Top 16 Sự thật thú vị nhất về bọ cạp

Bọ cạp với hình thù nhỏ bé nhưng sở hữu nọc độc vô cùng mạnh khiến con mồi dễ dàng bị tê liệt và tử vong trong vài giây. Sinh vật đáng sợ này luôn kiến những loài vật to lớn hơn phải khiếp sợ trong đó có cả con người. Cùng Toplist tìm hiểu những sự thật thú vị về loài bò sát này nhé!

Kẻ thù của bọ cạp

Bọ cạp có thể là những kẻ săn mồi cơ hội, nhưng chúng cũng là con mồi của bất kỳ loài cơ hội và lớn hơn nào. Những chiếc kìm khổng lồ và nọc độc của bọ cạp thường không đủ để xua đuổi những động vật lớn hơn – và bọ cạp trong hầu hết các hệ sinh thái sẽ thấy mình là nạn nhân của nhiều loài chim, động vật có vú và đồng loại chân đốt.


Trong một số trường hợp, những kẻ săn mồi thậm chí còn phát triển khả năng miễn dịch tiến hóa đối với nọc độc của bọ cạp. Dơi và cầy mangut có khả năng miễn dịch hoặc đề kháng cao với các chất độc mà bọ cạp tạo ra.


Chuột grasshopper miền nam (Onychomys torridus) là loài chuột ăn thịt sống ở sa mạc, thường được tìm thấy ở Mỹ, Mexico. Theo các nhà khoa học, loài chuột này đã tiến hóa khả năng cản trợ những tín hiệu làm tê liệt từ nọc độc bò cạp đến não, ngăn chặn những tác động của nọc độc, nhờ đó chúng không cảm thấy đau đớn khi tiếp xúc với nọc độc bò cạp.


Châu chấu phương nam đã phát triển một cách phòng thủ đặc biệt sáng tạo. Mặc dù nó không miễn dịch với nọc độc, nhưng con chuột châu chấu phương nam tạo ra một loại protein ngăn chặn thụ thể đau đến não của nó. Các loài săn mồi khác như meerkat và chuột chù đã phát triển các kỹ thuật săn mồi cụ thể cho phép chúng vô hiệu hóa bọ cạp mà không bị đốt. Một số loài chim lớn hơn như cú và chim mỏ sừng đơn giản là quá lớn và mạnh để bọ cạp thậm chí có thể gây ra mối đe dọa. Một số loài săn mồi bọ cạp thậm chí còn có nọc độc – với rết khổng lồ Amazon ở Nam Mỹ và rết tarantulas nổi bật là hai trong số những loài săn mồi có nọc độc nổi bật nhất.

Kẻ thù của bọ cạp
Kẻ thù của bọ cạp

Bọ cạp có thể phát sáng

Về mặt hóa học, không một ai có thể chắc chắn tuyệt đối điều gì khiến bọ cạp phát sáng, nhưng chúng ta đều hiểu đó là khả năng rất đặc biệt – khi một con bọ cạp bị ngâm trong rượu, rượu sẽ phát ra huỳnh quang. Không thể tin nổi, hóa thạch bọ cạp thậm chí đã được cảm ứng để phát sáng dưới tia cực tím sau hàng trăm triệu năm.


Theo khoa học nguyên nhân khiến một con bọ cạp trở nên rực sáng nằm ở lớp vỏ bên ngoài, hay còn gọi là lớp biểu bì của bộ xương ngoài – các nhà khoa học gọi nó là lớp vỏ trong suốt. Bởi vì bọ cạp thường xuyên lột xác để phát triển, các nhà nghiên cứu đã quan sát thấy, cho đến tận khi lớp vỏ mềm bên ngoài hoàn toàn cứng lại, lớp trong suốt của chúng không còn phát ra huỳnh quang dưới tia UV nữa.


Các nhà nghiên cứu đã đưa ra hàng loạt ý tưởng khác nhau: Ánh sáng xanh từ bọ cạp có thể giúp chúng tìm được nhau trong bóng tối, bảo vệ chúng khỏi ánh sáng mặt trời, hay thậm chí là đánh lừa con mồi của chúng. Nhưng một nghiên cứu vào năm 2011 đã đề xuất rằng bọ cạp sử dụng lớp vỏ ngoài của chúng là để phát hiện ra tia UV – lí do là bởi vì chúng muốn tránh khỏi nó (xét cho cùng thì chúng chính là những thợ săn bóng đêm, một con bọ cạp sẽ luôn tìm nơi tối nhất để ra ngoài vào ban ngày, thậm chí cho dù là dưới ánh trăng).

