Nhắc tới cáo, nhiều người nghĩ ngay tới con vật gian trá, độc ác trong các câu truyện cổ. Đây có lẽ cũng là lý do khiến rất ít người có thiện cảm với con vật này. Trong thực tế, cáo là một loài động vật có ngoại hình dễ thương và lối sống thú vị. Cùng Toplist tìm hiểu những sự thật thú vị về loài cáo nhé!
Hình tượng con cáo trong văn hóa
Hình tượng con cáo trong văn hóa xuất hiện một cách dày đặc trong nhiều nền văn minh nhân loại. Sự hiện diện của các loài dạng cáo trên toàn cầu đã làm cho hình tượng của chúng xuất hiện trong nhiều câu chuyện của văn hóa dân gian của nhiều dân tộc, bộ lạc hay các nhóm văn hóa khác. Con cáo với đôi mắt xếch, răng nanh nhọn hoắt tượng trưng cho ranh ma, gian xảo, lọc lừa. Trong các câu chuyện dân gian, cáo luôn được phân vào tuyến nhân vật phản diện, nó luôn bày trò cướp đoạt những thứ của người khác như trong truyện "Cáo, thỏ và gà trống", thường được mô tả như là một con vật nhanh nhẹn, tinh ranh, và có năng lực thích nghi, cáo được coi là biểu tượng của sự thông minh, xảo quyệt trong hầu hết các nền văn hóa.
Trong các câu chuyện dân gian, cáo luôn được phân vào tuyến nhân vật phản diện. Nó luôn bày trò cướp đoạt những thứ của người khác như trong truyện "Cáo, thỏ và gà trống". Hình ảnh của cáo trên các mặt nạ biểu diễn thường dùng các màu đỏ, vàng, cam hoặc thêm chi tiết răng nanh sắc nhọn để gây ấn tượng về bản tính hung ác, nham hiểm của nó. Trái ngược với cáo, các màu nhẹ nhàng như hồng, xanh lá, vàng thường gắn với nhân vật thỏ, chim,... thể hiện sự nhẹ nhàng, tâm hồn thanh cao của các nhân vật này.
Trong các bộ phim, khi nhắc đến những người nham hiểm, độc ác, xảo quyệt hoặc những tình nhân không chính thức người ta thường dùng "cáo già" thay cho: "hồ ly tinh" (do "hồ ly" nghĩa là cáo, còn "tinh" là từ chỉ các yêu quái đã tu luyện thành tinh). Nhưng trong bộ phim Zootopia thì cáo đã biết hoàn lương, điển hình Nick Wilde thì trở thành cảnh sát cáo đầu tiên và Gideon Gray trở thành thợ làm bánh được kính trọng.
Tuổi thọ cáo: Cáo sống được bao lâu?
Tuổi thọ trung bình của cáo là 3-4 năm trong tự nhiên. Tuy nhiên, trong điều kiện nuôi nhốt, cáo đã được biết là sống lâu hơn nhiều. Tuổi thọ trung bình của chúng trong điều kiện nuôi nhốt là 10 đến 14 năm.
Hãy cùng nhìn lại tuổi thọ của một số loài cáo đáng nhớ:
- Cáo Bắc Cực : Theo Veterinary Parasitology, tuổi thọ của cáo Bắc Cực là 4 năm trong tự nhiên và lên đến 14 năm trong điều kiện nuôi nhốt.
- Cáo đỏ : Cáo đỏ có thể sống đến 2-6 tuổi trong môi trường hoang dã và 10-14 tuổi trong điều kiện nuôi nhốt.
- Cáo Fennec : Cáo Fennec có thể sống đến 10 năm trong môi trường hoang dã và 14 năm trong điều kiện nuôi nhốt.
Rõ ràng là cáo trong tự nhiên có tuổi thọ thấp hơn nhiều.
Các yếu tố chung ảnh hưởng đến tuổi thọ của cáo:
- Động vật ăn thịt: Vì cáo khá nhỏ nên chúng thường bị các động vật lớn hơn nhiều làm con mồi. Cáo phải đề phòng sư tử núi, chó sói, sói đồng cỏ, và thậm chí cả cú. Con người cũng là một loài săn mồi chính vì cáo thường bị săn bắt để lấy lông và môi trường sống tự nhiên của chúng bị phá hủy.
