Cáo tuyết là một loài vật cực kì đáng kinh ngạc khi có thể sinh tồn trong môi trường nhiệt độ khắc nghiệt -50 độ C và xung quanh không một bóng cây nào. Chúng sở hữu lòng bàn chân có lông, đôi tai và chiếc mõm ngắn, giúp thích nghi tốt nhất với cái lạnh kinh người ở Bắc cực. Còn nhiều đặc điểm thú vị về loài động vật đáng yêu này nữa, hãy cùng Toplist tìm hiểu ngay trong bài viết dưới đây nhé!
Thông tin mô tả
Cáo tuyết Bắc Cực là loài thuộc họ Chó, bộ Ăn thịt với đặc điểm bên ngoài dễ nhận ra như kích thước nhỏ, phần tai nhọn, lông rậm, mắt xếch, phần mõm hẹp và dài. Đặc biệt có khả năng chịu lạnh cực tốt, mặc dù thời tiết tại Bắc Cực có khi xuống tới -70 ° C nhưng chúng vẫn hoạt động mà không ngủ đông như những loài động vật khác. Tuy nhiên để thích nghi với môi trường khắc nghiệt, chúng thường đào những hang trong những lớp tuyết dày để ở và trú ẩn nếu như có bão tuyết.
Thông tin mô tả:
- Tên thường gọi: Cáo tuyết Bắc Cực
- Tên khoa học: Vulpes lagopus
- Lớp: Động vật có vú
- Chế độ ăn: Động vật ăn thịt
- Cách sống: Theo đàn
- Tuổi thọ: từ 3 – 6 năm
- Kích thước trung bình: từ đầu tới thân khoảng hơn 50 cm, đuôi dài 30 cm, cao từ 24-30 cm
- Trọng lượng trung bình: khoảng 3-7 kg
- Tình trạng trong Sách Đỏ: Loài ít quan tâm (ký hiệu: LC)
Phân bố và môi trường sống
Cáo tuyết phân bố gần miền cực và sinh sống trong môi trường lãnh nguyên Bắc cực ở Bắc Âu, Bắc Á và Bắc Mỹ. Phạm vi gồm có Greenland, Iceland, Fennoscandia, Svalbard, Jan Mayen vài đảo khác ở biển Barents, bắc Nga, nhiều đảo ở biển Bering, Alaska và Canada xa về phía nam vịnh Hudson. Trong những năm cuối thế kỷ XIX, được du nhập vào quần đảo Aleut phía tây nam của Alaska.
Cáo chủ yếu sống ở vùng lãnh nguyên và tảng băng trôi nhưng cũng có mặt trong rừng taiga ở Canada và bán đảo Kenai ở Alaska. Chúng được tìm thấy ở độ cao lên đến 3.000 m (9.800 ft) trên mực nước biển và đã được nhìn thấy trên băng biển gần với Bắc Cực.
Cáo Bắc Cực là động vật có vú duy nhất có nguồn gốc từ Iceland. Loài đã đến cô lập tại đảo ở bắc Đại Tây Dương kết thúc thời kỳ băng hà cuối cùng, băng qua biển đông lạnh. Trung tâm cáo Bắc Cực tại Súðavík chứa một triển lãm về cáo tuyết và tiến hành nghiên cứu về ảnh hưởng của du lịch với số lượng. Phạm vi loài suốt thời cuối kỷ băng hà rộng lớn hơn hiện tại, và hóa thạch còn lại của cáo tuyết được tìm thấy nhiều ở miền bắc Âu và Siberia.
Cách thức săn mồi
Cáo tuyết có chiêu thức săn mồi hết sức độc đáo, khi đã xác định được vị trí con mồi, cáo tuyết bật nhảy lên cao trong không trung rồi cắm đầu lao vào lớp băng tuyết. Chiêu thức hiệu quả giúp nó truy bắt được con mồi đang ẩn náu dưới dưới lớp tuyết dày đặc.
