“Chất độc” chắc chắn là một trong những vũ khí lớn nhất trong các tiểu thuyết. Hercule Poirot và Sherlock Holmes dường như đã mang điều đó đến độc giả thành công nhất bởi các chất độc tác dụng nhanh và rất khó để phát hiện. Tuy nhiên, vụ giết người bí ẩn là một chuyện, nhưng khi câu chuyện đó trở thành hiện thực, bạn đã trở thành một kẻ giết người thực sự. Dưới đây là danh sách các chất độc nổi tiếng nhất được sử dụng để giết người trong suốt lịch sử.
Hóa chất N – Ngọn lửa đến từ "địa ngục"
Truyền thuyết kể rằng: Phát xít Đức từng sản xuất một chất hóa học cực kỳ kinh khủng có mật danh N trong Thế chiến II. Chất N có đặc tính sôi lên khi tiếp xúc không khí, phát nổ khi chạm nước, gây chết người nếu hít phải, phân hủy tạo ra acid độc hại. Đặc biệt, khi nạp vào súng phun lửa và khai hoả, N có thể tạo ra ngọn lửa với nhiệt độ tới hơn 2.400 độ C.
Quân Phát xít muốn dùng chất N để biến các boong-ke quân Đồng Minh thành "cháo" theo đúng nghĩa đen. Tuy nhiên, sau thời gian nghiên cứu, chính các binh lính Đức cũng không dám sử dụng vì độ nguy hiểm quá cao của chất N. Do vậy, cuối cùng nghiên cứu bị chấm dứt. Truyền thuyết kể lại thì là như vậy. Tuy nhiên trên thực tế, đây là một câu chuyện có thật, và chất N là chlorine trifluoride (ClF3), tác nhân florua hóa mạnh nhất mà con người từng biết tới.
Do có tính oxy hóa vượt trội so với oxy nên ClF3 có thể đốt cháy những vật liệu mà bình thường không thể cháy như gạch, a-mi-ăng... Và cũng chính nhờ khả năng cháy siêu bá đạo, chlorine trifluoride từng được các nhà khoa học Mỹ dự định dùng để tạo lực đẩy tên lửa, tuy nhiên họ đã sớm nhận ra sự may mắn của mình sau một sự cố vào năm 1950.
Thời điểm đó, các nhà khoa học Mỹ cố gắng vận chuyển chlorine trifluoride với số lượng lớn đã vô tình làm vỡ một bồn chứa bằng thép. Lập tức, hàng tấn ClF3 bùng cháy dữ dội. Ngọn lửa cực nóng không chỉ ăn sâu xuống lớp bê-tông dày 30cm của sàn mà còn tiếp tục xuyên qua 1m đất sỏi bên dưới. Không một cách nào có thể dập tắt đám cháy ngoại trừ việc để nó… tự cháy hết. Nguy hiểm là vậy, nhưng hiện nay hóa chất này vẫn được sản xuất và sử dụng trong các công ty bán dẫn nhằm làm sạch một số thiết bị mà không cần phải tháo dỡ chúng ra.
Dimethyl cadmium (CH3-CO-CH3) – Hít vào là chết
Dimethyl cadmium (CH3-CO-CH3) là một hợp chất thuộc nhóm hữu cơ kim loại. Nó là một chất lỏng không màu cực độc, bốc khói trong không khí. Nó là một phân tử tuyến tính với độ dài liên kết C-Cd là 213 pm. Hợp chất tìm thấy việc sử dụng hạn chế như một thuốc thử trong tổng hợp hữu cơ và trong lắng đọng hơi hóa học kim loại (MOCVD). Nó cũng đã được sử dụng trong quá trình tổng hợp hạt nano cadmium selenide , mặc dù những nỗ lực đã được thực hiện để thay thế nó trong khả năng này do độc tính của nó.
Chất này cũng có cả hai tính chất đáng sợ là cháy khó dập tắt và dễ nổ, nhưng sự đáng sợ của nó lại đến từ nồng độ độc chất nó đem lại. Chỉ vài phần triệu gram hơi dimethyl cadmium phân tán trong thể tích 1 mét khối vuông cũng đã đủ khiến một người vong mạng.