- Bệnh tật: Nhiều loài cáo dễ bị nhiễm ký sinh trùng, một loại đặc biệt được gọi là bệnh mange. Bọ xít hút máu có thể gây rụng tóc và ngứa. Không có lông, chúng không có gì để giữ ấm cho chúng trong những tháng mùa đông lạnh giá.
- Môi trường sống bị huỷ hoại: Với việc con người chiếm quá nhiều đất tự nhiên, cáo đã bắt đầu cư trú ở nhiều khu vực thành thị. Điều này khiến họ dễ bị tử vong không đáng có như bị ô tô đâm.
Cáo săn mồi và kiếm thức ăn như thế nào?
Hầu hết cáo là động vật sống về đêm và thực hiện phần lớn công việc săn bắt và kiếm ăn vào ban đêm. Điều đó nói rằng, không có gì lạ khi bạn nhìn thấy một con cáo ra ngoài vào lúc hoàng hôn hoặc bình minh, hoặc thậm chí vào ban ngày. Đúng như bản chất tự nhiên, hầu hết cáo săn bằng cách sử dụng tính năng tàng hình. Chúng thích rình bắt con mồi và không để ý đến chúng hơn là tiêu diệt thức ăn của chúng.
Tuy nhiên, cáo có thể chạy nhanh và có thể bắt được con mồi đang chạy trốn nếu được yêu cầu. Ví dụ, cáo đỏ có thể chạy tới 30 dặm một giờ, trong khi cáo xám có thể chạy 40 dặm một giờ. Cáo sẽ sử dụng kỹ thuật vồ để ghim con mồi, sau đó dùng hàm răng sắc nhọn tiêu diệt mục tiêu. Thông thường, chúng sẽ bẻ cổ hoặc lưng của con mồi, hoặc chọc thủng cổ họng của chúng để tung ra đòn kết liễu. Nếu chúng không thể hoàn thành bữa ăn trong một lần ăn, cáo có thể tích trữ thức ăn thừa ở gần đó và quay lại lấy sau.
Cáo thích nghi với các giác quan hòa hợp cao để giúp chúng săn mồi vào ban đêm. Thính giác của chúng rất nhạy bén, chúng có thể nghe thấy tiếng chuột kêu cách xa tới 100 feet. Chúng có thể cử động tai một cách độc lập, điều này cho phép chúng xác định chính xác nơi phát ra âm thanh.
Cáo cũng sở hữu khứu giác cực tốt. Điều này cho phép họ phát hiện những động vật làm tổ bên dưới mặt đất. Chúng đào thành thạo, cáo sẽ nhanh chóng chui xuống đất, băng, hoặc xung quanh đá để tìm côn trùng và động vật nhỏ. Ngoài ra, cáo còn sở hữu tầm nhìn tuyệt vời được điều chỉnh để giúp chúng săn mồi vào ban đêm. Chúng sở hữu tầm nhìn 260 độ, mặc dù tầm nhìn của chúng chủ yếu dựa vào việc chúng phát hiện chuyển động. Tầm nhìn của chúng có nhiều điểm chung với mèo, và giống như chó, chúng không thể nhìn thấy màu xanh lá cây hoặc màu đỏ.
Đặc điểm đặc trưng
Phần lớn các loài cáo sống 2 đến 5 năm do bị săn bắn. Trong môi trường nuôi nhốt, chúng có thể sống tới 10 năm hoặc hơn thế. Các loài cáo nói chung có kích thước nhỏ hơn các thành viên khác trong họ Chó, chẳng hạn như sói xám, chó rừng hay chó nhà. Cáo đực cân nặng trung bình khoảng 5,9 kg còn cáo cái nhẹ hơn, trung bình chỉ khoảng 5,2 kg (tương ứng với 13 và 11,5 lb). Các đặc trưng kiểu cáo khác thường bao gồm mõm dài kiểu cáo ("mặt cáo") và đuôi rậm.
Các đặc trưng tự nhiên khác thay đổi theo môi trường sống của chúng. Ví dụ, cáo Fennec (và các loài cáo khác thích nghi với cuộc sống trong sa mạc, như cáo Kit) có tai to và bộ lông ngắn, trong khi cáo Bắc cực lại có tai nhỏ và bộ lông dày để giữ ấm cho chúng.
Một ví dụ khác là cáo đỏ, thông thường có bộ lông màu nâu vàng điển hình, đuôi thông thường kết thúc bằng vệt lông trắng.