Khứu giác và thính giác nhạy bén, hoàn hảo là yếu tố không nhỏ giúp cáo tuyết trong công cuộc săn mồi, nó có thể nghe thấy tiếng chuột đào hang dưới lớp tuyết dày 12cm hoặc ngửi thấy mùi thức ăn do gấu Bắc Cực bỏ lại ở khoảng cách tới 40km.
Trong mùa đông khắc nghiệt, cáo tuyết có thể di chuyển cả 100 km để tìm thức ăn. Chúng là loài ăn tạp, ăn hầu như tất cả những gì chúng có thể tìm thấy, từ chuột, hải cẩu, cá, chim biển cho tới quả mọng, rong biển, côn trùng và thức ăn thừa còn sót lại của loài khác.
Kích thước
Chiều dài trung bình từ phần đầu đến hết thân của cáo đực 55 cm, với khoảng từ 46 đến 68 cm, trong khi cáo cái trung bình 52 cm với khoảng từ 41 đến 55 cm. Ở một số vùng, không có khác biệt về kích thước giữa đực và cái. Đuôi dài khoảng 30 cm ở cả đực và cái. Chiều cao bờ vai khoảng 25 đến 30 cm. Cân nặng trung bình của cáo đực khoảng 3,5 kg, trong phạm vi 3,2 đến 9,4 kg, trong khi cáo cái trung bình 2,9 kg, trong phạm vi 1,4 đến 3,2 kg.
Với kích thước cơ thể nhỏ, cáo tuyết đực nặng vào khoảng 3,5kg và con cái 2,9kg, loài này thường bị các loài săn mồi khác tấn công, tuy nhiên, mối đe dọa lớn nhất của chúng lại đến từ con người. Chúng thường bị săn bắn để lấy lông, làm thành những chiếc áo khoác xa xỉ. Do có khả năng sinh sản tương đối cao, loài cáo tuyết nói chung không có nguy cơ bị đe dọa tuyệt chủng. Trong điều kiện hoang dã, chúng có tuổi thọ trung bình từ 3-6 năm.
Khẩu phần ăn
Cáo Bắc Cực nhìn chung sẽ ăn thịt bất kỳ động vật nhỏ mà chúng tìm thấy, bao gồm chuột Lemming, chuột đồng, gặm nhấm khác, thỏ đồng, chim, trứng và cả xác thối. Chúng tìm ăn xác mồi chết dư thừa từ kẻ săn mồi lớn hơn như sói hay gấu trắng Bắc Cực và khi thức ăn khan hiếm, cáo thậm chí còn ăn phân của mình. Ở khu vực cáo sinh sống, chuột Lemming là con mồi phổ biến nhất và một gia đình nhà cáo có thể ăn hàng tá chuột Lemming mỗi ngày.
Tại vài điểm thuộc Bắc Canada, một lượng lớn chim di cư kéo đến theo mùa cũng là nguồn cung thức ăn dồi dào. Trên bờ biển Iceland hay những đảo khác, thức ăn chủ yếu cũng là chim. Suốt tháng 4 và tháng 5, cáo Bắc Cực còn săn hải cẩu đeo vòng non khi mà cáo con còn trong hang tuyết và chưa thể tự săn mồi. Cá bơi dưới băng cũng là một phần của chế độ ăn, cáo còn ăn quả mọng và rong biển, do đó chúng được xem là loài động vật ăn tạp.
Chúng chuyên săn trứng chim các loại, chỉ trừ trứng của những loài chim lớn nhất lãnh nguyên. Khi thức ăn dư thừa, cáo sẽ chôn vùi phần dư để dự trữ.
Một số thông tin thú vị về Cáo tuyết Bắc Cực có thể bạn chưa biết
Một số thông tin thú vị về Cáo tuyết Bắc Cực có thể bạn chưa biết:
- Cáo tuyết có biệt tài ăn cắp trứng ngỗng từ tổ
- Ở độ cao trên 3,000 m trên mực nước biển, Cáo Tuyết vẫn hoạt động bình thường
- Số lượng Cáo Tuyết tới nay khoàng vài ngàn nhưng một số vùng đã tuyên bố Cáo tuyết đã tuyệt chủng ở khu vực họ sống.
