Nếu như ai đã từng biết đến tác phẩm Thủy Hử của nhà văn Thi Nại Am thì hẳn không khỏi ấn tượng với một vị thủ lĩnh của Lương Sơn Bạc với tài bắn cung thiện xạ, bách phát bách trúng, đó là Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh. Tuy nhiên ít ai biết rằng, trong lịch sử Việt Nam ta cũng không thiếu những danh tướng có tài thiện xạ được liệt vào hàng "thần tiễn". Hãy cùng Toplist điểm lại những đệ nhất cung thủ trong lịch sử Việt Nam.
Đặng Xuân Phong
Một hôm Bùi Thị Xuân đang đứng ở vườn trầu Kiên Mỹ, chợt thấy một tráng sĩ trẻ tuổi tay cầm côn đồng, vai mang cung sắt, mình cưỡi ngựa ô, từ thôn Thuận Nghĩa chạy lên Phú Lạc. Thái độ hiên ngang, tướng mạo trung hậu. Nữ tướng thầm khen, theo dõi dò xét. Đến chân hòn Trưng Sơn, tráng sĩ giục ngựa lên núi.Đường núi gập ghềnh mà ngựa chạy như trên đất bằng. Ngựa chạy quanh quất một hồi lâu rồi dừng nơi một khoảnh đất trống bằng phẳng nằm lưng chừng núi. Chợt một bầy quạ bay ngang qua. Tiếng kêu rộn ràng. Tráng sĩ liền trương cung bắn 2 phát, 2 con quạ trúng tên rơi xuống, rồi lại nhanh tay ra liên tiếp 5 phát nữa 5 con quạ như 5 quả chín rụng xuống. Biết là người có tài, Bùi Thị Xuân sau khi thăm dò gốc tích, đã cùng với Vũ Đình Tú đến tận làng Dũng Hòa kết bạn và mời tham gia đại sự, xây dựng nhà Tây Sơn.
Sau này Đặng Xuân Phong cũng trở thành một mãnh tướng dưới trướng của cả Nguyễn Huệ và Nguyễn Nhạc. Sau khi Tây Sơn suy yếu và sụp đổ, có 2 giả thuyết nói về ông. Một cho rằng khi các tướng và đại thần đấu đá tranh giành quyền lực thì Xuân Phong từ quan bỏ đi nơi khác. Một thuyết nữa cho rằng khi giao chiến với quân của Nguyễn Ánh thì ông đã bị trúng đạn tử trận. Cho đến nay vẫn chưa ai chắc chắn được về kết cục của vị tướng được phong là thần tiễn số một của Việt Nam này.

Trần Quốc Nghiễn (?)
Trận Vạn Kiếp 1285, sau khi bị quân chủ lực nhà Trần đánh bại, tùy tướng Lý Quán thu nhặt 5 vạn tàn binh, giấu Thoát Hoan vào ống đồng rồi chạy trốn về phương Bắc. Đến Tư Minh cánh binh mã của Hưng Vũ Vương Trần Quốc Nghiễn đuổi kịp. Quốc Nghiễn đã bắn một mũi tên độc chí mạng khiến Lý Quán trúng tên ngã ngựa và chết.

La Xuân Kiều (?)
Họ La có một cây cung đặc biệt, được gọi là Vĩ Mao Cung, là một trong Tứ Đại Thần Cung thời kỳ này. Sở dĩ có cái tên Vĩ Mao Cung là do dây cung được bện từ đuôi ngựa và thân cung được làm từ một loại gỗ quý. Bên cạnh đó, sử sách còn ghi lại mỗi khi Vĩ Mao bắn, một âm thanh trong trẻo du dương phát ra và khi âm dứt thì tên vừa trúng hồng tâm. Vĩ Mao Cung là một vật bất ly thân của La Xuân Kiều. Cũng nhờ Vĩ Mao mà La Xuân Kiều được nổi danh trong số các xạ thủ đương thời và ngược lại, nhờ tài năng của La Xuân Kiều mà Vĩ Mao đã có thể vươn lên hàng Thần Khí cùng thời.

Phạm Ngũ Lão (1255 – 1320)
Phạm Ngũ Lão là một trong những nhân vật văn võ toàn tài nhất trong lịch sử Việt Nam. Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông, ông nổi bật lên là một viên mãnh tướng bách chiến bách thắng với mưu lược và võ nghệ hơn người. Để sánh võ nghệ với Phạm Ngũ Lão thời kỳ này chỉ có một mình Nguyễn Khoái là kỳ phùng địch thủ, chỉ có duy nhất 2 viên mãnh tướng này của quân đội nhà Trần là có thể đơn đả độc đấu với hổ tướng Toa Đô của nhà Nguyên, một viên tướng nổi tiếng kiêu dũng thiện chiến với sức mạnh vô địch đã từng tung hoành hàng trăm trận.
Không chỉ sở hữu võ nghệ tuyệt luân, ông còn nổi tiếng là một tay cung thủ trác tuyệt. Còn nhớ trước khi về dưới trướng của Hưng Đạo Vương, ông đã từng lên kinh ứng thí võ trạng nguyên. Ngũ Lão đã từng bắn đứt giải cờ của vua với khoảng cách 100 bước (khoảng 166m), do điều này mà ông bị đuổi về quê đan sọt.