Không giống như các loài khác trong họ Canidae, cáo thường không tụ tập thành bầy, dù đôi khi chúng làm như vậy. Thông thường, chúng là động vật sống đơn lẻ, những kẻ kiếm ăn cơ hội, săn bắt các con mồi sống (đặc biệt là động vật gặm nhấm nhỏ). Sử dụng kỹ thuật tấn công kiểu chộp được thực hiện từ khi chúng còn non, chúng có khả năng giết chết con mồi rất nhanh. Cáo cũng ăn các loại thức ăn khác, từ châu chấu tới hoa quả và các loại quả mọng.
Những điều thú vị về loài cáo
Những điều thú vị về loài cáo:
- Một số loài cáo có thể nghe thấy những tiếng động từ cách đó 40 thước (36,5m).
- Hãy coi chừng: cáo có thể chạy với vận tốc lên đến 45 dặm một giờ (72 km / giờ), điều này khiến cho chúng trở thành một trong những loài động vật nhanh nhất trên thế giới!
- Ngay cả khi bạn bắt gặp một con cáo hoang dã, chúng cũng sẽ không ăn thịt bạn. Bởi vì chúng có một chế độ ăn tạp chủ yếu bao gồm các loài gặm nhấm, động vật có vú nhỏ, thực vật và chim.
- Những con cáo cái chỉ mang thai trong vòng 53 ngày. Điều này sẽ là cú sốc lớn với những loài động vật có thời gian mang thai dài.
- Cáo có thể sống sót trong tự nhiên trong khoảng 2 đến 3 năm. Nhưng lại có thể sống được tới 10 năm trong điều kiện nuôi nhốt.
- Cáo cũng trở thành con mồi cho một số động vật lớn hơn chúng như: đại bàng, chó sói, sói xám, gấu và sư tử núi.
- Vì có lớp lông tuyệt vời, những con cáo Bắc Cực (Cáo tuyết) có thể chịu được nhiệt độ xuống thấp tới tận – 70 độ C.
- Hầu hết loài cáo có kích thước bằng những con chó cỡ trung bình. Những con cáo lớn nhất nặng khoảng 24 pound (11 kg) và dài 34 inch (86 cm) nhưng lại không có đuôi.
- Những con cáo có thể nói gì? Có ít nhất 40 âm thanh khác nhau mà cáo có thể sử dụng, nhưng phổ biến nhất là những tiếng thét của chúng.
Loài cáo dùng từ trường trái đất để đo khoảng cách và định vị con mồi
Hầu hết loài cáo là những con sói đơn độc. Chúng kiếm ăn và ngủ một mình, nhưng khi chúng nuôi con, chúng lại sống trong các hang nhỏ dưới mặt đất cùng với gia đình của mình.2. Nếu những con cáo sống cùng nhau, nó sẽ được gọi là một “bộ ba” hay “Gia đình” của loài cáo.
Mặc dù loài cáo có liên quan đến chó sói, chó rừng và chó thì chúng cũng có khá nhiều điểm chung với họ nhà mèo về khả năng rình rập. Cáo hoạt động nhiều nhất vào ban đêm. Chúng sẽ phối hợp và chia việc cho nhau khi săn mồi, những con cáo nhỏ thì đứng thẳng để dễ dàng quan sát trong bóng tối trong khi những con lớn sẽ rình rập và vồ lấy con mồi nhanh như một con mèo. Chúng cũng có râu và những móng vuốt có thể thu vào bất cứ lúc nào.
Nói về râu thì loài cáo cũng có một ít râu chân của chúng. Điều này giúp chúng dễ dàng định hình được dáng vẻ của kẻ thù, nhất là khi trời tối.
Bên cạnh những sợi râu trên chân, cáo còn biết sử dụng từ trường của Trái đất để săn mồi. Các nhà nghiên cứu đã để ý thấy rằng những con cáo luôn nhảy theo hướng Đông Bắc khi nhìn thấy những con mồi đang ẩn nấp. Những cuộc tấn công như vậy phần lớn đều thành công trong khi nếu nhảy theo hướng khác thì tỷ lệ thất bại sẽ cao hơn. Các chuyên gia cho rằng, chúng dùng từ trường trái đất để đo khoảng cách và định vị con mồi.
Môi trường sống của cáo
Cáo có một môi trường sống rất đa dạng và khá rộng rãi. Chúng có thể được tìm thấy ở khắp Châu Âu, cũng như ở hầu hết Châu Á, Bắc Mỹ, Bắc Phi, ở nước Úc.