Độc tính của dimethyl cadmium gây ra cả ảnh hưởng cấp tính và mãn tính lên cơ thể người. Khi được hít vào, chất độc này nhanh chóng hấp thụ vào máu, từ đó lan rộng khắp cơ thể, gây tác động gần như tức thì lên các cơ quan như phổi, gan, thận. Thậm chí, ngay cả khi nạn nhân vẫn còn sống vài giờ sau khi hít phải khí này thì hậu quả sau đó cũng rất khủng khiếp. Chất độc này là tác nhân gây ung thư cực mạnh. Nghe đến đây chắc bạn cũng tưởng tượng được sức tàn phá của Dimethyl cadmium khủng cỡ nào.
Vậy nếu vô tình làm tràn dimethyl cadmium ra ngoài, làm cách nào để làm sạch, tốt nhất là bạn đừng bao giờ để điều đó xảy ra. Bởi việc dùng nước rửa, hay quét là không thể vì kích thích phản ứng cháy nổ. Thậm chí, chờ dimethyl cadmium phân hủy cũng không khả thi, do chất mới tạo ra còn dễ nổ hơn cả chất ban đầu.
Cây phụ từ hay cây phụ tử (Aconite)
Cây phụ từ (cây phụ tử) là một loài cây thân thảo lâu năm có chiều cao có thể lên tới 1m. Thân và lá cây không có lông. Lá cây có đường kính từ 5 đến 10 cm, được chia thành 5 đến 7 thùy. Hoa phụ tử có màu tím sẫm hoặc tím xanh, cánh hoa có hình chữ nhật thuôn dài và hẹp.
Các triệu chứng mà chất độc từ cây gây ra có thể biểu hiện gần như ngay lập tức (thường không tới một giờ) và khả năng tử vong cao. Thời gian tử vong là từ 2 đến 6 tiếng sau khi bị nhiễm chất độc. Các dấu hiệu ban đầu là buồn nôn, nôn mửa và tiêu chảy. Tiếp đó là cảm giác bỏng rát, ngứa ran và tê ở miệng, mặt và nóng bụng.
Trong các trường hợp bị nhiễm độc nặng, các chi khó hoạt động và cảm giác ngứa ran và tê sẽ lan ra cả tay và chân. Sau đó là hạ huyết áp, nhịp tim chậm và rối loạn tâm thất. Các biểu hiện khác có thể là đổ mồ hôi, chóng mặt, khó thở, nhức đầu và lú lẫn. Nguyên nhân chính gây tử vong là loạn nhịp tim, tê liệt tim hoặc tê liệt trung tâm hô hấp.
Cây phụ từ (Aconite) còn được gọi là Wolfsbane, lá cây phụ từ gây loạn nhịp tim dẫn đến nghẹt thở. Ngộ độc có thể xảy ra ngay cả sau khi chạm vào lá cây mà không đeo găng tay vì chất độc rất nhanh chóng và dễ dàng hấp thụ. Bởi vì bản chất của nó là không phát hiện được cách hạ độc, chính vì vậy cây phụ từ rất phổ biến với những vụ "thoát tội giết người". Được biết, hoàng đế Claudius được cho là đã bị đầu độc bởi vợ của mình, bà Agrippina, sử dụng cây phụ từ trong một đĩa nấm.
Thủy ngân
Thủy ngân tồn tại một cách tự nhiên trong không khí, nước và đất, nhưng nó rất nguy hiểm khi được hình thành bên trong cá và trở thành Methylmercury. Vì đây là con đường dễ nhất để thủy ngân đi vào cơ thể chúng ta khi ăn phải. Nó nằm ở thứ hạng cao trong danh sách bởi vì chỉ một lượng rất nhỏ thủy ngân cũng có thể gây tử vong.
Thủy ngân được tìm thấy trong các ngôi mộ Ai Cập có từ năm 1500 TCN. Ở Trung Quốc và Tây Tạng, việc sử dụng thủy ngân được cho là kéo dài sự sống, chữa lành gãy xương và duy trì sức khỏe nói chung, mặc dù hiện nay người ta biết rằng việc tiếp xúc với hơi thủy ngân dẫn đến những ảnh hưởng xấu nghiêm trọng đến sức khỏe. Hoàng đế đầu tiên của Trung Quốc, Tần Thủy Hoàng được chôn cất trong một ngôi mộ chứa một dòng sông thủy ngân chảy trên mô hình vùng đất mà ông cai trị, đại diện của các con sông của Trung Quốc. Ông đã bị giết bằng cách bị cho uống một loại thủy ngân và hỗn hợp ngọc bích được các nhà giả kim nước Tần tạo ra (gây suy gan, ngộ độc thủy ngân và chết não ), với ý định giúp cho Hoàng đế trường sinh bất lão.
