Top 10 Món ăn đặc trưng ngày tết của các dân tộc Việt Nam

Vậy là năm Canh Tý sắp khép và lại sắp đến Tết Nguyên đán Tân Sửu 2021 sắp tới. Đây cũng chính là khoảng thời gian để mọi người trong gia đình đoàn tụ sau một năm vất vả làm việc. Do đó mâm cỗ những ngày Tết cũng cần phải được chuẩn bị vô cùng thịnh soạn, đầy đủ. Không chỉ thể hiện cho sự no ấm, hạnh phúc mà còn mong ước có một năm mới đầy đủ và phát đạt. Trong bài viết hôm nay Toplist xin gửi tới quý độc giả những món ăn truyền thống đặc sắc nhất xuất hiện trên mâm cơm ngày Tết của một số dân tộc trên khắp mọi miền tổ quốc Việt Nam mình nhé.

Dân tộc Ê Đê

Trong cái không khí ấm cúng, sum vầy ngày Tết, canh bột lá yao – một món ăn truyền thống của người Ê Đê lại làm nức lòng những người con xa xứ trở về và gắn kết các thành viên trong gia đình.

Một điểm cần chú ý là khi nấu canh bột lá yao, người nấu phải khuấy đều tay và canh lửa để tránh món canh bị đặc và khét. Khi ăn, canh bột lá yao thường được ăn kèm với cơm, cùng với các món truyền thống khác của người Ê Đê như cà đắng giã muối ớt, đu đủ giã kiến vàng, lá mì (sắn) xào, xôi nếp hấp,… Ăn món canh bột lá yao sẽ cảm nhận chút vị đắng của cà, vị cay của ớt, vị sệt sệt của nước canh, vị béo béo của thịt bở và cả mùi thơm dịu của lá yao. Có lẽ vì vậy mà càng ăn canh bột lá yao càng hao cơm, càng muốn ăn và sau đó là nhớ mãi.

Bên ché rượu cần cạnh bếp than hồng vẫn còn ửng lửa, người Ê Đê sum vầy bên nhau, cùng thưởng thức bữa ăn ngày Tết, thưởng thức món canh bột lá yao và trò chuyện rôm rả mong một năm mới ấm cúng, đoàn kết, suôn sẻ. Còn đối với những vị khách – những người ngẫu hứng có chút vô tình được lạc vào bữa ăn ấy, được thưởng thức món canh bột lá yao thì như say theo hương men rượu cần, say theo mùi hương lá yao và càng thích thú với văn hóa ẩm thực của người Ê Đê.

Dân tộc Ê Đê
Dân tộc Ê Đê
Dân tộc Ê Đê
Dân tộc Ê Đê

Dân tộc Kinh

Người Kinh chiếm 85,3% dân số của cả nước, sinh sống và làm việc trải dài khắp các tỉnh từ miền Bắc ra đến miền Nam. Tết của người Kinh được xem là nét đẹp văn hóa đặc trưng của cả dân tộc Việt Nam, có nhiều phong tục truyền thống mang ý nghĩa sâu sắc nhằm mong một năm mới bình an, thịnh vượng và gặp nhiều may mắn.


Dân tộc Kinh là dân tộc có rất nhiều những món ăn ngon, dân số chiếm đại đa số trong 54 dân tộc anh em, mâm cỗ ngày Tết truyền thống của người Kinh không thể thiếu được các món ngon quen thuộc như: bánh tét, bánh chưng, dưa hành, củ kiệu, thịt đông, nem, giò, xôi, gà luộc hay canh măng,… Đó là những món ăn truyền thống việt nam dễ làm.


Ẩm thực của người Kinh tuy có khác nhau về món ăn từng vùng miền nhưng vẫn có những điểm tương đồng, hài hòa, tạo nên phong cách ẩm thực thống nhất, độc đáo. Những nét đẹp trong văn hóa ẩm thực ấy luôn cần được lưu giữ và phát huy mãi mãi để góp phần làm phong phú thêm cho bức tranh muôn màu của các dân tộc Việt Nam.