Cáo sống trong hang. Hơn nữa, cái hố không phải do con cáo tự đào. Chúng rất vui khi sử dụng các lỗ do các động vật khác đào; chúng cũng có thể sống trong các hốc cây lớn, hang động và những nơi khác. Chúng thích sống trong các khe núi có thảm thực vật và cát phủ. Nora thường có một số lối thoát.
Cái hang làm nơi cư trú thường xuyên được cáo sử dụng vào thời điểm nuôi con, và vào những thời điểm khác trong năm, chúng có thể qua đêm ở một khu vực trống trải.
Loài cáo tuyết là loài cáo nhỏ sống ở môi trường lãnh nguyên Bắc Cực ở Bắc Âu, Bắc Á, và Bắc Mỹ. Đó là những khu vực cực kì lạnh giá và khắc nghiệt, tuy nhiên, cáo tuyết lại thích nghi rất tốt trong môi trường này. Bộ lông dày và hệ thống trao đổi nhiệt đặc biệt giúp loài này giữ ấm ngay cả khi nhiệt độ giảm xuống tới âm 70 độ C.
Cáo Bắc Cực là động vật có vú duy nhất có nguồn gốc từ Iceland. Loài đã đến cô lập tại đảo ở bắc Đại Tây Dương kết thúc thời kỳ băng hà cuối cùng, băng qua biển đông lạnh. Trung tâm cáo Bắc Cực tại Súðavík chứa một triển lãm về cáo tuyết và tiến hành nghiên cứu về ảnh hưởng của du lịch với số lượng. Phạm vi loài suốt thời cuối kỷ băng hà rộng lớn hơn hiện tại, và hóa thạch còn lại của cáo tuyết được tìm thấy nhiều ở miền bắc Âu và Siberia.
Phân biệt sói và cáo
Kích thước của 2 loài:
- Cáo thường có kích thước nhỏ hơn các thành viên khác trong họ Chó. Đặc điểm nổi bật nhất của cáo để phân biệt với các loài khác cùng họ như chó, chó rừng và sói là cáo có thân hình khá nhỏ gọn, tai nhọn, mõm dài và đuôi rậm. Một con cáo có cân nặng trung bình là 5,2-5,9kg và chúng có tuổi thọ trung bình là 10 năm hoặc cũng có thể hơn thế. Tuy nhiên phần lớn các loài cáo chỉ sống được từ 2-3 năm do chúng bị săn bắn khá nhiều.
- Sói thì ngược lại hoàn toàn, nó chính là phân loài lớn nhất trong họ nhà Chó. Trọng lượng và kích cỡ sói xám có thể thay đổi lớn trên toàn thế giới, có xu hướng tăng tương ứng với vĩ độ với những con sói lớn của Alaska và Canada đôi khi nặng gấp 3-6 lần so với người anh em của chúng ở Trung Đông và Nam Á.
Màu lông:
- Còn cáo thì khác, chúng giản dị hơn khi không có nhiều màu đặc sắc như sói, nó thường có bộ lông màu nâu vàng điển hình, đuôi thông thường kết thúc bằng vệt lông trắng. Con nào cũng vậy chứ không có nhiều loại như sói.
- Riêng sói màu lông phổ biến là màu trắng và xám, tuy nhiên trong số đó có một số ít con có bộ lông màu đen vô cùng đặc biệt. Sự thật đây không phải màu sắc tự nhiên của chúng. Tuy rằng loài sói đen không thể hiện là một thợ săn xuất sắc, nhưng chúng lại có hệ miễn dịch tốt hơn. Loài sói đen hầu như chỉ xuất hiện ở vùng lạnh giá của Bắc Mỹ, với khoảng một nửa số sói ở vườn quốc gia Yellowstone có màu đen.
Tập tính bầy đàn:
- Cùng một họ nhưng tập tính sống của 2 loài lại hoàn toàn khác nhau. Sói là loài động vật có lối sống xã hội, chúng thường sống theo bầy đàn khoảng từ 5-11 con với 1-2 con đầu đàn bao gồm 1-2 con sói trưởng thành, 3-6 con sói chưa thanh niên và 1-3 sói con.
- Sói thì như thế nhưng cáo thì không, nó thường sống đơn lẻ chứ không sống bầy đàn như một số loài cùng họ. Chúng sống đơn độc nên được xem là những kẻ kiếm ăn cơ hội, tuy nhiên đừng vì thế mà bạn xem thường khả năng săn mồi của cáo nhé.