Một nghiên cứu xa hơn đã chỉ ra rằng bọ cạp sử dụng toàn bộ cơ thể của chúng như một con mắt khổng lồ để phát hiện tia UV – nếu chúng cảm nhận được cơ thể đang dần phát sáng lên thì đó chính là lúc chúng cần phải tìm một nơi khác tối tăm hơn.
Bọ cạp có thể phát sáng
Bọ cạp có thể phát sáng

Sơ lược cấu tạo cơ thể của bọ cạp

Bọ cạp thuộc loại động vật không xương sống, thân phân đốt, gồm tám chân thuộc lớp Arachnida (động vật hình nhện). Thân bọ cạp chia làm hai phần: phần đầu ngực (đốt thân trước) và phần bụng (vùng thân sau):

  • Phần bụng bao gồm phần bụng dưới và đuôi.
  • Phần đầu ngực/Đốt thân trước: bao gồm lớp giáp, mắt, chân kìm (một phần của miệng), chân kìm sờ và 8 chân.


Phần bụng dưới: chia làm 8 đoạn. Đoạn đầu tiên chứa cơ quan sinh dục và dấu vết của một bộ phận phụ nay đã bị tiêu giảm gọi là nắp sinh dục. Đoạn thứ hai là 1 cặp cơ quan cảm giác giống như chất Pectine. Bốn đoạn còn lại bao gồm hai lá phổi. Phần bụng dưới được bọc giáp bằng chất sừng.


Phần đuôi: gồm 6 đốt (đốt đầu tiên như đốt bụng cuối cùng). Hậu môn của bọ cạp nằm ở đốt cuối cùng, đồng thời đốt này mang nọc độc. Đốt cuối lần lượt gồm một túi chứa, một cặp tuyến độc và một mũi tiêm nọc độc.


Giáp: bao quanh cơ thể, một số chỗ có lông làm cơ quan cân bằng. Một lớp phủ ngoài giáp vốn trong suốt sẽ biến thành màu xanh lục huỳnh quang dưới tia tử ngoại. Những con bọ cạp mới lột xác sẽ không phát sáng cho tới khi lớp giáp nó cứng cáp. Lớp phủ đó có thể không bị sứt mẻ trong hóa thạch suốt hàng trăm triệu năm.


Trong một số trường hợp hiếm hoi, bọ cạp sinh ra có thể có hai đuôi. Nó không phải là một loài mới mà chỉ là một sự bất thường trong di truyền học.

Sơ lược cấu tạo cơ thể của bọ cạp
Sơ lược cấu tạo cơ thể của bọ cạp

Hóa thạch bọ cạp phát hiện đã cách đây 415 triệu năm

Một nhóm nhà khoa học đã phát hiện nhiều di tích hóa thạch của bọ cạp cánh rộng trong các lớp bột kết màu trắng, tại mỏ đá xóm Chẽ, Hải Phòng.


Nhóm các nhà khoa học gồm: TS.Phipippe Janvier (Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Đa dạng Cổ sinh vật học và Cổ môi trường, Pháp ); TS. Nguyễn Hữu Hùng (Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam), PGSTS. Tạ Hòa Phương (Đại học Khoa học Tự nhiên). Bọ cạp cánh rộng có tên khoa học là Euryptida, thuộc ngành Chân khớp (Arthropoda); có kích thước từ một vài cm đến 20 cm; nhưng cũng có những loài, kích thước đạt trên 2 m như các đại biểu thuộc giống Pterypgotus được phát hiện trong các trầm tích thuôc bậc Givet (380 - 375 triệu năm trước) của kỷ Devon ở Bắc Mỹ.


Chúng là những động vật săn mồi, sống trong môi trường nước ngọt và nước lợ; bơi và bám bám đáy. Bọ cạp cánh rộng xuất hiện đầu tiên trên Trái Đất vào kỷ Ordovic (500 triệu năm trước), phát triển mạnh mẽ trong các kỷ Silur, Đevon, Carbon và biến mất hoàn toàn vào nửa đầu của kỷ Permi (280 triệu năm trước).


Trước đó, năm 2002, các nhà khoa học người Anh Simon J. Braddy, Paul A. Selden và TS. Đoàn Nhật Trưởng (Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản Việt Nam) lần đầu tiên đã phát hiện ra hóa thạch Bọ cạp cánh rộng, trong các lớp đá bột kết ở sườn núi phía đông làng Ngọc Xuyên, bán đảo Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng; trong đó có loài mới Rhinocrcinosoma dosonesis; được xác nhận tuổi từ Sliur muộn đến Đevon sớm (415 - 410 triệu năm trước).