- Hang động của Cáo tuyết đào là hệ thống kiến trúc xây dựng phức tạp có thể dài khoảng 1000 mét vuông. Những cái hang này có thể truyền qua nhiều đời cáo khác nhau.
- Cáo tuyết có chiêu thức độc đáo giúp nó săn mồi ẩn dưới lớp tuyết dày
Sinh sản
Cáo Bắc Cực hình thành những đôi đơn giao phối trong mùa sinh sản và chúng sẽ ở cùng nhau để nuôi dưỡng con non trong các hang dưới lòng đất. Cáo Bắc Cực xây dựng và chọn lối vào hướng về phía nam về phía mặt trời, làm cho hang trở nên ấm hơn. Cáo Bắc Cực thích những khu ổ chuột lớn, giống như mê cung để trốn tránh kẻ săn mồi và trốn thoát nhanh chóng, đặc biệt là khi những con cáo đỏ đang ở trong khu vực.
Mùa giao phối thường diễn ra từ tháng 4 đến tháng 5 và thai kỳ kéo dài khoảng 52 ngày. Trung bình là một lứa, cáo cái đẻ từ 5 đến 8 cáo con nhưng đặc biệt có thể nhiều đến tận 25 con non. Cáo non sẽ được cả cha lẫn mẹ chăm sóc. Đôi khi, những thành viên khác trong gia đình sẽ giúp chúng thực hiện công việc này.
Các con non sẽ sớm rời hang khi chúng được 3 hoặc 4 tuần tuổi và cai sữa khi được 9 tuần tuổi.
Tình trạng bảo tồn
Tình trạng bảo tồn loài cáo này nói chung tốt và ước tính có khoảng vài ngàn cá thể trong tổng số. IUCN đánh giá là "loài ít quan tâm". Tuy nhiên quần thể tại lục địa Scandinavian có nguy cơ tuyệt chủng, mặc dù được bảo vệ hợp pháp khỏi săn bắn và bức hại trong nhiều thập kỷ. Ước tính số cáo trưởng thành trong tất cả các nước Na Uy, Thụy Điển và Phần Lan ít hơn 200 cá thể.
Sự phong phú của cáo tuyết có xu hướng dao động trong một chu kỳ cùng với số chuột lemming và chuột đồng (một chu kỳ từ 3 đến 4 năm). thể đặc biệt dễ bị đe dọa nhiều năm khi số con mồi giảm sút, và nạn săn thú không kiểm soát được gần như loại trừ hai phân loài.
Da cáo có màu xanh xám đen - một biểu hiện của gen lặn - đặc biệt có giá trị. Chúng được vận chuyển đến nhiều nơi khác nhau trước cả cáo hoang quần đảo Aleut trong những năm 1920. Chương trình đã thành công khi gia tăng số lượng cáo lông xanh, nhưng con mồi là ngỗng Canada Aleutian mâu thuẫn với mục tiêu bảo tồn loài cáo.
Cáo tuyết biến mất tại vùng đất có loài cáo đỏ lớn hơn. Điều này đã được quy cho biến đổi khí hậu - giá trị ngụy trang của bộ lông sáng giảm đáng kể khi tuyết ít phủ. Cáo đỏ chiếm ưu thế khi phạm vi sống bắt đầu chồng chéo bằng cách giết cáo tuyết và con non. Một lời giải thích khác cho việc gia tăng cáo đỏ có liên quan đến sói xám: Trong quá khứ, sói kiềm chế số lượng cáo đỏ xuống, nhưng sói xám bị săn bắt đến gần tuyệt chủng trong nhiều phạm vi trước đây, số lượng cáo đỏ phát triển lớn hơn, và chúng đã trở thành động vật ăn thịt đầu bảng của hệ sinh thái. Ở khu vực bắc Âu, có những chương trình cho phép săn bắn cáo đỏ trong phạm vi sống của cáo tuyết trước đây.
