Cho đến thời điểm hiện tại, nước Mỹ có 44 đời Tổng thống khác nhau, và đang tiến tới bầu cử vị Tổng thống thứ 45. Nhưng thực chất chỉ có 43 người đã tuyên thệ nhậm chức, do một vị Tổng thống phục vụ 2 nhiệm kỳ không liên tiếp. Trong 43 vị này, hãy cùng Chúng tôi điểm tên những vị Tổng thống tồi tệ nhất trong lịch sử nước Mỹ.
Herbert Hoover là ông chủ Nhà Trắng thứ 31 và xếp thứ 9 trong danh sách những vị Tổng thống tồi tệ nhất lịch sử. Đất nước Mỹ chào đón vị tân Tổng thống bằng một cuộc suy thoái kinh tế năm 1929. Mặc dù ông đã cố gắng dùng mọi biện pháp để khắc phục tình trạng suy thoái, nhưng tất cả đều không khả quan, thậm chí còn trở nên tồi tệ hơn. Bên cạnh đó, chính sách cấm nấu và bán rượu của ông bị phản đối mạnh mẽ. Các cử tri Mỹ cũng không còn tin tưởng vào khả năng lãnh đạo của ông, bởi ông luôn làm việc theo các nguyên tắc bảo thủ, khả năng giao tiếp kém… Những nguyên nhân đó khiến ông để mất “ngôi” trong cuộc đua vào Nhà Trắng nhiệm kỳ 2 vào tay Tổng thống Roosevelt.
Millard Fillmore là Tổng thống Mỹ thứ 13, được lên nắm quyền do sự ra đi của Tổng thống Zachary Taylor sau hơn một năm làm ông chủ Nhà Trắng. Sai lầm lớn nhất của ông là đã tán thành thỏa hiệp Đạo luật Nô lệ bỏ trốn. Chính Fillmore đã phê chuẩn đạo luật cho phép chính phủ liên bang được bắt nô lệ bỏ trốn và đem trả lại cho người chủ. Nó đã trở thành mầm mống cho cuộc nội chiến đẫm máu ở Mỹ.
William Harrison là vị Tổng thống thứ 9, nổi tiếng trong trận chiến Tippecanoe năm 1811. Ông đã giành chiến thắng trong cuộc bầu cử Tổng thống năm 1840. Ngày phát biểu nhậm chức, thời tiết rất lạnh và lộng gió. Và bài phát biểu dài 1h40 phút của ông được cho là dài nhất lịch sử Mỹ, kết quả là tân Tổng thống bị cảm lạnh. Sau đó, ông qua đời vì bệnh viêm phổi. Vì vậy, ông trở thành người nắm giữ chức Tổng thống ngắn nhất trong lịch sử chỉ vỏn vẹn trong vòng 1 tháng.
James Buchanan là vị Tổng thống thứ 15 của nước Mỹ. Nhưng ông bị đánh giá là một trong những nhà lãnh đạo tồi tệ nhất do khả năng lãnh đạo kém cỏi và quá nhu nhược. Trong thời gian nắm quyền, ông đã không đủ mạnh mẽ và kiên quyết để chống lại cũng như ngăn chặn âm mưu của các bang thuộc miền Nam nước Mỹ đòi ly khai dẫn đến cuộc nội chiến đẫm máu. Cụ thể, vị Tổng thống này đã ủng hộ quyết định của Tòa án Tối cao, ủng hộ chế độ chiếm nô và khước từ quyền công dân cho tầng lớp nô lệ. Điều đó đã khiến các nghị sĩ trong đảng Dân chủ vô cùng phẫn nộ, dẫn đến sự chia rẽ đảng phái cũng như nội chiến. Bên cạnh đó, ông cũng không có khả năng lãnh đạo của mình khi để nước Mỹ rơi trong tình trạng suy thoái sâu.
