Nhiều phát minh hiện đại đã thực sự được sử dụng xung quanh cuộc sống chúng ta trong nhiều thập kỷ hoặc thậm chí là nhiều thế kỷ. Chúng ta có xu hướng nghĩ rằng những phát minh này đều là mới bởi vì các phiên bản trước đó bị thất bại, bị lãng quên, hoặc bị mất.
Phong trào phản đối tiêm vắc xin
Vào đầu những năm 1800, Edward Jenner phát triển vắc xin đậu mùa, nhưng nó bị xã hội phản đối và chỉ trích. Một số nhà phê bình cho rằng nó mất vệ sinh, trong khi những người khác phản đối nó vì lý do chính trị, tôn giáo, hoặc khoa học. Từ đó hình thành phong trào phản đối tiêm vắc xin.
Gần một thế kỷ sau đó, một cuộc bạo loạn nổ ra ở các bộ phận khác nhau của Anh sau khi chính phủ Anh thông qua một đạo luật làm tiêm phòng bắt buộc cho tất cả trẻ em. Wallace trích dẫn thống kê từ báo cáo của mẫu đăng ký cho biết có 52 người chết mỗi năm do biến chứng từ chủng ngừa.
Tuy nhiên, tổ chức vắc xin quốc gia nhanh chóng phản đối với một số thống kê rằng gần 4.000 cư dân London đã chết mỗi năm vì bệnh đậu mùa trước khi vắc xin được giới thiệu. Do các cuộc bạo loạn và áp lực chính trị, chính phủ Anh nói thêm một điều khoản của pháp luật là cho phép cha mẹ có quyền lựa chọn không tham gia tiêm phòng bắt buộc nếu họ hiểu rõ ý nghĩa hành động của họ.
Trong năm 1867, “Liên minh phản đối tiêm chủng bắt buộc” được thành lập tại London. Khoảng một thập kỷ sau đó, “Hiệp hội phản đối tiêm chủng của Mỹ” được thành lập sau khi một chuyến đi tới Mỹ bởi William Tebb.
Chương trình truyền hình thực tế
Bộ phim được phát sóng trên PBS vào năm 1973 và ghi hình lại bảy tháng cuộc sống hằng ngày của Pat Loud, chồng của cô là Bill và năm đứa con với độ tuổi từ 14 đến 20. An American Family đã đánh dấu một bước ngoặt lớn trong lịch sử truyền hình và thu hút được rất nhiều người dân Mỹ xem lúc bấy giờ. Nổi bật với Pat và Bill ly dị và gây sốc cho khán giả khi đứa con trai lớn Lance thừa nhận anh là người đồng tính.
Ô tô
Leonardo da Vinci và Isaac Newton thậm chí còn vẽ bản thảo lý thuyết cho chiếc xe có động cơ. Tuy nhiên, mãi đến thế kỷ thứ 18 mới xuất hiện chiếc xe tự vận hành đầu tiên cho việc đi lại của con người. Năm 1769, Nicolas-Joseph Cugnot, một kỹ sư người Pháp và thợ cơ khí, trở thành người đầu tiên thiết kế và xây dựng một chiếc xe hơi tự vận hành. Được sử dụng bởi quân đội Pháp, đó là một chiếc xe ba bánh chở pháo binh, chạy bằng động cơ hơi nước đạt tốc độ tối đa khoảng 3 km mỗi giờ. Xe của Cugnot phải dừng lại khoảng 15 phút để nạp đủ năng lượng rồi mới di chuyển tiếp.
Năm 1771, vụ tai nạn ô tô đầu tiên xảy ra khi một người đàn ông đã lái xe đâm vào bức tường đá. Từ đó về sau, mọi thứ đổ dồn xuống hết cho Cugnot. Ông đã sớm hết tiền để nâng cấp phát minh của mình sau người cung cấp tài chính cho ông qua đời.
Nhà hàng thức ăn nhanh
Thói quen ăn uống nhanh được cho là phát minh của các thế hệ gần đây. Tuy nhiên, khi các nhà khoa học đã nghiên cứu cách các hộ gia đình có chức năng tại thành phố cổ Pompeii, họ phát hiện ra rằng các nhà hàng thức ăn nhanh được sử dụng bởi những người La Mã cổ đại.
Đa số người La Mã cổ đại dùng rượu và cơm trưa khá hạn chế, không như giới lãnh đạo ở Rome. Phần lớn người dân sống tại các khu nhỏ không có không gian cho khu vực phòng ăn và nhà bếp của mình. Trong khi khai quật thành phố, các nhà khoa học phát hiện ra tàn tích của các nhà hàng thức ăn nhanh.