Có ba trạng thái của thủy ngân đặc biệt cực kỳ nguy hiểm:
- Thủy ngân tự nhiên là một trong những thứ bạn có thể tìm thấy trong các nhiệt kế thủy tinh, nó không có hại nếu chạm vào nhưng gây chết người nếu hít phải.
- Thủy ngân vô cơ được sử dụng để chế tạo pin và gây chết người khi ăn phải.
- Thủy ngân hữu cơ được tìm thấy trong cá, như cá ngừ và cá kiếm nhưng nó có khả năng gây chết người trong thời gian dài.
Đã từng có nhiều vụ tử vong khi tiếp xúc với thủy ngân, trong số đó là một nhà khoa học Anh vào năm 1996. Cô đã thực hiện tất cả các biện pháp an toàn khi làm việc với chất độc hại nhưng vẫn gặp nguy hiểm khi nhỏ 2 giọt thủy ngân lên tay mặc dù đã mang găng bảo vệ, trong vài tuần sau đó, cô bị suy giảm thần kinh, hôn mê và tử vong. Một cái chết nổi tiếng do thủy ngân gây ra là của Amadeus Mozart, người được cho uống thuốc thủy ngân để trị bệnh giang mai của mình.
Cây độc cần (Hemlock)
Cây độc cần (Hemlock hoặc Conium) là một thực vật có hoa mang độc tính cao ở bản địa châu Âu và Nam Phi. Đó là một trong những chất độc phổ biến với người Hy Lạp cổ đại, được sử dụng để giết chết các tù nhân. Đối với người lớn, việc uống 100mg Conium hoặc khoảng 8 lá cây sẽ gây chết người.
Cây độc cần nước thực ra là loại cây dại có nguồn gốc từ Bắc Mỹ và cũng là loại cây giết chết nhiều người nhất ở đây. Loài cây độc này thường mọc nhiều ở các đầm lầy, bờ sông hay vùng cỏ ẩm ướt và có thể phát triển chiều cao tới 1,8m. Cây có độc gây chết người này có hoa nhỏ màu trắng, mọc thành từng chùm. Toàn thân cây độc cần nước đều chứa chất độc cicutoxin, nhưng chất độc tập trung nhiều nhất ở bộ phận rễ.
Chất cicutoxin có thể gây co giật mạnh, chuột rút, đau đớn, buồn nôn, run cơ. Những người sống sót sau khi bị nhiễm độc từ cây độc cần nước thường bị mất trí nhớ. Đặc biệt, thời điểm chất độc cicutoxin có độc tính cao nhất là mùa xuân, khi đó nó có thể đủ mạnh để giết chết một con bò.
Cái chết sẽ đến dưới dạng tê liệt, tâm trí của người bị hại hoàn toàn tỉnh táo nhưng cơ thể của họ không phản ứng được và cuối cùng hệ thống hô hấp ngưng hoạt động. Có lẽ vụ ngộ độc cây độc cần nổi tiếng nhất là nhà triết học Hy Lạp, Socrates, ông bị kết án tử hình vì nghịch đạo trong 399 TCN.
Tetrodotoxin (TTX)
Chất độc Tetrodotoxin này được tìm thấy trong hai sinh vật biển là bạch tuộc đốm xanh và cá nóc. Tuy nhiên bạch tuộc đốm xanh là nguy hiểm nhất bởi vì nó cố tình tiêm nọc độc, giết chết đối thủ, con mồi trong vài phút. Bạch tuộc đốm xanh mang đủ nọc độc để giết chết 26 người lớn trong vòng vài phút và vết cắn thường không gây đau đớn, rất nhiều nạn nhân chỉ nhận ra họ đã bị cắn cho đến khi họ bị tê liệt.
Tetrodotoxin ức kích thích điện thế hoạt động trong các dây thần kinh bằng cách gắn vào các kênh natri cổng điện áp trong màng tế bào thần kinh và ngăn chặn sự di chuyển của các ion natri (chịu trách nhiệm cho giai đoạn tăng của điện thế hoạt động) vào trong tế bào thần kinh. Điều này ngăn hệ thống thần kinh gửi thông tin và do đó cơ bắp uốn cong để đáp ứng với kích thích thần kinh.