Việc phát hiện hóa thạch Bọ cạp cánh rộng, cùng với các nhóm hóa thạch khác như: thực vật ngành Thạch tùng, Tay cuộn không khớp, Cá cổ, Hai mảnh vỏ, Chân đầu (thời gian qua) cho phép các nhà cổ sinh định tuổi và tái tạo lại hoàn cảnh cổ địa lý và môi trường hình thành các trầm tích chứa chúng ở khu vực duyên hải Đông Bắc Việt Nam.

Hóa thạch bọ cạp phát hiện đã cách đây 415 triệu năm
Hóa thạch bọ cạp phát hiện đã cách đây 415 triệu năm

Thức ăn của bọ cạp

Bọ cạp ăn những động vật chân khớp nhỏ và sâu bọ. Đầu tiên chúng dùng càng để bắt mồi. Tùy vào lượng nọc độc và kích cỡ càng mà bọ cạp sẽ chích độc hay dùng càng ép con mồi. Cách này có thể làm tê liệt, thâm chí là giết chết mồi để sau đó bọ cạp có thể ăn. Bọ cạp có một kiểu ăn duy nhất là sử dụng chân kìm. Đó là những vuốt nhỏ từ miệng, chỉ có một số loài có (trong đó có nhện). Chân kìm rất sắc và có thể được dùng để chia nhỏ con mồi ra cho dễ tiêu hóa.


Bọ cạp chỉ có thể tiêu hóa thức ăn ở một dạng chất lỏng nhất định, bất kỳ chất rắn nào (lông, bộ xương ngoài... của con mồi) đều bị chúng bỏ lại. Bọ cạp được tìm thấy trong nhiều hóa thạch có độ tuổi khoảng 425 đến 450 triệu năm.


Ngoài ra, bọ cạp còn có thể chế biến thành nhiều món ăn khác nhau... Tuy nhiên có một số loài có độc mạnh không thể ăn được nên cẩn thận đề phòng trước khi ăn thịt bọ cạp phải chắc chắn là nó không có độc. Nên làm ăn sau khi mấy ngày bắt về, rửa sạch các chất độc và sau khi chín bỏ thêm hương vị tuy theo sở thích mỗi người, nhiều người nghĩ bụng của bò cạp là ngon nhất. Món bọ cạp đa số được bán ở các vùng. Vì môi trường thay đổi nên một số loài bọ cạp đang có nguy cơ bị tuyệt chủng và có thể ảnh hưởng tới nền nông nghiệp vì bọ cạp là loài ăn các loài côn trùng có hại cho nông sản.

Thức ăn và tập tính săn mồi
Thức ăn và tập tính săn mồi

Tập tính sinh sản

Bọ cạp có khả năng tự tái tạo, mỗi loài bọ cạp đều có con đực và cái riêng biệt. Bọ cạp sinh sản bằng cách chuyển bào tinh trùng từ con đực qua con cái.


Đầu tiên bọ cạp đực giữ lấy các chân kìm sờ của con cái rồi bắt đầu một điệu nhảy. Trên thực tế, con đực đang dẫn dắt con cái tìm nơi để đặt túi bào tinh của nó. Nghi thức này còn có thể bao gồm thêm vài hành động khác như rung mạnh hoặc hôn vào chân kìm của con cái (đôi lúc con đực bơm một ít nọc độc của nó vào người con cái), tất cả những hành động trên là để làm yên lòng con cái.


Khi tìm được nơi thích hợp, bọ cạp đực đặt túi bào tinh và hướng dẫn con cái giữ lấy nó. Con cái sẽ đưa túi bào tinh vào trong nắp sinh dục của mình, bào tinh sẽ vỡ ra đưa tinh trùng vào người con cái. Việc giao cấu có thể mất từ 1 đến hơn 25 giờ tùy thuộc vào khả năng của bọ cạp đực tìm thấy nơi đặt túi tinh của nó nhanh hay chậm. Nếu quá chậm, con cái có thể mất kiên nhẫn và bỏ đi.


Một khi giao cấu xong, chúng sẽ tách nhau ra. Con đực sẽ rút lui thật nhanh chóng để phòng trường hợp bị bạn tình của mình ăn sống, mặc dù tục ăn sống này hiếm khi xảy ra ở bọ cạp.