Dân tộc Kinh
Dân tộc Kinh
Dân tộc Kinh
Dân tộc Kinh

Dân tộc Thái

Khi những ngày Tết cổ truyền của dân tộc cận kề cũng là thời điểm khắp các bản làng đồng bào dân tộc Thái Mai Châu "dậy mùi” thơm cay nồng của thịt, cá ướp các loại gia vị rừng được đồ chín hoặc sấy khô trên bếp than hồng. Cùng với đó là xôi ngũ sắc được nấu từ loại nếp nương dẻo thơm, béo bùi tạo nên mùi vị "không lẫn vào đâu được”. Những món ăn truyền thống ấy đã trở thành một phần hương vị Tết của đồng bào nơi đây.


Người Thái thường sống ở các vùng ven sông, ven suối nên cá là món ăn phổ biến trong bữa ăn hàng ngày của người Thái, nhất là trong những ngày tết Nguyên đán. Người ta chọn con cá to nhất làm con cá đầu mâm cỗ nên được nướng nguyên con. Số cá còn lại được chế biến theo cách riêng của vùng này như: cá đồ, cá sấy, cá nướng, cá sả, cá độn cơm, cá mọc, cá gói vùi tro bếp, lạp cá “pa lạp”…

Dân tộc Thái
Dân tộc Thái
Dân tộc Thái
Dân tộc Thái

Dân tộc Cơ Tu

Ăn Tết, người Cơ tu Nam Giang gọi là Cha Pổiq hay Cha Pling, còn người Cơ tu ở Đông Giang và một số ở Nam Giang thì gọi là Cha Pruôt. Thực ra “Pling” hay “Pruôt” đều có nghĩa là Tết (“Cha” trong tiếng Cơ tu nghĩa là ăn), và cũng có nghĩa là tổng kết một năm bội thu hay thất bát, khỏe mạnh hay ốm đau.


Trước đây, người Cơ Tu thường ăn Tết riêng là Tết ăn cơm mới sau mỗi vụ mùa. Vài năm trở lại đây, người Cơ Tu Quảng Nam cũng ăn Tết cổ truyền như người Kinh nhưng vẫn giữ được nét văn hóa ngày Tết riêng biệt. Với người Cơ tu, ẩm thực ngày tết thì không thể không có rượu.


Hai loại rượu truyền thống đặc sắc của người Cơ tu là rượu Tà vạt và rượu cần. Cùng với việc chuẩn bị các loại rượu, một loại bánh không thể thiếu được trong mâm lễ cúng dâng lên Giàng của người Cơ Tu là bánh Avị cuốt - bánh sừng trâu. Trên mâm tết đãi khách của người Cơ Tu bao giờ cũng được dọn rất nhiều món ẩm thực truyền thống, từ bánh sừng trâu, thịt nướng ống, thịt xông khói… cho đến cơm lam, thịt cá, thịt đông và các loại rượu cho chính đồng bào tự làm. Tất cả được chế biến theo hương vị truyền thống rất đặc trưng, cùng hương thơm của tiêu rừng, lá rau rừng tự nhiên. Họ cùng ăn, cùng uống, cùng vui chơi suốt 3 ngày tết, như một dịp tự thưởng cho mình sau một năm làm lụng vất vả công việc nương rẫy.

Dân tộc Cơ Tu
Dân tộc Cơ Tu
Dân tộc Cơ Tu
Dân tộc Cơ Tu

Dân tộc Chăm

Ngoài lễ hội Ramadam cùng các lễ hội truyền thống khác, ngày nay, người Chăm ở các địa phương như Ninh Thuận, An Giang…cũng tổ chức vui xuân, đón Tết Nguyên đán với người Kinh.


Cũng như Tết truyền thống Royah Haji, Tết Nguyên đán trong mâm cỗ của người Chăm bao giờ cũng có những món ngon đặc sản truyền thống như cà ri, cà púa, phú ku hay còn gọi là tung lò mò và cơm nị... Với người Chăm, đây cũng là dịp để giáo dục con cháu, ôn lại một năm đã đi qua với những việc làm được, chưa được để năm tới phấn đấu hơn nữa.


Tết Nguyên đán cũng đã là một trong những sự kiện quan trọng trong năm của người Chăm. Tết không chỉ đơn thuần là không khí sum họp gia đình mà còn là cái Tết chung của tình đoàn kết, gắn bó giữa các dân tộc anh em chung sống thuận hòa, nghĩa tình trên dải đất Việt Nam thân yêu.