Nếu bạn ăn phải chất độc cá nóc, bạn sẽ gặp những triệu chứng như liệt miêng, rối loạn, liên tiếp những cơn co giật, hôn mê và cuối cùng là cái chết. Tất cả chỉ xảy ra trong vòng 17 phút hoặc tối đa là 6h. TTX đứng đầu trong danh sách các chất độc giết người.
Mặt khác, cá nóc chỉ gây chết người nếu bạn muốn ăn nó. Nhưng nếu được chuẩn bị tốt, có nghĩa là nọc độc được lấy ra, thứ duy nhất còn lại bạn cần làm là chuẩn bị liều thuốc adrenaline để phòng hờ sự cố bất ngờ khi ăn cá nóc.
Botulinum
Botulinum là một protein và là một độc tố thần kinh do vi khuẩn Clostridium botulinum tạo ra. Nó là chất độc gây chết người mạnh nhất từng được biết, với liều gây chết trung bình (LD50) ở người khoảng 1,3-2,1 ng/kg tiêm tĩnh mạch hoặc tiêm bắp và 10-13 ng/kg khi hít vào. Botulinum có thể gây ngộ độc thịt, một căn bệnh nghiêm trọng đe dọa tính mạng của con người và động vật. Ba botulinum loại A (Botox, Dysport và Xeomin) và một botulinum loại B (Myobloc) có mặt trong nhiều loại sản phẩm y tế và mỹ phẩm thương mại khác nhau.
Độc tố Botulinum gây ra chứng Botulism (chứng ngộ độc thịt vì ăn phải xúc xích hoặc đồ hộp hỏng) và sẽ gây tử vong nếu không được điều trị ngay lập tức. Nó gây ra tình trạng liệt cơ, đưa cơ thể đến tình trạng tê liệt hệ thống hô hấp và dẫn đến cái chết. Các vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể qua vết thương hở hoặc bằng cách nuốt thức ăn bị bẩn hoặc nhiễm độc. Bằng cách này, độc tố Botulinum là công cụ tương tự được sử dụng để tiêm Botox.
Botulinum độc gấp 40 triệu lần Cyanide và có thể giết chết một người chỉ với một lượng bằng 80 nanogram. Các triệu chứng bao gồm việc đầu tiên mặt bạn sẽ tê liệt, sau đó là đến chân tay và cơ quan hô hấp của bạn. Loại độc này có thể xuất hiện trong thực phẩm mặc dù rất hiếm, vì vậy nếu sau khi ăn thứ gì đó mà cảm thấy cơ mặt bắt đầu tê liệt và không thể nói được hãy đến bệnh viện nhanh nhất có thể.
Chất độc Ricin
Ricin là một chất độc cực mạnh, là một lectin tự nhiên (protein có khả năng liên kết với carbohydrat) được tìm thấy trong hạt của cây thầu dầu, Ricinus communis. Nuốt phải 5 đến 10 hạt thầu dầu có thể gây ra các triệu chứng cấp tính ở người: ói ra máu, hoại tử xuất huyết ở một số cơ quan, suy thận, trụy tim mạch, và tử vong sau 6-14 ngày. Nhiễm độc ricin từ đường miệng ít độc hơn gấp nhiều lần so với đường máu hoặc đường hô hấp, với liều gây chết ở người ước tính khoảng 1 mg cho mỗi kg thể trọng.
Chất độc thực vật cực kỳ độc hại này đã được sử dụng để giết chính trị gia nổi tiếng Bulgaria Georgi Markov khi ông đang sống lưu vong ở London. Vào ngày 07 tháng 9 năm 1978, khi Markov đang đứng chờ xe buýt gần Waterloo Bridge (Anh) thì ông bất ngờ cảm thấy có cái gì đó chạm vào đùi của mình. Ông nhìn ra phía sau và thấy một người đàn ông đang cúi xuống nhặt một chiếc ô. Markov lập tức cảm thấy bị hoa mắt và ngất xỉu ngay ở trạm xe buýt. Ông được đưa tới bệnh viện với triệu chứng sốt cao và qua đời ba ngày sau đó.