Tập tính sinh sản
Tập tính sinh sản

Thông tin mô tả

Bọ cạp là động vật không xương sống, tám chân thuộc lớp Arachnida (động vật hình nhện). Bọ cạp được đặc trưng bởi một chiếc đuôi có móc độc. Chúng là biểu tượng văn hóa với hình tượng cung Bọ Cạp (hổ cáp) trong 12 cung hoàng đạo của phương Tây và các vị thần ở Ai Cập.


Có hơn 30 loài bọ cạp được tìm thấy ở Arizona. Phổ biến nhất trong khu vực Phoenix là Scorpion Bark (Centruroides exilicauda), nơi có những con bọ cạp với chất độc cực mạnh và có khả năng gây chết người với tỉ lệ cao nhất.


Bọ cạp có xu hướng sống trong các khu vực có nhiệt độ dao động từ 20 - 37°C, nhưng chúng có thể xử lý nhiệt độ một cách siêu việt. Các nhà nghiên cứu đã đông lạnh bọ cạp qua đêm, ngày hôm sau đặt chúng dưới ánh nắng, khi đá tan, bọ cạp lắc mình bỏ đi như chưa hề có chuyện gì.


Tuổi thọ trung bình của bọ cạp là từ 2- 10 năm. Có một số loài đặc biệt có thể sống đến 25 năm.

Thông tin mô tả
Thông tin mô tả

Bọ cạp càng to lớn thì càng vô hại

"Khi nói đến bọ cạp, con càng lớn thì càng tốt hơn", Indiana Jones nói trong tập phim Vương quốc Sọ người (Indiana Jones and the Kingdom of the Crystal Skull). Hóa ra, những kiến thức này của Jones là chính xác.


Một nhóm các nhà nghiên cứu tại Đại học Quốc gia Ireland đã đưa ý tưởng đó vào thử nghiệm, họ phát hiện ra rằng những con bọ cạp nhỏ hơn với chiếc càng nhỏ, lại có nọc độc mạnh hơn loài có kích thước lớn. Theo trường đại học, có hơn một triệu trường hợp người bị bọ cạp đốt mỗi năm và hàng nghìn trường hợp tử vong.


Nhóm nghiên cứu đã phân tích 36 loài bọ cạp bao gồm: bọ cạp tử thần (Leiurus quinquestriatus), bọ cạp đá (Hadogenes granulatus), bọ cạp vỏ cây (Scorpion Centruroides noxius), bọ cạp vàng Israel (Scorpio maurus).... Họ phát hiện rằng loài nhỏ nhất có nọc độc mạnh gấp 100 lần loài lớn nhất.


Phân tích của họ bao gồm các phép đo về chiều dài trung bình của bọ cạp, cũng như hiệu lực nọc độc của chúng. Kết quả đã xác nhận kiến thức của Jones là chính xác - bọ cạp càng nhỏ, nọc độc của chúng càng nguy hiểm và ngược lại. Bọ cạp vàng Brazil, thường có chiều dài 5-7,5 cm, có nọc độc mạnh gấp 100 lần so với bọ cạp đá, có thể dài tới 20 cm.


Tuy nhiên, không chỉ kích thước cơ thể - kích thước cặp càng cũng có mối tương quan. Ví dụ, nghiên cứu phát hiện ra rằng loài bọ cạp đuôi dày Nam Phi có nọc độc mạnh gấp hơn 10 lần so với bọ cạp vàng Israel, mặc dù có cặp càng nhỏ hơn đáng kể.


Bọ cạp sử dụng cả nọc độc và càng của chúng để bắt con mồi và tự vệ. Theo các nhà nghiên cứu, phát hiện cho thấy có sự đánh đổi về mặt tiến hóa giữa hai loại vũ khí này. Những loài sử dụng nhiều năng lượng hơn cho cặp càng lớn sẽ có ít năng lượng hơn cho nọc độc. Điều này dẫn đến việc những con bọ cạp to lớn với cặp càng khổng lồ có thể tận dụng kích thước vật lý của chúng và ít phụ thuộc vào nọc độc hơn, và những loài nhỏ hơn với những chiếc càng bé đã phát triển loại nọc độc mạnh hơn.