Dân tộc Chăm
Dân tộc Chăm
Dân tộc Chăm
Dân tộc Chăm

Dân Tộc Nùng

Dân tộc Nùng thường ở vùng núi cao, đời sống gắn bó với thiên nhiên và có tập quán canh tác tự cung, tự cấp. Người Nùng trước đây hái lượm, săn bắt chim thú, tự trồng trọt, chăn nuôi để chế biến thức ăn. Qua quá trình phát triển, người Nùng đã sáng tạo ra nhiều món ăn độc đáo, tạo nên nét khác biệt. Một số món ăn của người Nùng ngày nay đã trở thành “thương hiệu” đặc sản du lịch cho vùng đất Lạng Sơn, nơi có nhiều người Nùng sinh sống.


Người Nùng không cúng tiễn ông Công, ông Táo về trời nhiều như người Kinh, nhưng cái Tết của họ vô cùng đầy đủ và nhộn nhịp. Thường một số bộ phận người Nùng sống xen kẽ với người Tày. Mỗi khi tết đến thì món bánh chưng là món bánh không thể thiếu.


Ngoài ra còn có món bánh khảo hay có tên gọi khác là bánh cao, gói trong giấy màu. Bánh này là các nhà tự chuẩn bị và mời khách của mình thưởng thức, đồng thời họ cũng đánh giá tài nghệ của gia chủ thông qua món bánh này. Thêm một món ăn nữa không thể thiếu, cũng đặc sắc không kém có trong ngày Tết của người Nùng là xôi ngũ sắc, những mâm xôi đủ màu: xanh, vàng, đỏ, tím, trắng... làm cho ngày tết đầy màu sắc sặc sỡ, tươi vui. Hứa hẹn một năm mới đến may mắn và hạnh phúc cho gia đình, người thân.

Dân Tộc Nùng
Dân Tộc Nùng
Dân Tộc Nùng
Dân Tộc Nùng

Dân tộc Mường

Người Mường vốn nổi tiếng với những món ăn vô cùng độc đáo, lạ mắt và thơm ngon. Mâm cơm của bữa ăn ngày thường hay mâm cỗ ngày lễ tết đều được người Mường chế biến, bầy biện vô cùng khéo léo, đúng với cổ truyền.


Giống như người Kinh, bánh chưng là món ăn đặc trưng không thể thiếu trong cái Tết của người Mường. Trước Tết từ 2 đến 3 ngày, mọi người trong bản, trong họ tộc hẹn lịch nhau, tập trung gói bánh từ nhà này sang nhà khác. Thời gian này như là ngày hội đối với dân bản, tuy bận rộn nhưng rất vui.


Người Mường cho rằng: Các món thịt phải được bày trên lá chuối mới giữ được vị thơm đặc trưng của thịt; Mâm cỗ phải đủ giá trị dinh dưỡng, các món ăn với các chất liệu phù hợp, có lợi cho sức khoẻ; Mâm cỗ ngon phải có đủ vị chua, cay, ngọt, mặn, chát và phải ngồi ăn ở không gian thoáng, mát, có bạn hiền, có khách quý cùng ăn. Như vậy mới thật ngon, thật ý nghĩa. Các món ăn đặc trưng dịp Tết ở đây như: Pẻng năng (bánh nẳng), Cá ướp chua, Chả rau đáu...

Dân tộc Mường
Dân tộc Mường
Dân tộc Mường
Dân tộc Mường

Dân tộc Mông

Khác với Tết Nguyên đán của người Kinh, Tết của người Mông diễn ra một tháng trước Tết của người Kinh và các dân tộc khác và kéo dài trong vòng một tháng. Cứ mỗi độ Xuân về, khi những cánh hoa đào, hoa mận nở khắp núi rừng Tây Bắc, khắp các bản làng rộn rã tiếng khèn thì cũng là lúc đồng bào Mông tưng bừng đón Tết cổ truyền.