Khám nghiệm tử thi cho thấy một quả cầu rất nhỏ làm bằng một hợp kim platinum-iridium dính trên đùi Markov. Quả cầu có phủ nhiều kim nhỏ được bôi một ít chất ricin và chính chất này là nguyên nhân gây ra tử vong. Ricin được trích xuất từ hạt của cây thầu dầu (Ricinus communis). Chất này là một loại glycoprotein gây cản trở quá trình tổng hợp protein và từ đó gây chết tế bào. Chỉ cần 1mg cho mỗi kg cơ thể người cũng đủ làm tử vong nạn nhân.
Cây cà dược hay cây cà độc dược (Belladonna)
Cây cà độc dược có tên khoa học là Datura metel L, Họ Cà – Solanaceae hay cây cà độc dược có tên khác là Mạn đà la. Đặc điểm thực vật, phân bố của cây cà độc dược: Cà độc dược có 2 loại; một loại hoa trắng, thân xanh, cành xanh; một loại hoa đốm tím, cành và thân tím. Cây Cà độc dược đều là loại cây nhỏ, mọc hàng năm, cao từ 1 – 2m. Toàn thân gần như nhẵn, có nhiều chấm nhỏ. Cành và các bộ phận non có nhiều lông tơ ngắn. Lá đơn, mọc cách nhưng ở gần đầu cành trông như mọc đối hay mọc vòng. Phiến lá hình trứng, ngọn lá nhọn, phía đáy lá hơi hẹp lại. Hoa đơn, mọc ở kẽ lá, khi hoa héo một phần còn lại trở thành quả, giống hình cái mâm.
Cây cà dược (Belladonna) hay cà độc dược tên của cây này có nguồn gốc từ Ý và có nghĩa là người phụ nữ đẹp. Đó là bởi vì nó được sử dụng trong các người trung niên cho mục đích thẩm mỹ như pha loãng thuốc nhỏ mắt giãn đồng tử hay làm cho những người phụ nữ quyến rũ hơn. Rõ ràng cây cà dược này có vẻ hoàn toàn vô hại nhưng sự thật là nếu chỉ cần ăn phải dù chỉ một chiếc lá cũng gây chết người và đó là lý do tại sao nó được sử dụng để chế tạo mũi tên độc.
Do trong thành phần hóa học của cây cà độc dược hầu hết là alkaloid, trong đó alkaloid chính là L-scopolamin (hyoscin), ngoài ra còn có hyoscyamine, atropine, scopolamine. Do vậy ngộ độc cà độc dược là biểu hiện tác động dược lý và hóa học của các alkaloid nói trên. Với biểu hiện triệu chứng của các thuốc có tác dụng kháng cholinergic với các mức độ khác nhau.
Cơ chế tác dụng của atropine và nhóm thuốc này do tác dụng kháng thụ thể muscarinic. Nó gây ức chế gắn acetylcholine vào các receptor cholinergic muscarinic ở các tế bào cơ trơn, cơ tim, tế bào tuyến, mạch tự động và thần kinh trung ương. Độ nhạy cảm của các thụ thể muscarinic phụ thuộc vào các cơ quan khác nhau trong cơ thể. Triệu chứng ngộ độc phụ thuộc nhiều vào liều lượng thuốc. Liều thấp có biểu hiện nhẹ như hơi khô miệng, giảm tiết mồ hôi và nhịp chậm. Liều cao hơn gây nhịp nhanh, giãn đồng tử, da khô nóng đỏ, ảo giác, mê sảng và hôn mê.
Chất độc VX
VX (chất hóa học), là một chất cực kỳ độc hại mà chỉ ứng dụng là một tác nhân thần kinh trong chiến tranh hóa học. VX là một vũ khí hóa học, nó được phân loại như một vũ khí hủy diệt hàng loạt của Liên Hợp Quốc tại Nghị quyết Liên Hiệp Quốc 687. Việc sản xuất và tàng trữ VX được đặt ra ngoài vòng pháp luật của Công ước vũ khí hóa học năm 1993. VX là tác nhân thần kinh được biết đến nhiều nhất trong nhóm tác nhân thần kinh V.
Ở trạng thái nguyên thể, VX là chất độc không màu, không mùi, ở dạng dung dịch màu nâu. Chất độc xâm nhập qua da, mắt và đường hô hấp vào cơ thể và gây ra đầu tiên ho và buồn nôn. Sau đó, nó làm tê liệt các cơ hô hấp và làm chết người trong vòng một vài phút trong tình trạng chuột rút nặng và đau đớn. Liều gây chết trung bình là khoảng 1 mg qua đường hô hấp, hoặc 10 mg nếu hấp thụ qua da. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp chết người được mô tả mặc dù chỉ nhận liều thấp hơn nhiều (4 μg/kg uống) và 86 μg/kg qua da.