Tập tính sinh sản
Mùa giao phối là thời điểm mà những kẻ đơn độc tự nhiên, như những con cáo, là lúc khác, đoàn kết với nhau để sinh ra những đàn con lớn lên. Giai đoạn này thường kết thúc vào tháng Hai, sau đó con đực bắt đầu tích cực chăm sóc con cái, đến mức con mồi sau khi săn bắt được nó.
Ngoài ra, trước khi đàn con được sinh ra, một cặp vợ chồng chuẩn bị một nơi ở riêng - một cái hang được đào, thường là những đoạn sâu và một cặp vách che để thoát hiểm trong trường hợp nguy hiểm. Những chú cáo con trong hang, nơi những chú cáo con trải qua những ngày đầu tiên của cuộc đời.
Thời gian mang thai kéo dài 1,5-2 tháng. Thông thường con cái mang đến 4-6 con. Người cha của gia đình ủng hộ cáo với cáo cho đến khi tất cả những đứa trẻ lớn lên và sẵn sàng cho cuộc sống tự lập.
Khi chuẩn bị này, cáo trưởng thành đưa con mồi vẫn còn sống vào lỗ và giới thiệu cho thế hệ trẻ biết những gì cáo ăn và những kỹ thuật săn bắn nào nên được sử dụng.
Quan hệ với con người
Cáo tấn công người là không phổ biến nhưng đã được ghi nhận. Tháng 11 năm 2008, một sự cố xảy ra tại Arizona, Hoa Kỳ đã được thông báo, trong đó một người chạy bộ đã bị một con cáo điên tấn công và cắn.
Săn cáo: Săn cáo là một thú tiêu khiển và môn thể thao gây tranh cãi, có nguồn gốc từ Vương quốc Anh trong thế kỷ XVI. Việc đi săn cáo bằng chó hiện nay bị cấm tại Vương quốc Anh, mặc dù việc đi săn không dùng chó vẫn được cho phép. Thú tiêu khiển này cũng phổ biến tại một số quốc gia khác, như Úc, Canada, Pháp, Ireland, Italia, Nga và Hoa Kỳ.
Thuần hóa: Cáo bạc Nga hay cáo bạc thuần hóa là kết quả của trên 40 năm thực nghiệm tại Liên Xô và Nga để thuần hóa dạng màu trắng bạc của cáo đỏ. Đáng chú ý là những con cáo mới này không chỉ trở thành được thuần hóa nhiều hơn mà chúng còn giống như chó nhiều hơn: chúng đánh mất mùi xạ đặc trưng của chúng "mùi cáo", trở nên thân thiện với con người hơn, tai rủ xuống (giống như chó) hơn, vẫy đuôi khi chúng vui thích và bắt đầu sủa giống như chó nhà. Dự án nhân giống được nhà khoa học Liên Xô Dmitri Belyaev (1917-1985) khởi đầu.
Thông tin mô tả
Cáo là tên gọi để chỉ một nhóm động vật, gồm có khoảng 27 loài (trong đó 12 loài thuộc về chi Vulpes hay ''cáo thật sự'') với kích thước từ nhỏ đến trung bình, thuộc họ Chó (Canidae), với đặc trưng là có mõm dài, hẹp, đuôi rậm, mắt xếch và tai nhọn. Loài cáo phổ biến và phân bố rộng rãi nhất trong số các loài cáo là cáo đỏ (Vulpes vulpes), mặc dù các loài khác nhau cũng được tìm thấy trên gần như mọi châu lục.
Sự hiện diện của các động vật ăn thịt dạng cáo trên toàn cầu đã làm cho hình tượng của chúng xuất hiện trong nhiều câu chuyện của văn hóa dân gian của nhiều dân tộc, bộ lạc hay các nhóm văn hóa khác.
Cáo nói chung cực kỳ thận trọng trước sự hiện diện của con người và không được thuần hóa, nuôi dưỡng như những con vật nuôi (trừ cáo Fennec); tuy nhiên, cáo bạc thuần hóa đã được thuần hóa thành công tại Nga sau 45 năm thực hiện chương trình nhân giống chọn lọc. Việc nhân giống chọn lọc này cũng tạo ra các đặc điểm tự nhiên và hành vi dường như là thường xuyên thấy có ở chó, mèo và các động vật đã thuần hóa khác: thay đổi màu lông, tai mềm và đuôi cong.
Những loài cáo đẹp nhất thế giới
Dưới đây là 7 loài cáo đẹp nhất thế giới được trang BoredPanda tổng hợp và giới thiệu.