Lý Phục Man (? - 547)
Năm 545, nhà Lương cử mãnh tướng Trần Bá Tiên sang đánh nước ta. Lý Bý thua to ở Chu Diên, lão tướng Phạm Tu tử trận. Phục Man nghe tin, củng cố doanh đồn, phòng thủ những nơi trọng yếu rồi định tiến quân ra Bắc. Tuy nhiên đang đêm khuya thì bị quân Chiêm Thành đánh úp. Trước tình hình ấy ông cùng binh tướng đột phá vòng vây, mở đường máu rút lui. Do quân chủ lực đã tiến lên phía Bắc hết nên lực lượng phòng thủ của Phục Man ở đây khá mỏng nên ông không thể địch lại quân Chiêm Thành. Vừa hết lương thực lại không có viện binh, bất đắc dĩ, Lý Phục Man đành phải tự sát để khỏi rơi vào tay giặc. Ông là một trung thần, danh tướng có nhiều công lao, nên sau này dân chúng nhiều nơi lập đền thờ.

Nguyễn Quang Huy (?)
Cây Thiết Thai Cung của Huy có cánh cung làm bằng thép, có nòng bằng sắt, nên trọng lượng rất nặng, sức bắn xa gấp ba, bốn lần cung thường. Nguyễn Quang Huy trấn thủ Bình Thuận thì gặp đại quân Nguyễn Phúc Ánh đánh chiếm nên phải lui về thủ Phú Yên. Năm Kỷ Mùi (1799) thành Quy Nhơn bị Nguyễn Phúc Ánh vây hãm, Nguyễn Quang Huy kéo quân ra cứu Quy Nhơn. Nguyễn Quang Huy đánh rất hăng. Một ngày đánh bại 25 viên tướng của Nguyễn Phúc Ánh, trong đó chém chết đại tướng Tống Phước Nghĩa và đánh lui viên đại tướng thân tín nhất của Nguyễn Phúc Ánh là Lê Văn Duyệt, khiến cho cánh binh mã của Nguyên Văn Thành và Nguyễn Huỳnh Đức phải kéo cả về trợ chiến. Phúc Ánh lấy làm lạ lên thành đứng xem. Quang Huy tả xung hữu đột giữa muôn quân như Triệu Tử Long ở trận Đương Dương Trường Bản, ngó thấy Nguyễn Phúc Ánh đứng trên thành, ông bèn dùng Thiết Thai cung bắn trúng cánh tay trái. Phúc Ánh té nhào bất tỉnh. Vì vết thương này mà Nguyễn Phúc Ánh phải rút về Gia Định để dưỡng thương.

Lê Khôi (? - 1446)
Có thể nói Lê Khôi thuộc hàng hổ tướng dũng mãnh nhất của Lê Lợi. Ông thuộc nhóm Lam Sơn Ngũ Hổ và đã từng bắt được cả Tổng Binh lẫn Binh Bộ Thượng Thư nhà Minh. Ông được mô tả lại như sau "Mình đeo bên trái một túi mũi tên, bên phải cũng một túi mũi tên, theo Vua ra trận. Trong trận Khả Lưu, ông cùng bọn Lê Sát xông lên trước, vây đánh và phá tan quân Minh, bắt sống được Đô Đốc giặc là Hoàng Thành, lại còn bắt được sĩ tốt của chúng nhiều không kể hết. Lê Khôi cũng được miêu tả lại là thường rất ưa sử dụng cung tên và thuộc hàng thiện xạ trứ danh.

Đinh Văn Tả (1602-1685)
Năm 1967, chúa Trịnh cho lập sinh từ của Đinh Văn Tả. Có thể thấy đây là một trường hợp hiếm trong trong suốt các triều đại phong kiến Việt Nam. Chúng ta biết vào thời Trần chỉ có Trần Hưng Đạo được lập đền thờ khi còn sống. Xét về địa vị và tiếng tăm thì Hưng Đạo Vương hơn hẳn Đinh Văn Tả, hơn nữa Trần Hưng Đạo còn là hoàng thân quốc thích. Điều này cho thấy được sự ân sủng đặc biệt của nhà Lê đối với vị danh tướng này.

