Truyện cổ tích là một loại văn học theo hình thức tự sự dân gian được sáng tác mang theo nhiều yếu tố có tính hư cấu. Một số thể loại quen thuộc gồm cổ tích thế sự, cổ tích thần kỳ, cổ tích loài vật và cổ tích phiêu lưu. Các chủ đề của truyện cổ tích thường xoay quanh các nhân vật như thần tiên, yêu tinh, người cá, người khổng lồ, ông bụt,… và đặc biệt là hình ảnh của những cô công chúa đã làm say lòng bao thế hệ. Xinh đẹp, giỏi giang lại có phẩm chất lương thiện. Các truyện cổ tích về công chúa hay và ý nghĩa phù hợp cho bé gái từ 3 đến 6 tuổi, bố mẹ hãy cũng Toplist nuôi nưỡng tâm hồn cho bé yêu của mình bằng những câu chuyện cổ tích về công chúa nhé.
Công chúa ngủ trong rừng
Ngày xưa, có một ông vua và một bà hoàng hậu ngày nào cũng mong: "Ước gì mình có một đứa con nhỉ?." Nhưng ước hoài mà vua và hoàng hậu vẫn chưa có con.
Một hôm hoàng hậu đang tắm thì có một con ếch ở dưới nước nhảy lên bờ nói với bà:
- Điều bà mong ước bấy lâu sẽ thành sự thực. Hết năm nay bà sẽ sinh con gái.
Lời ếch tiên tri quả là đúng. Hoàng hậu sinh con gái đẹp tuyệt trần. Vua thích lắm, mở hội lớn ăn mừng. Vua mời tất cả bà con họ hàng, bạn bè thân thuộc, người quen và mời cả các bà mụ đến để họ tận tâm săn sóc, thương yêu con mình.
Trong nước bấy giờ có mười ba bà mụ. Nhưng vua chỉ có mười hai đĩa vàng, do đó một bà mẹ không được mời.Hội hè linh đình. Lúc tiệc sắp tàn, các bà mụ đến niệm chú chúc mừng công chúa: Bà đầu chúc đức hạnh, bà thứ hai chúc sắc đẹp, bà thứ ba chúc giàu sang, phú quý… cứ như vậy các bà mụ chúc công chúa tất cả những điều tốt đẹp có thể mơ ước được ở trần gian. Bà thứ mười một vừa dứt lời chúc tụng thì bỗng bà mụ thứ mười ba xuất hiện. Bà muốn trả thù vì không được mời dự tiệc. Bà xăm xăm tiến tới chỗ công chúa chẳng thèm nhìn ai, chào ai.
Bà hét lên:
- Đến năm mười lăm tuổi công chúa sẽ bị mũi quay sợi đâm phải rồi lăn ra chết!
Rồi chẳng thèm nói thêm nửa lời, bà đi ra khỏi phòng. Mọi người còn đang kinh hoàng thì bà mụ thứ mười hai bước ra. Bà tuy chưa niệm chú chúc tụng công chúa nhưng lời chú của bà cũng không giải được lời chú độc địa kia, mà chỉ làm giảm nhẹ được thôi.
Bà nói: - Công chúa sẽ không chết, mà chỉ ngủ một giấc dài trăm năm. Nhà vua muốn tránh cho con khỏi bị nạn nên ra lệnh cấm kéo sợi trong cả nước. Tất cả những lời chúc của các bà mụ đều thành sự thực: công chúa xinh đẹp, đức hạnh, thùy mị, thông minh, ai thấy cũng phải yêu.
Chuyện xảy ra đúng lúc công chúa tròn mười lăm tuổi. Hôm ấy, vua và hoàng hậu đi vắng, công chúa ở nhà một mình, màng đi lang thang khắp cung điện, tạt vào xem tất cả các buồng và các phòng. Sau cùng nàng tới một chiếc cầu thang, nàng trèo lên từng bậc thang xoáy trôn ốc chật hẹp và dừng chân trước một chiếc cửa nhỏ. Ổ khóa có cắm một chiếc chùa đã rỉ, nàng cầm chìa quay thì cửa mở tung ra. Trong buồng có một bà già đang ngồi chăm chú kéo sợi. Nàng hỏi:- Cháu xin chào bà, bà làm gì vậy?
Bà lão gật đầu đáp:
- Bà đang kéo sợi.
- Cái gì nhảy nhanh như cắt thế kia hở bà
Nàng vừa mới sờ vào xa kéo sợi thì lời chú của bà mụ thứ mười ba hiệu nghiệm: nàng bị mũi quay đâm vào tay. Nàng ngã ngay xuống chiếc giường ở cạnh đó và thiếp đi. Cùng lúc, cả cung điện cũng rơi vào một giấc ngủ triền miên. Vua và hoàng hậu vừa về, mới bước chân vào buồng đã nhắm mắt ngủ luôn. Cả triều đình cũng lăn ra ngủ. Ngựa trong chuồng, chó ngoài sân, bồ câu trên mái nhà, ruồi đậu trên tường, tất cả đều ngủ. Cả ngọn lửa bếp đang chập chờn cũng đứng lặng. Thịt quay cũng ngừng xèo xèo. Bác đầu bếp thấy chú phụ bếp đãng trí, đang kéo tóc chú, bác cũng buông ra ngủ.