Cáo Fennec: Cáo Fennec có nguồn gốc từ Bắc Phi và sa mạc Sahara, là loài cáo nhỏ nhất thế giới, chúng chỉ nặng từ 0,68 đến 1,59kg với chiều dài cơ thể từ 24 đến 41cm, cao khoảng 20,3cm, đuôi dài 18-30cm trong khi tai dài khoảng 10-15cm. Tuy vậy, chúng cực kỳ nhanh nhẹn, có khả năng bật cao đáng kinh ngạc. Kẻ thù của chúng chỉ có đại bàng, cú và con người. Cáo Fennec được phân biệt nhờ đôi tai lớn đặc trưng có vai trò giải tỏa nhiệt độ cơ thể. Tai chúng rất thính, có thể nghe thấy tiếng con mồi di chuyển dưới cát. Bộ lông màu kem giúp chúng giảm nhiệt vào ban ngày và giữ ấm vào ban đêm.
Cáo đỏ: Cáo đỏ là loài cáo lớn nhất, phân bố rộng rãi nhất và đa dạng nhất trong tất cả loài cáo. Chúng có thể được tìm thấy khắp Bắc bán cầu và cả tại Úc. Cáo đỏ thường có bộ lông màu nâu vàng điển hình, đuôi có vệt lông trắng. Thông thường, cáo sống đơn lẻ và săn bắt các con mồi sống (đặc biệt là động vật gặm nhấm nhỏ). Chúng là những thợ săn rất nhanh nhẹn và có thể nhảy qua rào cao 2m.
Cáo cẩm thạch: Cáo cẩm thạch cũng là một thành viên của loài cáo đỏ, tuy nhiên màu lông của nó không phải là màu tự nhiên: chúng được con người nuôi để lấy lông. Chúng có mùi hương đặc biệt và để đánh dấu lãnh thổ, chúng thường đi tiểu hoặc đi ngoài tại những nơi dễ thấy.
Cáo xám: Cáo xám phân bố khắp Bắc Mỹ, được phân biệt bởi lớp lông trên màu "muối tiêu" và vệt màu đen trên đuôi. Nó là động vật duy nhất trong họ chó có thể trèo cây.
Cáo bạc: Cáo bạc thực tế cùng loài với cáo đỏ, chỉ khác ở màu lông. Cũng vì bộ lông này mà đã có lúc chúng trở thành loài cáo có giá trị nhất. Hiện tại con người vẫn nuôi và lai tạo chúng để lấy lông.
Cáo Bắc cực: Cáo Bắc cực được tìm thấy khắp Vòng Bắc cực (một trong 5 vĩ tuyến chủ yếu được thể hiện trên bản đồ Trái đất). Ngoài ra, nó cũng được gọi bằng những tên khác như cáo trắng, cáo tuyết. Chúng có chân và mõm tương đối ngắn cùng bộ lông dày để giữ ấm trong cái lạnh đến -70 độ C. Đồng thời loài này sở hữu hệ thống trao đổi nhiệt đặc biệt, giúp nó không hề cảm thấy run rẩy vì lạnh. Cáo Bắc cực là loài ăn tạp, ăn hầu như bất cứ thứ gì chúng có thể tìm thấy - từ động vật gặm nhấm, chim hoặc cá, rong biển và xác bỏ thừa của những kẻ săn mồi lớn hơn. Trong trường hợp khan hiếm thức ăn, nó còn ăn phân của chính mình.
Cáo chữ thập: Cáo chữ thập là một "phiên bản màu" khác của loài cáo đỏ, sống nhiều nhất ở Bắc Mỹ. Loài này được phân biệt nhờ một sọc đen chạy dọc phần lưng và cắt ngang một đường sọc khác tạo thành một dấu thập trên vai. Chúng hiếm hơn cáo đỏ nhưng phổ biến hơn cáo bạc.
Cáo Fennec là loài cáo nhỏ nhất thế giới
Cáo Fennec là loài cáo nhỏ nhất thế giới, chúng chỉ nặng từ 0,68 đến 1,59kg với chiều dài cơ thể từ 24 đến 41cm, cao khoảng 20,3cm, đuôi dài 18-30cm trong khi tai dài khoảng 10-15cm. Tuy vậy, chúng cực kỳ nhanh nhẹn, có khả năng bật cao đáng kinh ngạc. Kẻ thù của chúng chỉ có đại bàng, cú và con người.