Nguyễn Địa Lô (?)

Lý Văn Bưu (?)
Lý Văn Bưu cũng nổi danh với tài bắn cung thiện xạ. Ông sở hữu Kỳ Nam Cung, một trong Tứ Đại Thần Cung thời bấy giờ. Cây Kỳ Nam Cung này có một cấu trúc đặc biệt. Giữa nơi cánh cung, chỗ tay cầm có tháp gỗ quý Kỳ Nam. Kỳ Nam là một loài gỗ quý họ Trầm Hương, khi treo cung nơi phòng thì hương trầm thơm ngát khắp nhà. Lúc dùng nơi trận địa, hương trầm làm tăng nội lực nên Lý Văn Bưu bắn trăm phát trăm trúng. Càng bắn nội lực càng tăng, tên càng trúng đích.
Ngày ấy, khi đang nhà Tây Sơn đang trong giai đoạn xây dựng lực lượng, tại dãy núi Ninh Thuận có một con hổ to lớn như con trâu mộng, rất hung dữ và tinh khôn, nó thường xuyên xuống thôn bắt bò, lợn thậm chí là cả người để ăn thịt. Tương truyền da của nó dày đến mức giáo mác đâm ko làm chết được nó mà chỉ làm nó xây sát. Tất cả thợ săn, trai tráng trong vùng đều không ai diệt trừ nổi nó. Thế là Lý Văn Bưu xách Kỳ Nam Cung vào rừng và tiêu diệt con hổ dữ. Gặp được hổ, họ Lý giương Kỳ Nam Cung bắn một phát vào đầu cọp. Tên xuyên từ mắt phải ra đến sau ót. Cọp còn hăng sức xông đến. Lý Văn Bưu tiếp liền hai phát. Tuy da hổ cứng rắn song tên vẫn xuyên ngang cuống họng và yết hầu. Cọp giãy giụa một hồi lâu mới chết. Dân làng và các vùng lân cận đều khâm phục thần oai của ông và kéo theo gia nhập quân Tây Sơn rất đông đảo. Trong các trận Nam chiến, đánh nhau với quân Xiêm và Bắc chiến với quân Mãn Thanh, cây Kỳ Nam Cung cũng đã ra sức giúp Lý Văn Bưu lập được nhiều chiến công.

Nguyễn Hữu Cầu (1712–1751)
Hữu Cầu vì nhà nghèo nên đi làm cướp, sau theo Nguyễn Cừ khởi nghĩa, được Nguyễn Cừ yêu quý gả con gái là Nguyễn Thị Quỳnh cho. Chẳng bao lâu ông nổi tiếng là một viên tướng giỏi võ nghệ, dũng cảm gan dạ và nhiều mưu lược. Chẳng những vậy, ông còn nổi tiếng với tài bắn cung bách phát bách trúng. Sau khi Nguyễn Cừ mất, Hữu Cầu nắm toàn bộ binh quyền và hoạt động mạnh mẽ, đánh phá quân Trịnh ở nhiều nơi. Vì ngày thường cướp được thóc gạo của thuyền buôn, đem cho dân nghèo, cho nên Quận He đi đến đâu cũng có người theo, muốn lấy bao nhiêu quân lương cũng có. Nguyễn Hữu Cầu được các sử gia đánh giá là người kiệt hiệt, nhiều mưu mẹo nhất trong số các thủ lĩnh khởi nghĩa lúc đó. Tương truyền trong các trận đánh, Quận He thường mặc một chiếc áo hở một nửa bên ngực và tay trái, để lộ cơ thể rắn chắc cơ bắp cuồn cuộn, lưng đeo một cây trường cung. Quận He thường xông pha tuyến đầu, giết địch rất dũng mãnh làm gương cho sĩ tốt. Sau này Hữu Cầu thất bại trong tay một người bạn học ngày xưa là Phạm Đình Trọng. Nguyễn Hữu Cầu và Phạm Đình Trọng một đời đối địch. Những người tin vào tâm linh có thể coi hai người như có nợ từ kiếp trước, chẳng những đối địch từ khi đi học đến khi cầm quân, khi ra mặt trận không chỉ đối gươm mà đối cả chữ. Hai người chí hướng khác hẳn nhau, người ra làm quan, người đi làm giặc. Dẹp được Cầu, Trọng được phong làm Binh Bộ thượng thư. Nhưng cũng chỉ 3 năm sau (1754), Trọng chết lúc mới 40 tuổi. Có Cầu thì có Trọng đối địch, Cầu không còn thì Trọng cũng ra đi, như truyện dân gian "Trạng chết thì chúa băng hà".