Franklin Pierce là vị lãnh đạo thứ 14 của Nhà Trắng. Ông cũng là một trong những “hạt nhân châm ngòi” cho cuộc nội chiến ở quốc gia này. Khi được bầu làm Tổng thống, ông Pierce đã hăng hái trong việc kiểm soát tình trạng nô lệ, ủng hộ mạnh mẽ thỏa ước Missouri (1820), Đạo luật Nô lệ bỏ trốn (1850) và Đạo luật Kansas - Nebraska (1854). Nội dung của những đạo luật này chủ yếu nói về chế độ nô lệ. Những làn sóng ủng hộ chế độ bãi nô ngày càng mạnh mẽ ở miền Bắc. Còn miền Nam lại đấu tranh để duy trì chế độ chiếm nô một cách mạnh mẽ.
Không thể phủ nhận được những thành công mà vị Tổng thống này đã làm khi nắm quyền như: đặt nền móng cho việc xây dựng mối quan hệ Mỹ - Trung Quốc, thỏa thuận cắt giảm vũ khí chiến lược với Liên Xô. Tuy nhiên, sai lầm trong thời gian nắm quyền của ông là khiến Mỹ lấn sâu vào cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Ngoài ra, ông chủ Nhà Trắng này còn có một hành động “bẩn” không thể chấp nhận được là đã tiến hành một vụ gián điệp chính trị. Chính việc này khiến ông phải từ chức và nó làm hoen ố tên tuổi của ông trong lịch sử nước Mỹ.
John Tyler, vị Tổng thống thứ 10 của Mỹ cũng được làm ông chủ Nhà Trắng do sự ra đi của một Tổng thống, cụ thể là William Harrison qua đời sau 30 ngày tuyên thệ nhậm chức. Trước khi làm nắm quyền, ông phản đối gay gắt kế hoạch của liên bang về việc đánh thuế vào những người có thu nhập cao, ủng hộ quyền lợi của giai cấp nô lệ, chống lại sự độc quyền của ngân hàng quốc gia,… Tuy nhiên, từ sau khi trở thành chủ nhân Nhà Trắng, ông làm ngược lại những điều đó. Vì thế, gần như toàn bộ nội các dưới thời ông đều từ chức khiến ông phải chật vật chống đỡ những khó khăn để duy trì được địa vị và thành lập nội các mới.
Zachary Taylor là Tổng thống thứ 10 của Mỹ, ông có phong cách chính trị hài hòa nhất. Thực ra, ông không thích làm chính trị nhưng do được đảng Whig tín nhiệm, bầu làm ứng cử viên tranh cử Tổng thống năm 1848. Trong thời gian ngồi trong Nhà Trắng, ông Taylor thường xuyên bị công chúng chế giễu là người ít học. Do chính sách chính trị không cứng rắn của ông đễ dẫn đến sự bùng nổ cuộc nội chiến trong những năm 1850. Có lẽ, nếu có cơ hội để sửa chữa sai lầm, Tổng thống Zachary Taylor sẽ ngăn chặn cuộc nội chiến này xảy ra. Thế nhưng, ông mắc bệnh tả và không may qua đời khi mới lên nắm quyền được hơn 1 năm.
Ulysses S. Grant từng là đại tướng Liên bang miền Bắc trong cuộc nội chiến. Trong thời gian làm Tổng thống, ông đã không kiểm soát được nạn tham nhũng, khiến nó trở thành một vấn nạn của nước Mỹ. Không những thế, ông còn là vị Tổng thống Mỹ duy nhất trong lịch sử từng bị bắt giữ khi vẫn đang tại nhiệm. Lý do là do cưỡi ngựa quá tốc độ và bị phạt 20 USD.
Andrew Johnson là vị Tổng thống thứ 17 của Mỹ, được xếp hạng là một trong những nhà lãnh đạo Nhà Trắng tồi tệ nhất trong lịch sử nước này. Ngay sau cuộc nội chiến, vị Tổng thống này đã quyết định đứng về phía người da trắng thuộc các bang miền Nam và từ chối việc ở rộng quyền con người ở các bang trong khu vực này. Ông chỉ quyết định bãi bỏ chế độ nô lệ mà không hề chú ý đến những quyền lợi của người da màu. Giáo sư sử học thuộc đại học Ohio Michael Le Benedict nhận định: “Nước Mỹ vẫn đang tiếp tục phải trả giá cho sai lầm của Andrew Johnson”.