Số lượng thế giới không bị đe dọa, nhưng hai nhóm quần thể cáo tuyết đang có. Một là tại đảo Medny (quần đảo Commander, Nga), giảm khoảng 85-90%, khoảng 90 loài động vật, là kết quả của bệnh ghẻ lở gây ra bởi ve ký sinh tai từ chó du nhập trong những năm 1970. Số lượng hiện đang được điều trị bằng thuốc chống ký sinh trùng, nhưng kết quả vẫn chưa chắc chắn.
Quần thể khác bị đe dọa là một trong Fennoscandia (Na Uy, Thụy Điển, Phần Lan và bán đảo Kola). Số này giảm mạnh bắt đầu thế kỷ 20 do kết quả của giá cả lông cáo cực cao, gây ra săn bắn tràn lan làm quần thể giảm sút.Cáo tuyết được phân là một "sinh vật ngoại lai bị cấm" dưới luật cấm chất độc hại và sinh vật ngoại lai năm 1996 của New Zealand nhằm ngăn chặn loài cáo này nhập khẩu vào đất nước.
Tập tính
Cáo tuyết là loài cáo nhỏ sống ở môi trường lãnh nguyên Bắc Cực ở Bắc Âu, Bắc Á, và Bắc Mỹ. Đó là những khu vực cực kì lạnh giá và khắc nghiệt, tuy nhiên, cáo tuyết lại thích nghi rất tốt trong môi trường này. Bộ lông dày và hệ thống trao đổi nhiệt đặc biệt giúp loài này giữ ấm ngay cả khi nhiệt độ giảm xuống tới âm 70 độ C.
Cáo Bắc Cực không ngủ đông và hoạt động quanh năm. Chúng tích trữ chất béo trong mùa thu và đôi khi tăng trọng lượng cơ thể lên đến hơn 50 %. Điều này giúp cách nhiệt cho cơ thể trong suốt mùa đông cũng như một nguồn cung năng lượng dồi dào khi thức ăn khan hiếm.
Chúng sống trong các hang lớn không rã đông, bề mặt hơi nâng lên. Đó là một hệ thống đường hầm phức tạp rộng khoảng 1.000 m2 (1.200 thước Anh vuông) và thường nằm ở những ngọn đồi ngoằn nghoèo, rặng núi dài tạo nên bởi vật liệu trầm tích lắng đọng trong vùng trước đây phủ băng. Hang có rất nhiều ngõ ngách và có thể đã tồn tại suốt nhiều thập kỷ cũng như được sử dụng qua nhiều thế hệ nhà cáo.
Khả năng thích nghi
Cáo Bắc Cực sống tại những nơi cực kỳ lạnh giá trên hành tinh nhưng vẫn không bị run cho đến khi nhiệt độ xuống tận −70 °C (−94 °F). Giúp chúng thích nghi để sống sót trong cái lạnh là bộ lông dày, nhiều lớp và có tính cách nhiệt cao,[8][9] một hệ thống trao đổi nhiệt ngược chiều ở máu tuần hoàn tại bàn chân giúp duy trì nhiệt độ lõi cơ thể, và là một nguồn cung chất béo dồi dào.
Loài cáo này có tỉ lệ diện tích bề mặt so thể tích thấp nhờ có thân hình săn chắc, mõm và chân ngắn, cùng đôi tai ngắn, dày. Càng ít diện tích bề mặt tiếp xúc với cái lạnh Bắc cực đồng nghĩa với việc càng ít nhiệt truyền từ cơ thể ra ngoài không khí.
Lông mọc trên lòng bàn chân giúp cách nhiệt cũng như bước đi trên băng tuyết. Cáo Bắc Cực có thính giác cực nhạy định vị chính xác nơi những con vật nhỏ đang chuyển động dưới tuyết. Khi nắm bắt được vị trí con mồi, sẽ lao tới và vồ lấy nạn nhân xuyên qua lớp tuyết. Lông đổi màu theo mùa: đa số sẽ có màu trắng vào mùa đông để ẩn mình dưới tuyết trong khi vào mùa hạ sẽ có màu xám - nâu hoặc nâu sẫm.
Tuy nhiên, trong vài quần thể, vài cá thể đôi khi sẽ có lông xám pha chút xanh nhạt vào mùa đông và trở nên nhạt hơn trong mùa hè.