VX là một chất độc thần kinh trích xuất từ dầu nhớt bôi trơn động cơ. Ban đầu, loại chất này được phát minh và sử dụng trong thuốc trừ sâu. Tuy nhiên đến năm 1950, VX đã bị cấm trên toàn thế giới vì quá mức độc hại. VX can thiệp quá trình truyền tải thông điệp thần kinh giữa các tế bào bằng cách tác động lên một loại phân tử có tên là acetylcholine.
Sau khi acetylcholine đã truyền đi thông điệp thần kinh, chúng cần phải được phá hủy bằng một loại enzyme có tên là acetylcholinesterase. Nếu không chúng sẽ tiếp tục gửi đi tín hiệu mãi mãi. VX ngăn chặn hoạt động của enzyme acetylcholinesterase, khiến cho acetylcholine hoạt động liên tục. Từ đó cơ bắp của bạn sẽ mất kiểm soát và bạn sẽ chết vì co thắt và ngạt thở.
Dimethylmercury
Dimethylmercury là một hợp chất hữu cơ. Chất lỏng dễ bay hơi, dễ phản ứng, dễ cháy và không màu, dimethylmercury là một trong những chất độc thần kinh mạnh nhất được biết đến, với lượng dưới 0,1 ml có khả năng gây ngộ độc thủy ngân nghiêm trọng và dễ dàng hấp thụ qua da. Dimethylmercury có khả năng thẩm thấu nhiều vật liệu, bao gồm cả hợp chất nhựa và cao su. Nó có mùi hơi ngọt, mặc dù hít đủ hóa chất để nhận thấy điều này sẽ nguy hiểm.
Dimethylmercury là một chất độc giết người từ từ do chính con người thực hiện. Nhưng chính xác những gì nó làm còn nguy hiểm hơn cả. Chỉ cần hấp thu một liều thấp 0.1ml Dimethylmercury đã gây tử vong. Tuy nhiên, các triệu chứng ngộ độc bắt đầu xuất hiện sau vài tháng tiếp xúc ban đầu, lúc đó đã quá muộn để thực hiện bất kỳ việc điều trị nào. Năm 1996, một giáo sư hóa học tại Đại học Dartmouth, New Hampshire đã đổ một hoặc hai giọt thuốc độc trên tay cô (có đeo găng tay), Dimethylmercury đã đi qua lớp găng tay cao su. Các triệu chứng xuất hiện sau bốn tháng và cô đã chết sau mười tháng.
Dimethylmercury cực kỳ độc hại và nguy hiểm để xử lý. Hấp thụ liều thấp tới 0,1 ml có thể dẫn đến ngộ độc thủy ngân nghiêm trọng. Các rủi ro được tăng cường do áp suất hơi cao của chất lỏng. Các xét nghiệm thẩm thấu cho thấy một số loại găng tay cao su hoặc polyvinyl clorua dùng một lần (thường, dày khoảng 0,1 mm), thường được sử dụng trong hầu hết các phòng thí nghiệm và lâm sàng, có tốc độ thẩm thấu cao và tối đa bởi dimethylmercury trong vòng 15 giây. Cơ quan An toàn và Sức khỏe Nghề nghiệp Hoa Kỳ khuyên nên xử lý dimethylmercury bằng găng tay nhiều lớp có độ bền cao với một đôi găng tay chống mài mòn được đeo trên cặp laminate, và cũng khuyên bạn nên sử dụng tấm chắn mặt và làm việc trong tủ hút.
Dimethylmercury được chuyển hóa sau vài ngày thành methylmercury. Methylmercury dễ dàng vượt qua hàng rào máu não, có lẽ do sự hình thành phức hợp với cysteine. Nó được loại bỏ khỏi sinh vật từ từ và do đó có xu hướng tích lũy sinh học. Các triệu chứng ngộ độc có thể bị trì hoãn theo tháng, dẫn đến trường hợp chẩn đoán cuối cùng được phát hiện, nhưng chỉ đến lúc quá muộn để chế độ điều trị hiệu quả thành công.