Ẩm thực trong ngày Tết của người Mông chủ yếu là bánh dày, thịt gà, thịt lợn. Trong ba ngày Tết chính, gia đình nào cũng đốt củi, giữ bếp đỏ lửa liên tục, vừa giữ ấm, vừa xua đuổi tà ma và cầu mong bình an, may mắn. Các đồ vật trong nhà cũng được “mặc áo mới” để đón Tết. Mâm cỗ cúng của người Mông thường bày một chiếc bánh dày to. Bánh dày được làm bằng gạo nếp nương. Sau khi đồ chín, xôi vẫn còn nóng được đưa vào máng gỗ rồi dùng chày giã nhuyễn, sau đó lấy lòng đỏ trứng gà quết lên bề mặt.

Theo quan niệm của người H'Mông, bánh dày tròn tượng trưng cho Mặt Trăng, Mặt Trời, đây cũng là món ăn chính trong suốt tháng Tết của người Mông.

Dân tộc Mông
Dân tộc Mông
Dân tộc Mông
Dân tộc Mông

Dân tộc Dao

Người Dao quan niệm, Tết là dịp để cả gia đình nghỉ ngơi, sum họp sau 1 năm lao động vất vả, dịp để báo với tổ tiên về những thành quả trong cả năm, cầu mong những điều tốt sẽ đến trong năm mới. Với lòng thành hướng về cội nguồn, người Dao rất coi trọng việc thờ cúng tổ tiên trong dịp Tết. Lễ vật gồm có thịt lợn, thịt gà trống, bánh chưng gù, bánh dày, rượu... Mỗi dịp Tết đến, các thầy tạo (thầy cúng), những già làng tổ chức dạy chữ nho đầu xuân cho thế hệ trẻ ngay tại nhà mình.


Tết đến, mỗi gia đình người Dao Tiền đều có vại thịt lợn (thịt heo) chua (gọi là ò sui). Món ăn này rất bình dị, dân dã, nhưng không thể thiếu trong những ngày tết. Nguyên liệu chế biến sẵn trong nhà, gồm thịt lợn, muối tinh, và cơm tẻ nguội. Món này ăn kèm với lá lốt và lá prăng lẩu, chấm chanh ớt mới cảm nhận được hết sự đậm đà của thịt ướp muối.

Dân tộc Dao
Dân tộc Dao
Dân tộc Dao
Dân tộc Dao

Dân tộc Tày

Những thửa lúa nếp được người dân chăm chút tỉ mỉ; những chú gà thiến được gia chủ vỗ béo bằng hạt thóc, hạt ngô; con lợn đen được chọn riêng trong đàn để nuôi chỉ dành riêng cho ngày Tết… Cứ như vậy, người Tày ở Cao Bằng có khi mất cả năm để chuẩn bị một mâm cỗ Tết sao cho đủ đầy. Cái ngon, sự tinh túy của món ăn không chỉ ở hương vị mà còn ở sự cầu kỳ và trên hết là sự hội tụ văn hóa của dân tộc.


Chính vì thế, ngày gói bánh, mổ lợn được người Tày quan niệm là ngày tất niên, ngày sum họp của đại gia đình, ngày của niềm vui, sự gắn kết tình cảm gia đình. Dù ở bất kỳ nơi đâu, xa hay gần, đến ngày tất niên, các thành viên trong mỗi gia đình đều cố gắng về chung vui, cùng gói bánh và chuẩn bị mâm cỗ dâng lên tổ tiên để sang năm mới được bình an, gặp nhiều may mắn.


Trên mâm cúng đều được đặt bằng lá chuối gồm có rượu, xôi trắng đồ trứng kiến gói lá dong, thịt lợn, thịt gà và cá suối đồ nõn chuối; ngoài ra, còn có món bánh đặc trưng không thể thiếu trong mâm cỗ cúng là bánh trưng và bánh gio (còn gọi là bánh chì).


Trong không khí ngập tràn sắc xuân, những cái nắm tay thật chặt trong điệu xòe cùng với tiếng chiêng, tiếng trống rộn rã mang đậm bản sắc văn hóa của đồng bào người Tày. Tất cả như muốn gửi gắm những điều tốt đẹp trong năm mới.

Dân tộc Tày
Dân tộc Tày
Dân tộc Tày
Dân tộc Tày

Bình luận

Có Thể Bạn Quan Tâm ?