Theo Giáo sư Stephen Dyson, cựu chủ tịch của Viện Khảo cổ học của Mỹ, các nhà hàng là một sự kết hợp giữa quán ăn thức ăn nhanh và quán rượu vì họ phục vụ cả thức ăn và rượu. Khai trương tại đường phố, các nhà hàng có một lượng lớn người ở giữa phòng để khách đặt thức ăn và đồ uống. Cũng giống như các món ăn hiện đại, khách hàng có thể ngồi ở một chiếc bàn nhỏ trong quán ăn hay đơn giản là lấy thức ăn và đi. Những phát hiện trong Pompeii được cho là mở rộng đến các bộ phận khác của Ý vì thành phố này đã được coi như là thủ đô Rome.
Tàu ngầm
Hầu hết chúng ta nghĩ rằng tàu ngầm được tạo ra vào Thế chiến I. Tuy nhiên, các mô tả khả thi đầu tiên về một tàu ngầm được rút ra bởi William Bourne, một chủ quán trọ người Anh vào năm 1580. Bourne giải thích lý do tại sao tàu nổi và gợi ý rằng việc tăng hoặc giảm độ dày của con tàu liên quan đến trọng lượng của nước chiếm vào khiến con tàu chìm hoặc nổi.
Tuy nhiên, Bourne đã không làm bất cứ điều gì nhiều hơn ý tưởng của mình, vì vậy thế giới đã phải chờ đợi cho đến thập niên 1620 khi Cornelius van Drebbel, "tòa nhà phát minh" cho James I của Anh, xây dựng tàu ngầm đầu tiên. Tàu ngầm Drebbel là một thuyền chèo bằng gỗ bọc da láng, có ống không khí gắn vào phao nổi tiếp xúc với bề mặt oxy. Chiếc tàu ngầm được đẩy bởi 12 người chèo thuyền vì động cơ vẫn chưa tồn tại.
Chiếc tàu ngầm quân sự đầu tiên được xây dựng bởi David Bushnell vào năm 1776. Nó làm bằng gỗ và được điều khiển bởi cánh quạt bằng tay quay. Trong cuộc Cách mạng Mỹ, nó đã được sử dụng để gắn chất nổ vào thân tàu chiến của Anh. Mặc dù các tàu ngầm hoạt động tốt nhưng chất nổ thì không.
Trong những năm 1890, các tàu ngầm thực sự đầu tiên được phát triển bởi hai nhà sáng chế phe địch. Được xây dựng bởi John P. Holland và Simon Lake của Mỹ và Nga tương ứng, những chiếc tàu ngầm sử dụng động cơ hơi nước và xăng dầu để lướt trên bề mặt và động cơ điện để lặn dưới nước.
Điện thoại bàn
Phát minh ra điện thoại không phải là Alexander Graham Bell mà thực sự đó là một kỹ sư người Mỹ gốc Ý tên là Antonio Meucci . Tuy nhiên, ý tưởng về một chiếc điện thoại thực sự trở lại hơn 1.200 năm trước đây .
Phiên bản cổ xưa này được phát minh bởi các nền văn minh Chimu, những người sống trong Rio Moche Valley ở miền bắc Peru. Hiện có tại Bảo tàng quốc gia Smithsonian của Ấn Độ-Mỹ, điện thoại cổ xưa này được phát hiện bởi Baron Walram V. Von Schoeler, một quý tộc Phổ, trong khi khai quật ở Peru trong những năm 1930.
Điện thoại của nền văn hóa Chimu gồm hai ống bầu, mỗi cái dài khoảng 9 cm, nối với nhau khoảng 22 mét bằng dây bện. Ống bàu được trang bị màng ẩn được thiết kế để tăng cường âm thanh trong quá trình giao tiếp. Xã hội Chimu là một xã hội phân cấp, trong đó các điện thoại được sử dụng bởi các tầng lớp cao vì họ không được phép gặp trực tiếp các tầng lớp thấp hơn.Tiếng lóng trong tin nhắn văn bản
Từ lòng trong tin nhắn văn bản được cho là một phát minh hiện đại. Người dùng điện thoại ngày nay thông qua tiếng lóng để giúp cho thông điệp của họ ngắn hơn và gõ nhanh hơn. Trong tiếng Anh là "Text lingo", hình thức này bị chỉ trích bởi các giáo sư tiếng Anh và chủ nghĩa thuần túy ngôn ngữ, những người cảm thấy đó là một dấu hiệu của sự phân rã trí tuệ thời nay. Tuy nhiên, ngôn ngữ giao tiếp viết tắt đã xuất hiện từ những năm 1890 khi các điện tín được phát minh.