Gió ngừng thổi. Cây trước lâu đài không một chiếc lá rụng.Quanh lâu đài, bụi hồng gai mọc mỗi ngày một rậm, phủ kín cả lâu đài, chẳng còn nhìn thấy gì nữa, cả đến lá cờ trên mái cũng không thấy. Rồi ở trong miền ấy, nhân dân truyền tụng lại là có một bông hồng xinh đẹp đang ngủ triền miên. Người ta gọi công chúa là công chúa Hồng Hoa. Thỉnh thoảng cũng có một vài hoàng tử nghe kể về câu chuyện truyền thuyết ấy đã chui vào bụi hồng gai tìm cách vào lâu đài, nhưng bụi gai như có tay giữ chặt họ lại, khiến họ bị mắc nghẽn.
Cứ thế năm tháng trôi qua. Một ngày kia lại có một hoàng tử tới nước này. Chàng nghe một ông lão kể lại rằng sau bụi gai có một tòa lâu đài, ở đó có nàng công chúa Hồng Hoa ngủ triền miên đã được trăm năm. Vua, hoàng hậu và cả triều đình cũng đều ngủ cả. Ông lão còn bảo là theo lời tổ phụ kể lại thì đã có nhiều hoàng tử tìm cách chui qua bụi hồng gai nhưng đều bị mắc lại ở đó.Nghe xong, hoàng tử nói:
- Con không sợ, con muốn tới đó để gặp nàng Hồng Hoa xinh đẹp.Ông lão hết sức can ngăn, nhưng hoàng tử không nghe.
Hạn ngủ triền miên trăm năm đã qua, đã đến lúc công chúa Hồng Hoa tỉnh giấc. Hoàng tử đến gần bụi gai thì chỉ thấy toàn những bông hồng to tươi nở như đón chào và giãn lối để chàng đi khỏi bị xây xát. Chàng đi qua tới đâu bụi hồng gai khép kín lại đến đó. Vào tới sân lâu đài, chàng thấy ngựa và những con chó tam thể đang nằm ngủ. Trên mái nhà, chim bồ câu rúc đầu vào cánh lặng lẽ. Chàng vào cung thấy ruồi đậu im trên tường, bác đầu bếp ngủ trong tư thế giơ tay như định tóm đầu chú phụ bếp. Còn cô hầu gái thiếp đi khi đang ngồi làm dở lông con gà đen. Chàng đi vào điện chính thấy cả triều đình đều ngủ. Trên ngai vàng vua và hoàng hậu cũng đang ngủ. Cảnh vật im lặng như tờ. Có thể nghe thấy rõ hơi thở của chàng. Tiếp tục đi, chàng tới trước một căn phòng, đó chính là căn phòng nơi công chúa Hồng Hoa ngủ. Chàng mở cửa bước vào thấy nàng đang nằm, dáng đẹp lộng lẫy. Chàng ngắm nhìn không rời mắt, rồi cúi xuống hôn nàng. Chàng vừa đụng môi thì công chúa Hồng Hoa bừng tỉnh. Nàng mở mắt nhìn chàng trìu mến. Hai người dắt tay nhau đi xuống lầu. Vua, rồi hoàng hậu và cả triều đình đều đã tỉnh dậy. Ngựa ngoài sân đứng lên quẫy mình, chó săn nhảy lên ngoe ngoẩy đuôi, bồ câu trên mái nhà vươn cổ, ngóc đầu nhìn quanh rồi bay ra cánh đồng, ruồi bậu trên tường lại tiếp tục bò, lửa trong bếp lại bùng lên, chập chờn và đun thức ăn, thịt quay lại xèo xèo, bác đầu bếp cho chú phụ bếp một bạt tai làm hắn kêu toáng lên, cô hầu bếp làm nốt lông gà.
Lễ cưỡi của hoàng tử và công chúa Hồng Hoa được tổ chức linh đình. Hai vợ chồng sống trọn đời hạnh phúc.
Nàng bạch tuyết và bảy chú lùn
Ngày xửa, ngày xưa, giữa mùa đông giá rét, tuyết rơi trắng như bông có một bà hoàng hậu ngồi khâu bên cửa sổ khung gỗ mun, bà mải nhìn tuyết nên kim đâm phải tay, ba giọt máu rơi xuống tuyết.
Thấy máu đỏ pha lẫn tuyết trắng thành một màu tuyệt đẹp, bà nghĩ bụng: “Ước gì ta đẻ được một người con gái, da trắng như tuyết, môi đỏ như máu và tóc đen như gỗ khung cửa này”
Sau đó ít lâu, bà đẻ một cô gái trắng da như tuyết, môi đỏ như máu và tóc đen như mun; vì vậy bà đặt tên con là Bạch Tuyết. Bạch Tuyết vừa ra đời thì mẹ chết.
Một năm sau, vua lấy vợ khác. Bà này đẹp lắm nhưng kiêu căng tự phụ, độc ác và không muốn ai đẹp bằng mình. Bà có một cái gương thần, khi soi, bà hỏi:
Gương kia ngự ở trên tường,
Nước ta ai đẹp được dường như ta?