Bọ cạp càng to lớn thì càng vô hại
Bọ cạp càng to lớn thì càng vô hại

Nọc độc

Ngoài loài Hemiscorpius lepturus có nọc độc hại tế bào, tất cả các loài bọ cạp khác đều có độc làm hủy thần kinh. Những độc tố ảnh hưởng đến thần kinh này chứa một lượng nhỏ protein, natri và cation kali. Bọ cạp dùng nọc độc của nó để giết hoặc làm tê liệt con mồi; hành động này khá nhanh và hiệu quả.


Thật may mắn là nọc độc của đa số loài bọ cạp vô hại đối với con người, tuy nhiên nó có thể gây ra các phản ứng khác như đau, tê cứng hay sưng phồng. Một vài loài bọ cạp, chủ yếu trong họ Buthidae có thể gây nguy hiểm tới con người. Những loài bọ cạp nguy hiểm nhất là Leiurus quinquestriatus - có nọc độc mạnh nhất trong họ Buthidae, và các loài trong chi Parabuthus, Tityus, Centruroides, đặc biệt là Androctonus - cũng có nọc độc mạnh. Loài bọ cạp giết người nhiều nhất là Androctonus australis, hoặc loài bọ cạp đuôi béo Bắc Phi. Nọc độc của Androctonus australis chỉ bằng một nửa so với Leiurus quinquestriatus, nhưng người bị nó chích có thể chết.


Bọ cạp thật ra không đủ nọc để giết chết một người trưởng thành khỏe mạnh. Một vài người bị dị ứng với bọ cạp có thể chết nhanh hơn. Triệu chứng đơn giản nhất sau khi bị bọ cạp chích là chỗ đau tê cứng trong vài ngày. Bọ cạp nói chung khá nhút nhát nên chúng chỉ chích khi bắt mồi hay tự vệ. Trong trường hợp nguy hiểm, bọ cạp thường bỏ chạy hoặc đứng yên.


Bọ cạp có khả năng điều chỉnh lượng nọc chích, thông thường 0,1-0,6 mg. Đó cũng là một gợi ý về giả thiết bọ cạp để dành nọc độc của mình trong những trận giao tranh khác. Bọ cạp có hai loại nọc: loại nhẹ chỉ làm đối phương choáng váng và loại mạnh đủ để giết chết kẻ thù. Có lẽ bọ cạp mất khá nhiều năng lượng cho loại độc này đến nỗi nó phải mất vài ngày mới hồi phục sau khi dùng hết số độc có sẵn.

Nọc độc
Nọc độc

Những loài bọ cạp lớn nhất thế giới

Bọ cạp được đặc trưng bởi một chiếc đuôi có móc độc. Chúng là biểu tượng văn hóa với hình tượng cung bọ cạp (hổ cáp) trong 12 cung hoàng đạo của phương Tây. Dưới đây là so sánh kích thước của các loại bọ cạp trên thế giới:

  • Bọ cạp rừng khổng lồ: Heterometrus, có tên chung là bọ cạp rừng khổng lồ, là một chi bọ cạp thuộc họ Scorpionidae. Nó được phân bố rộng rãi ở khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới Đông Nam Á, bao gồm Campuchia, Lào, Thái Lan, Việt Nam, cũng như Ấn Độ, Sri Lanka, Nepal và Trung Quốc (Tây Tạng).[3][4] Chi này có một trong các loài bọ cạp lớn nhất còn sống. Bọ cạp rừng khổng lồ có kích thước là 23cm.
  • Bọ cạp đá Châu Phi là một loài bọ cạp, có chiều dàiđạt tới 20,32cm. Cơ thể chúng có màu nâm sẫm hoặc đen. Chúng phân bố ở sa mạc, các vùng đồng cỏ và bán hoang mạc ở các nước trong khu vực phía nam châu Phi như Zimbabwe, Mozambique, Nam Phi, Botswana. Kìm mỏng, nhưng đuôi dày, với phân khúc ngòi đốt là rộng như các phần còn lại của đuôi. Đây là loài hoạt động về đêm, chúng ở trong hang nông dưới đá trong ngày.
  • Bò cạp hoàng đế: Có tên khoa học Pandinus imperator, là một loài bò cạp bản địa châu Phi. Bò cạp hoàng đế là một trong những loài bò cạp lớn nhất trên thế giới, với con trưởng thành có chiều dài trung bình khoảng 20 cm. Tuy nhiên, một số loài bọ cạp rừng lớn bằng nó, Heterometrus swammerdami, giữ kỷ lục là loài bò cạp lớn nhất với chiều dài 23 cm. Chúng có tuổi thọ 5-8 năm trong điều kiện nuôi nhốt, nhưng có lẽ sống lâu hơn trong hoang dã. Kích thước to lớn của nó cộng thêm yếu tố nó ít độc và tuổi thọ dài khiến nó là loài bò cạp được nuôi làm vật cưng phổ biến dẫn đến việc săn bắt tràn lan, đe dọa khả năng tuyệt chủng của nó.
  • Bọ cạp lông sa mạc Arizona: Còn được gọi là bọ cạp lông sa mạc khổng lồ, đây là những loài bọ cạp lớn nhất ở Bắc Mỹ, thường đạt chiều dài 14 cm. Loài bọ cạp lông khổng lồ phổ biến khắp các vùng sa mạc của Arizona, California, Utah và Nevada. Chúng có màu sắc đặc biệt – thường có lưng màu xanh lá cây và chân màu vàng – và được đặt tên từ những sợi lông trên đuôi và chân của chúng. Do kích thước to lớn, chúng là những thợ săn cực kỳ giỏi và thường ăn rắn và thằn lằn, thậm chí cả những con rết sa mạc khổng lồ được tìm thấy ở Arizona.
  • Bọ cạp đen Việt Nam: Là một loài bọ cạp được tìm thấy ở các vùng nhiều than bùn của Việt Nam và Lào. Chúng có thể đạt chiều dài đến 12 cm. Chúng là một loài cộng đồng, nhưng hành vi ăn thịt đồng loại đã từng xảy ra, và nếu bị bắt, chúng có thể cực kỳ hung hãn ngay cả với đồng loại của mình.
Những loài bọ cạp lớn nhất thế giới
Những loài bọ cạp lớn nhất thế giới