Arsenic
Asenic là thành phần tự nhiên của vỏ trái đất và được phân bố rộng khắp môi trường trong không khí, nước và đất. Nó rất độc ở dạng vô cơ. Người dân tiếp xúc với nồng độ asen vô cơ tăng cao thông qua việc uống nước bị ô nhiễm, sử dụng nước bị ô nhiễm trong chế biến thực phẩm và tưới tiêu cho cây lương thực, quy trình công nghiệp, ăn thực phẩm bị ô nhiễm và hút thuốc lá. Tiếp xúc lâu dài với asen vô cơ, chủ yếu qua nước uống và thực phẩm, có thể dẫn đến ngộ độc asen mãn tính. Tổn thương da và ung thư da là những tác động đặc trưng nhất.
Asenic vô cơ là một chất gây ung thư được xác nhận và là chất gây ô nhiễm hóa học quan trọng nhất trong nước uống trên toàn cầu. Asenic cũng có thể xảy ra ở dạng hữu cơ. Các hợp chất arsen vô cơ (như các hợp chất có trong nước) có độc tính cao trong khi các hợp chất arsen hữu cơ (như các hợp chất có trong hải sản) ít gây hại cho sức khỏe. Các triệu chứng ngay lập tức của ngộ độc asenic cấp tính bao gồm nôn mửa, đau bụng và tiêu chảy. Tiếp theo là tê và ngứa ran tứ chi, chuột rút cơ bắp và tử vong, trong trường hợp cực đoan.
Arsenic từng được công nhận là "vua của chất độc", gần như không thể phát hiện được cách hạ độc, vì vậy nó được sử dụng thường xuyên như là một vũ khí giết người hoặc là một phần của các câu chuyện bí ẩn. Nhưng cho đến khi thử nghiệm của Marsh và ông thông báo rằng sự hiện diện của chất độc này có cả trong nước, thực phẩm và các loại tương tự. Tuy nhiên, “vua của chất độc” đã lấy đi mạng sống của nhiều người nổi tiếng như Napoleon Bonaparte, George III của nước Anh và Simon Bolivar. Một lưu ý khác, chất độc arsenic như Belladonna (cây cà dược), được các tiểu bang Victoria sử dụng vì lý do thẩm mỹ. Một vài giọt của nó làm da của người phụ nữ trở nên trắng hơn.
Polonium
Polonium 210 là một đồng vị của nguyên tố Polonium, được khám phá đầu tiên bởi khoa học gia Marie Curie vào cuối thế kỷ 19. Polonium 210 là một chất cực độc, chỉ cần một lượng rất nhỏ cũng đủ để gây chết người. Polonium 210 gây chết người bởi nó phóng ra hạt anpha với năng lượng đủ để làm hỏng cỗ máy gen tế bào. Nó không được dùng cho phóng xạ y học như các đồng vị caesi-137 hoặc cobalt-60.
Được phát hiện vào năm 1898, các nguyên tố phóng xạ Polonium là nguyên nhân gây ra cái chết của Yasser Arafat, nhà lãnh đạo Palestin bất đồng chính kiến với Nga. Polonium được liệt vào danh sách các chất độc nguy hiểm nhất của thế kỉ 21. Nó không được sử dụng trong nghiên cứu sinh học vì vô cùng nguy hiểm cho tất cả các sinh vật sống. Hình thức phổ biến nhất của nó là Polonium 210, nó bị báo buộc nguy hiểm gấp 250.000 lần hydro cyanide.
Polonium là một chất phóng xạ rất độc hại, là một thứ giết người chậm rãi mà không có thuốc chữa. Một gam polonium bốc hơi có thể giết chết khoảng 1,5 triệu người chỉ trong một vài tháng. Các trường hợp nổi tiếng nhất của việc ngộ độc polonium là điệp viên cũ của Nga Alexander Litvinenko. Chất độc polonium đã được tìm thấy trong tách trà của ông, một liều cao hơn khoảng 200 lần so với liều gây chết trung bình trong trường hợp nuốt phải. Ông qua đời trong ba tuần.
Điều này giải thích tại sao Mỹ dùng Polonium để thả xuống Nagasaki với những gì họ cho là dự án Dyton của Mahattan. Về lý thuyết, một gam Polonium 210 có thể giết chết 10 triệu người nếu ăn phải, tiêm hoặc hít. Bức xạ của nó có thể gây ung thư cho con người.