Đôi tài dài là một đặc điểm cũng là một lợi thế của cáo Fennec, có thể giúp nó xác định vị trí chính xác của côn trùng, động vật gặm nhấm, bò sát ẩn nấp sâu dưới lớp cát sa mạc. Bên cạnh đó, đôi tài lớn cũng giúp cáo Fennec giảm bớt được cái nóng của sa mạc. Đây là một trong nhiều sự thích nghi của loài cáo bé nhỏ này với môi trường sống khắc nghiệt của nó.
Cáo Fennec có lớp lông chân rất dày. Sa mạc là một môi trường sống rất khắc nghiệt, rất khó khăn để sinh tồn vì sự thay đổi nhiệt độ liên tục. Cáo Fennec không chỉ có bộ lông dày dặn để giữ ấm vào ban đêm mà nó còn mọc lông dày ở cả bàn chân, giúp nó di chuyển dễ dàng hơn trên cát nóng.
Cáo Fennec rất chung thủy, chúng sống theo chế độ một vợ một chồng. Mỗi năm đẻ khoảng 2 đến 5 cáo con. Những con cáo con có thể ở với bố mẹ ngay cả khi những đứa em được sinh ra. Khi cáo Fennec mang thai và nuôi con, bạn đời của nó sẽ kiếm ăn, chiều chuộng và bảo vệ nó.
Cáo Fennec có tính xã hội cao, sống trong những nhóm có khoảng 10 thành viên. Nhóm nhiều hay ít thành viên được xác định bởi số lượng tài nguyên thực phẩm có sẵn trong vùng lãnh thổ chúng sinh sống. Chúng không có nhu cầu uống nước. Những con cáo Fennec đáng yêu có thể sống mà không cần uống nước, thay vào đó, chúng lấy nước từ lá, củ, quả và cả những con mồi của mình.
Cáo Fennec yêu cuộc sống về đêm. Giống như rất nhiều loài động vật sa mạc khác, cáo Fennec thích hoạt động ban đêm, tránh cái nóng khủng khiếp của sa mạc ban ngày. Ban ngày, cáo Fennec dành nhiều thời gian để ngủ, lưu trữ tối đa năng lượng cho buổi đêm săn bắt và chơi đùa.
Tình trạng bảo tồn
Cáo dễ dàng được tìm thấy trong các đô thị và các khu vực có cày cấy gieo trồng (phụ thuộc vào loài) và dường như thích nghi khá tốt với sự hiện diện của con người.
Cáo đỏ được du nhập vào Úc, nơi thiếu vắng những kẻ ăn thịt tương tự và cáo du nhập này đã săn các con mồi là động vật hoang dã bản địa, với một số loài bị dẫn tới điểm tuyệt chủng. Sự du nhập tương tự đã diễn ra trong thế kỷ 17 tới 18 tại vùng ôn đới Bắc Mỹ, trong đó cáo đỏ châu Âu (Vulpes vulpes) được người ta đưa tới thả tại các thuộc địa để phát triển thú vui săn cáo, nơi họ đã tàn sát quần thể cáo đỏ Mỹ thông qua việc săn bắn tích cực hơn cũng như thông qua sinh sản mạnh hơn của quần thể cáo đỏ châu Âu. Lai giống với cáo đỏ Mỹ, các đặc điểm của cáo đỏ châu Âu cuối cùng đã lan tỏa khắp bộ gen, làm cho cáo đỏ châu Âu và Mỹ hiện nay là gần như đồng nhất.
Một số loài cáo khác không sinh sản mạnh như cáo đỏ, và là loài nguy cấp trong môi trường bản địa của chúng. Đáng chú ý trong số này là cáo ăn cua (Cerdocyon thous) và cáo tai dơi châu Phi (Otocyon megalotis). Các loài cáo khác, như cáo Fennec (Vulpes zerda), là không nguy cấp.
Cáo từng được dùng thành công trong việc kiểm soát dịch hại tại các trang trại trồng hoa quả, trong đó chúng để lại quả còn nguyên vẹn.
Các sử gia tin rằng cáo từng được đưa tới các môi trường không bản địa từ rất lâu trước kỷ nguyên xâm chiếm thuộc địa. Ví dụ đầu tiên về việc du nhập cáo như vậy bởi con người vào môi trường sống mới cho chúng dường như là tại Cộng hòa Síp thời kỳ đồ đá mới. Các hình khắc trên đá thể hiện những con cáo được tìm thấy trong các khu định cư sớm tại Göbekli Tepe ở miền đông Thổ Nhĩ Kỳ.