Nọc độc bọ cạp là chất lỏng đắt nhất hành tinh

Mặc dù vết đốt của chúng không đủ để giết một người lớn khỏe mạnh, nhưng nó có thể gây tử vong cho trẻ em và người già, và được cho là đau hơn khoảng 100 lần so với vết ong đốt.


Nọc độc từ một con bọ cạp tử thần (Deathstalker) có thể giết người, nhưng đồng thời có thể đem lại cho con người số tiền khổng lồ. Với mức giá 39 triệu USD (khoảng 907 tỷ đồng) cho mỗi gallon (1 gallon = 3,78 lít), nọc độc bọ cạp tử thần là chất lỏng đắt nhất thế giới.


Ngay cả khi có đủ tiền, bạn cũng không thể mua được 1 gallon nọc bọ cạp. Thay vào đó, bạn chỉ có thể mua một lượng cực kỳ nhỏ. 130 USD (3 triệu đồng) là số tiền bạn phải bỏ ra để sở hữu 1 giọt nọc có kích thước nhỏ hơn 1 hạt đường.

Nọc độc bọ cạp là chất lỏng đắt nhất hành tinh
Nọc độc bọ cạp là chất lỏng đắt nhất hành tinh

Tập tính săn mồi

Hầu hết bọ cạp là những kẻ săn mồi phục kích, nhưng chúng có khả năng điều chỉnh hành vi để phù hợp với môi trường sống. Một số chỉ đơn giản là đợi trong hang và tấn công khi con mồi đi ngang qua. Những con khác tích cực kiếm ăn để theo đuổi con mồi. Thói quen kiếm ăn dường như thay đổi tùy thuộc không chỉ vào sự sẵn có của con mồi mà còn phụ thuộc vào số lượng kẻ săn mồi. Có một số bằng chứng cho thấy số lượng kẻ săn mồi nhiều hơn dẫn đến tỷ lệ bọ cạp ăn thịt đồng loại cao hơn. Một số loài bọ cạp thậm chí còn được nhìn thấy sử dụng một chiến thuật tương tự như kiến chúa – đặt bẫy trên cát để con mồi rơi vào.


Bọ cạp là kẻ săn mồi về đêm thực tế là mù quáng. Đôi mắt của chúng có thể được sử dụng để phát hiện chuyển động, nhưng chúng chủ yếu dựa vào lông mịn và cấu trúc cảm giác được gọi là pectines để phát hiện con mồi và động vật ăn thịt và điều hướng môi trường của chúng. Khi tìm thấy thức ăn, chúng sử dụng kết hợp bộ móng vuốt mạnh mẽ và ngòi nọc độc để cố định con mồi. Vì sản xuất nọc độc có thể là một quá trình chuyên sâu, con trưởng thành thường dựa vào móng vuốt của chúng để xé xác con mồi nhỏ hơn và dự trữ nọc độc của chúng cho những kẻ săn mồi và con mồi lớn hơn. Giống như nhện, bọ cạp phải làm tan thức ăn của chúng để ăn nó.