Xyanua (Cyanide)
Xyanua là một hợp chất hoá học có chứa nhóm xyano (C≡N), bao gồm một nguyên tử cacbon liên kết ba với một nguyên tử nitơ. Tiếp xúc với một lượng lớn xyanua có thể gây tổn thương cho não và tim mạch, nếu tiếp xúc ở liều lượng thấp có thể gây những hậu quả như khó thở, đau tim, nôn mửa, thay đổi máu, đau đầu, làm rộng tuyến giáp. Chỉ cần 50mg – 200mg xyanua hoặc hít phải 0,2% khí xyanua, có thể giết chết ngay lập tức một người trưởng thành.
Chất độc Cyanide dường như rất phổ biến (gián điệp sử dụng cyanide để tự sát khi bị bắt) và có rất nhiều lý do cho sự phổ biến của chất độc này. Thứ nhất, nó được tìm thấy trong một loạt các chất như hạnh nhân, hạt táo, hạt mơ, khói thuốc lá, thuốc trừ sâu,... Giết người trong trường hợp này có thể đổ lỗi cho một tai nạn, chẳng hạn như nuốt nhầm thuốc trừ sâu.
Một liều Cyanide đủ gây tử vong cho con người là 1,5 mg cho mỗi kg trọng lượng cơ thể. Thứ hai, đó là một thứ giết người nhanh chóng. Tùy thuộc vào liều lượng, cái chết xảy ra trong vòng 1 đến 15 phút. Ngoài ra, Cyanide ở dạng khí (hydrogen cyanide) được sử dụng bởi Đức Quốc xã cho vụ giết người hàng loạt trong các buồng khí xuyên suốt Holocaust.
Xyanua được tìm thấy trong những hợp chất (là những chất được hình thành từ hai hay nhiều hoá chất). Xyanua có thể phản ứng với kim loại và những hợp chất hữu cơ khác (hợp chất chứa Carbon). Natri xyanua và kali xyanua là những hợp chất xyanua đơn giản. Xyanua có thể được sản sinh ra bởi vi khuẩn, nấm và được tìm thấy trong một số thức ăn và thực vật. Trong cơ thể của con người, xyanua có thể kết hợp với một loại hóa chất (hydroxocobalamin) để hình thành vitamin B12 (cyanocobalamin). Trong những loại thức ăn được chế biến từ thực vật; bao gồm quả hạnh, những hạt chồi của cây kê, cây đậu, đậu tương, đậu nành, rau bi-na (rau chân vịt), măng tre, rễ cây sắn, bột sắn hột tapioca.
Azidoazide azide (C2N14) – "Không chạm" cũng nổ
Azidoazide azide (C2N14) hay còn gọi AA, là hợp chất dễ nổ nhất từng được con người chế tạo. Nếu như gọi chất N nêu trên là chất siêu cháy thì AA xứng danh là chất siêu nổ. Gần như bất kỳ kích thích nào, chẳng hạn như nhiệt, bức xạ hoặc sốc vật lý, sẽ khiến Azidoazide azide phát nổ. Nó cũng có thể phát nổ một cách khó lường và không có lý do rõ ràng. Khi một nỗ lực được thực hiện để lập biểu đồ phổ hồng ngoại của nó bằng quang phổ Raman, nó đã phát nổ.
Như chúng ta được học, một nguyên tử nitrogen có khuynh hướng bắt cặp với một nguyên tử nitrogen khác thông qua liên kết ba, và kiểu liên kết N≡N là một trong những liên kết mạnh nhất trên Trái đất, nên thông thường trong tự nhiên cặp nguyên tử nitrogen chỉ bị tách rời khi có sét đánh.
Nhưng chính độ bền này cũng cho thấy rằng nguồn năng lượng khi 2 nguyên tử Nitrogen gắn vào nhau sẽ rất lớn. Còn đối với AA, có tới 14 nguyên tử nitrogen nhưng không có nguyên tử nào có liên kết ba, khiến phân tử ở trong trạng thái năng lượng cao và liên kết lỏng lẻo. Tính chất này dẫn đến AA có cả hai đặc điểm là: vô cùng dễ nổ và nổ mạnh.
AA dễ nổ đến mức độ nhạy nổ của chất này vượt quá khả năng đo lường của con người. Vào năm 2010, một nhóm các nhà hóa học Đức đã liệt kê các hành động có thể kích nổ AA, trong đó bao gồm các hành động hết sức nhỏ như... dịch chuyển, hoặc tác động từ ánh sáng, hoặc chẳng làm gì nó cũng nổ.