu thích của Mozart vì nó mang đến cho ông cơ hội gần như vô tận để sáng tác chất liệu âm nhạc mới. Đó là một rondo thực sự đáng nhớ và có thể dễ dàng để chơi, hoạt bát nhưng luôn có một cảm giác trang trí tinh tế.