Bọ cạp con dành những ngày đầu tiên tồn tại để lớn lên trên lưng mẹ. Bọ cạp mẹ có xu hướng bảo vệ con một cách quyết liệt, chúng dành thời gian này để nhận được chất dinh dưỡng từ túi noãn hoàng bao quanh chúng. Sau khi hoàn thành lần thay lông đầu tiên, bọ cạp con sẽ áp dụng các chế độ dinh dưỡng giống như khi trưởng thành. Một số bà mẹ có thể giết chết những con mới lột xác của chúng, nhưng một bà mẹ đói cũng có thể cho bọ cạp con ăn nếu không có sẵn con mồi.

Tập tính săn mồi
Tập tính săn mồi

Quá trình sinh trưởng

Không giống các loài thuộc lớp Nhện, bọ cạp đẻ con. Bọ cạp được sinh ra từng con một và bám trên lưng mẹ cho tới khi chúng trải qua ít nhất một kỳ lột xác. Trước kỳ lột xác đầu tiên, bọ cạp con không thể sống sót nếu không phụ thuộc vào mẹ chúng.


Bọ cạp con khá giống ba mẹ chúng. Chúng lớn lên bằng cách lột xác. Sau 5-7 lần lột xác, bọ cạp mới trưởng thành. Việc lột xác bắt đầu bởi lớp xương trong, khi lớp giáp ở mép đốt thân trước bị nứt. Những chân kìm sờ và chân của chúng sẽ được lột xác đầu tiên, sau đó là phần bụng. Khi lột xác xong, lớp giáp của chúng rất mềm và sẽ bị tổn thương nếu có sự tấn công. Quá trình làm cứng lại lớp giáp này gọi là sự xơ cứng. Bộ giáp ngoài mới đầu không có màu, nhưng khi nó trở nên cứng cáp ta sẽ thấy nó có màu huỳnh quang.


Tuổi thọ tối đa của bọ cạp vẫn chưa được xác định. Chúng có thể sống tối thiểu 4 năm và tối đa là 25 năm (loài H. arizonensis). Bọ cạp thích sống ở nơi có nhiệt độ khoảng 20 đến 35 độ C (68-99 độ F) nhưng giới hạn chịu đựng khoảng 14-45 độ C (57-113 độ F). Bọ cạp là động vật về đêm và hay đào bới, chúng đào hang suốt ngày để tìm nơi trú ẩn mát mẻ, thường là mặt dưới các tảng đá, và ban đêm ra ngoài săn mồi. Bọ cạp có chứng sợ ánh sáng và các loài chim, rết, thằn lằn, những thú có túi và chuột.

Quá trình sinh trưởng
Quá trình sinh trưởng

Làm gì khi bị bọ cạp cắn

Bọ cạp ở Việt Nam có độc tính không cao, nhiều người còn dùng bọ cạp ngâm rượu uống chữa chứng đau nhức. Những loài bọ cạp mang nọc độc gây chết người chỉ có ở châu Phi, Trung Đông và châu Mỹ.


Vết chích của bọ cạp Việt Nam thường gây sưng, nóng, đỏ và đau nhức trong vòng 12 giờ, nhưng không gây chết người. Có khi nạn nhân chỉ cảm thấy hơi bị ngứa rát ở chỗ bị cắn nhưng liền sau đó có người bị chóng mặt, đổ mồ hôi, chảy nước mắt, nước mũi, buồn nôn, cứng chân tay, nặng hơn là co giật toàn thân, bị rối loạn nhịp tim...


Khi bị bọ cạp cắn cần làm sạch vết thương, sát trùng tại vết chích bằng Povidine 10% hoặc cồn 70 độ, chườm lạnh để giảm sưng. Uống thuốc giảm đau như aspirin, paracetamol... và thuốc kháng histamin H1 làm dịu như phenergan, chlorpheniram, diphenhydramin. Đôi khi phải dùng tới corticosteroid, dapson để cải thiện tổn thương da.


Những loại chân đốt như rết, nhện, bọ cạp … hoàn toàn có thể chứa chất độc thần kinh hoặc một men gây sưng phồng. Chúng hoàn toàn có thể gây triệu chứng body toàn thân như sốt, lạnh, nôn, ban da, ngứa, vàng da, co cứng cơ, đau chuột rút, cứng cả một vùng, nhiễm khuẩn .Các triệu chứng này không phải thường gặp, nhưng tốt nhất là sau khi sát trùng vết cắn, phải đến ngay bệnh viện để bác sĩ khám và giải quyết và xử lý .