Thức ăn của loài cáo
Trái với suy nghĩ của nhiều người, cáo không phải là loài ăn thịt mà thực chất là loài ăn tạp. Trong môi trường hoang dã, cáo sẽ ăn nhiều loại thức ăn khác nhau, mặc dù chế độ ăn của chúng chủ yếu là thịt. Nói chung, chúng sẽ săn động vật khi có sẵn nhưng sẽ tìm thực vật khi chúng không thể bắt thịt. Đặc biệt, chúng thích thức ăn giàu chất đạm, béo như cá, trứng và chim. Điều đó nói lên rằng, chúng cũng thích các món ngọt và mặn, như trái cây, sữa và các loại hạt.
Nhìn chung, bạn có thể tổng hợp các loại thức ăn mà cáo thích ăn thành 15 loại. Các loại thức ăn mà cáo thích ăn nhất bao gồm:
- Loài gặm nhấm
- Thỏ
- Chim
- Ếch
- Giun
- Côn trùng
- Gấu mèo
- Bò sát
- Cua
- Nhuyễn thể
- Hoa quả
- Hạt giống
- Nấm
- Rau
- Trứng
Khi thức ăn ưa thích không có sẵn, cáo cũng sẽ ăn xác chết. Nếu một con cáo sống gần con người, nó cũng có thể ăn rác hoặc thức ăn thừa. Cáo chuyên săn trứng chim các loại, chỉ trừ trứng của những loài chim lớn nhất lãnh nguyên. Khi thức ăn dư thừa, cáo sẽ chôn vùi phần dư để dự trữ.
Trong môi trường hoang dã, chế độ ăn của cáo sẽ thay đổi tùy theo mùa và môi trường sống tự nhiên của chúng. Ví dụ, ở những vùng khí hậu phía bắc hơn, cáo sẽ ăn các động vật có vú thích nghi với lạnh như lemmings và thỏ rừng snowshoe. Trong khi đó, những con cáo sống xa hơn về phía nam sẽ ăn thịt những động vật thích nghi với môi trường ấm áp hơn. Trong suốt mùa đông, cáo chủ yếu ăn các loài động vật có vú nhỏ, trong khi vào mùa hè, chúng sẽ ăn nhiều trái cây, thực vật và côn trùng hơn. Sự khác biệt cũng tồn tại giữa các loài, mặc dù điều này có thể liên quan nhiều đến sự phân bố hơn là sinh học.
Cáo đỏ là loài cáo thực thụ lớn nhất và là loài cáo phân bố rộng rãi nhất. Chúng ăn nhiều loài động vật có vú nhỏ bao gồm chuột đồng, sóc đất, chuột nhảy, chó rừng, chuột túi và chuột cống. Chúng cũng sẽ ăn các loài chim biết hót và chim nước, cũng như trứng. Cáo đỏ cũng có thể nhắm đến những con mồi lớn hơn như gấu mèo, ôpôt, nhím, cũng như côn trùng, bò sát, và cá.
Phân loại của loài cáo
Cáo gồm có khoảng 27 loài (trong đó 12 loài thuộc về chi Vulpes hay ''cáo thật sự'') với kích thước từ nhỏ đến trung bình, thuộc họ Chó (Canidae).
Các loài trong họ Canidae được coi là cáo bao gồm các thành viên của các chi sau:
- Alopex: Cáo Bắc cực, mặc dù phân loại động vật có vú cuối cùng cũng như chứng cứ di truyền đặt nó trong chi Vulpes, chứ không phải chi riêng rẽ của chính nó là Alopex.
- Cerdocyon: Cáo ăn cua
- Chrysocyon: Sói bờm (Maned wolf trong tiếng Anh, aguara guazú ("cáo lớn") trong tiếng Guarani và zorro rojizo ("cáo hung"), một trong vài tên gọi được những người nói tiếng Tây Ban Nha sử dụng.
- Dusicyon: Cáo quần đảo Falkland
- Lycalopex: 6 loài cáo tại Nam Mỹ
- Otocyon: Cáo tai dơi
- Urocyon: Cáo xám, Cáo quần đảo Channel và cáo Cozumel
- Vulpes: Bao gồm 12 loài cáo thật sự, bao gồm cáo đỏ, V. vulpes, cáo Tây Tạng, V. ferrilata và các họ hàng gần nhất của chúng.