Mặc dù điện báo tạo điều kiện cho mọi người để gửi tin nhắn ở khoảng cách xa nhưng nó vô cùng tốn kém họ phải trả tiền cho mỗi thư được gửi. Người dùng đã bắt đầu áp dụng tiếng lóng để giảm thiểu chi phí gửi tin nhắn. Một số ví dụ như: “Wr r ty gg r 9”, ý nghĩa đầy đủ là “Where are they going for No. 9”; “Is tt exa tr et”, ý nghĩa đầy đủ là “Is that extra there yet?”.
Hầu hết mọi người chỉ gửi tin nhắn bằng điện tín khi họ cần truyền thông điệp khẩn cấp, việc sử dụng từ lóng tạo cơ hội để họ truyền tải được tối đa thông tin với ít kí tự sử dụng nhất.
Phẫu thuật não
Năm 1997, nhà khảo cổ học làm việc tại Ensisheim phát hiện hài cốt của một người đàn ông 50 tuổi với hai lỗ hổng trong hộp sọ. Trong hộp sọ có một vết nứt, mà họ đã chỉ ra nguyên nhân là do phẫu thuật chứ không phải do bạo lực. Nằm ở thùy trán, lỗ đầu tiên rộng khoảng 6 cm, trong khi các lỗ khác ở phía trên cùng của hộp sọ rộng khoảng 3 cm. Điều này cho thấy rằng việc phẫu thuật đã diễn ra vào những thời điểm khác nhau. Các ca phẫu thuật phải thành công bởi vì cả hai lỗ lành trước khi ông qua đời. Lỗ nhỏ hoàn toàn bị bao phủ bởi một lớp mới của xương, và lỗ lớn được bao phủ một phần.
Mặc dù đó là bằng chứng cổ xưa nhất được biết đến của phẫu thuật não, các nhà khảo cổ tin rằng có thể phẫu thuật não còn xuất hiện sớm hơn nữa. Thực tế thì việc khoan xương được thực hiện rất hoàn hảo và người đàn ông đã sống sót.
Kính áp tròng
Theo một số báo cáo, thợ thổi chai thủy tinh (glass blower) người Đức FA Muller được công nhận đã sản xuất kính áp tròng đầu tiên vào năm 1887. Tuy nhiên theo trích dẫn của các báo cáo khác thì bác sĩ nhãn khoa Edouard Kalt và bác sĩ Adolf E. Fick như là những người sáng chế ra kính áp tròng đầu tiên vào năm 1888. Những đầu kính áp tròng được làm hoàn toàn từ kính. Họ bao phủ toàn bộ bề mặt của mắt, bao gồm củng mạc (lòng trắng). Bề mặt kính nặng nề và làm giảm cung cấp oxy cho giác mạc, vì vậy họ chỉ có thể được đeo trong một vài giờ tại một thời điểm.
Chuyên viên đo mắt William Feinbloom phát minh ra ống kính scleral vào năm 1936. Những thấu kính này được làm từ sự kết hợp giữa thủy tinh và nhựa, nhẹ hơn so với mô hình trước đó. Nhưng tất cả đều không phải cho đến năm 1948, bác sĩ nhãn khoa Kevin Tuohy đã giới thiệu một nguyên mẫu kính áp tròng hiện đại, được làm hoàn toàn từ nhựa và bao phủ chỉ giác mạc.
Truyền thông xã hội
Khoảng thập niên 60, các nam thanh niên từ các vùng mà ngày nay là Hà Lan và Rhineland bắt đầu rời khỏi nhà để tìm kiếm một nền giáo dục rộng khắp châu Âu. Những người đàn ông đã đến thăm các trường đại học và các học giả. Bất cứ khi nào họ gặp nhà triết học, nhà khoa học, hoặc sinh viên họ ngưỡng mộ, họ muốn có ai đó viết bình luận ngắn trong "friend books" của mình để ghi nhớ cuộc gặp mặt của họ.
Mặc dù phụ nữ của thời đại đó không có nhiều cơ hội đi lại giống như nam giới, họ vẫn tiếp tục duy trì "friend books” của họ. “Friend books” của phụ nữ có xu hướng cá nhân hơn với các tin đồn, bí mật và chuyện cười về sở thích mà họ ghi lên “friend books” . Những cuốn sách này thường chứa đựng những câu chuyện về các sự kiện đáng nhớ, lời bài hát cho ca khúc mới và thơ cá nhân. Amicorum alba chắc chắn là một cách để thể hiện sự nổi tiếng của một người nào đó.