Làm gì khi bị bọ cạp cắn
Làm gì khi bị bọ cạp cắn

Bọ cạp là một kiến trúc sư tài hoa trong sa mạc

Các nhà khoa học phát hiện rằng bọ cạp thiết kế hang rất thông minh, bao gồm phòng ấm và phòng mát nhằm giúp chúng thích nghi với môi trường sa mạc khắc nghiệt.


Dưới sự lãnh đạo của tiến sĩ Amanda Adams, thuộc Trường đại học Ben-Gurion (Israel), nhóm các nhà khoa học đã nghiên cứu hang của loài bọ cạp móng vuốt lớn có tên khoa học là Scorpio Maurus palmatus ở sa mạc Negev, Israel. Sau khi bắt bọ cạp, các nhà khoa học sử dụng nhôm nóng chảy cho vào trong hang, sau khi khuôn nhôm nguội sẽ được lấy ra ngoài. Kế tiếp là quá trình phân tích kết cấu hang bằng máy quét laser 3D và phần mềm máy tính.


Kết quả cho thấy, hang bọ cạp Scorpio Maurus palmatus rất phức tạp chứ không đơn thuần là những lỗ nhỏ mà chúng ta nhìn thấy trên mặt đất. Theo đó, mỗi hang bắt đầu bằng một lối vào thẳng đứng, dẫn tới một khu vực bằng phẳng nằm sâu vài cm dưới mặt đất.


Cấu trúc hang chia thành các phần riêng biệt, gồm cả phòng ấm và phòng mát. Ban đêm, trước khi ra khỏi hang săn mồi dưới cái giá lạnh sa mạc thì bọ cạp vào phòng ấm để tăng thân nhiệt. Vào ban ngày, bọ cạp sẽ chui vào căn phòng ẩm ướt nằm sâu dưới lòng đất để tránh cái nóng.


Tạp chí Science Daily dẫn lời tiến sĩ Adams cho biết, có thể ứng dụng kỹ thuật tạo hang của bọ cạp vào các công trình xây dựng của con người nhằm đối phó với biến đổi khí hậu đang xảy ra.

Bọ cạp là một kiến trúc sư tài hoa trong sa mạc
Bọ cạp là một kiến trúc sư tài hoa trong sa mạc

Vì sao nọc bọ cạp đắt đến vậy?

Nọc bọ cạp rất khó lấy. Người ta phải chiết nọc bọ cạp bằng tay và chiết nọc từng con một. Một con bọ cạp chỉ có thể sản sinh ra tối đa 2 milligram cho mỗi lần chiết.


Thử làm một phép toán, nếu bạn có một con bọ cạp, bạn sẽ phải chiết nọc 2,64 triệu lần để đổ đầy một gallon. Người lấy nọc cũng đối mặt nguy cơ bị bọ cạp cắn. Dù một vết chích không đủ giết chết một người khỏe mạnh, nhưng chắc chắn sẽ rất đau.


Một lý do khác khiến nọc bọ cạp trở nên đắt giá, đó là tính ứng dụng của nó trong y học. Bên trong nọc độc chết người của bọ cạp chứa rất nhiều thành phần giúp ích trong việc tạo ra các loại thuốc mang tính đột phá, tiên phong. Chẳng hạn, chlorotoxin trong nọc độc bọ cạp có thể liên kết với một số tế bào ung thư trong não và cột sống, từ đó giúp xác định kích thước và vị trí cụ thể của các khối u.


Các nhà nghiên cứu còn sử dụng bọ cạp để loại bỏ bệnh sốt rét ở muỗi. Kaliotoxin trong nọc bọ cạp cũng được thử nghiệm để chữa các bệnh về xương trên chuột. Các nhà khoa học hy vọng nó cũng có hiệu quả tương tự trên người. Càng nghiên cứu nọc bọ cạp, các nhà khoa học càng phát hiện nhiều công dụng. Điều đó đồng nghĩa với việc nhu cầu về nọc độc bọ cạp sẽ không ngừng tăng lên. Vì vậy, họ đang cố gắng tìm ra cách chiết nọc bọ cạp nhanh hơn.

Vì sao nọc bọ cạp đắt đến vậy?
Vì sao nọc bọ cạp đắt đến vậy?

Bình luận

Có Thể Bạn Quan Tâm ?