Thì gương đáp:
– Tâu hoàng hậu, hoàng hậu đẹp nhất nước ạ.
Biết gương nói thật, bà rất sung sướng. Nhưng Bạch Tuyết càng lớn càng đẹp. Năm lên bảy, cô đã đẹp như tiên sa, đẹp hơn cả hoàng hậu.
Một hôm hoàng hậu lại hỏi gương:
Gương kia ngự ở trên tường,
Nước ta ai đẹp được dường như ta?
Thì gương đáp:
Xưa kia bà đẹp nhất trần,
Ngày nay Bạch Tuyết muôn phần đẹp hơn.
Hoàng hậu nghe nói giật mình, ghen tức tái mặt đi. Từ đó mỗi khi thấy Bạch Tuyết, hoàng hậu lại tức điên lên.
Ngày ngày sự kiêu ngạo và lòng đố kỵ khiến mụ lúc nào cũng bứt rứt. Mụ cho gọi một người đi săn đến bảo:
– Ngươi hãy đem con bé này vào rừng cho khuất mắt ta. Giết chết nó đi, mang tim gan nó về đây cho ta.
Người đi săn vâng lệnh, đem cô bé đi. Khi bác lấy dao ra để chọc tiết thì cô bé vô tội van khóc:
– Bác ơi, bác đừng giết cháu, cháu xin ở lại trong rừng không về lâu đài nữa.
Thấy cô bé xinh đẹp quá, bác thợ săn thương hại bảo:
– Tội nghiệp, thôi cháu đi đi. Bác nghĩ bụng: “Rồi thú dữ cũng đến ăn thịt nó mất”. Nhưng bác thấy hình như cất được một gánh nặng trong lòng vì không phải giết người.
Vừa lúc đó một con hoẵng nhỏ nhảy tới. Bác giết con hoẵng, lấy tim gan đem về nộp cho hoàng hậu, nói dối là tim gan Bạch Tuyết.
Người đàn bà độc ác đó sai đầu bếp xào xáo cho mụ ăn. Mụ đinh ninh đó là tim gan Bạch Tuyết, ăn kỳ hết.
Một mình thui thủi trong rừng sâu. Bạch Tuyết sợ hãi, cô cứ cắm đầu chạy, giẫm phải gai và đá nhọn, chảy cả máu chân. Thú dữ lượn quanh cô, nhưng không đụng chạm đến cô. Cô đi mỏi cả chân, chập tối, thấy một cái nhà nhỏ, liền vào để nghỉ.
Trong nhà, cái gì cũng bé tí ti, nhưng đẹp và sạch lắm. Trên bàn trải khăn trắng tinh có bảy cái đĩa con, một đĩa có một cái thìa con, một cốc con. Sát tường kê bảy chiếc giường nhỏ phủ khăn trắng như tuyết.
Bạch Tuyết đang đói và khát, liền ăn ở mỗi đĩa một tí rau, tí bánh, và uống ở mỗi cốc một hớp rượu vang, vì cô không muốn ai phải mất phần. Cô mệt quá, muốn đi ngủ, nhưng không giường nào nằm vừa, cái thì dài quá, cái lại ngắn quá. Cô thử đến cái thứ bảy mới thấy vừa, liền vào đó ngủ.
Tối mịt, các người chủ căn nhà mới về: đó là bảy chú lùn làm công việc đào mỏ. Họ thắp bảy ngọn nên lên. Họ cảm thấy có ai đã đến nhà.
Một chú nói: “Ai đã ngồi vào ghế của tôi?”. Chú thứ hai nói: “Ai đã ăn ở đĩa của tôi?”. Chú thứ ba nói: “Ai đã ăn ít bánh của tôi?”. Chú thứ tư nói: “Ai đã ăn ít rau của tôi?”. Chú thứ năm nói: “Ai đã dùng chiếc dĩa của tôi?”. Chú thứ sáu nói: “Ai đã dùng dao của tôi?”. Chú thứ bảy nói: “Ai đã uống vào cốc của tôi?”.
Một chú nhìn quanh, rồi đi lại giường mình. Thấy có chỗ trũng ở đệm, chú bèn nói:
– Ai đã trèo lên giường tôi?
Những chú khác cũng lại giường mình và nói: “Có ai đã nằm vào giường của tôi?”. Chú thứ bảy nhìn vào giường mình thấy Bạch Tuyết đang ngủ. Chú gọi các chú kia đến. Ai nấy đều ngạc nhiên.
Họ cầm bảy ngọn đèn soi Bạch Tuyết và reo lên: “Lạy chúa! Cô bé này đẹp quá”. Các chú mừng lắm, để yên cho cô ngủ.
Sáng hôm sau, Bạch Tuyết dậy, thấy bảy chú lùn, cô hoảng sợ, nhưng họ thân mật hỏi:
– Cô tên là gì?
Cô đáp:
– Em là Bạch Tuyết.
Họ lại hỏi:
– Sao cô lại tới đây?
Cô kể cho họ nghe là gì ghẻ muốn giết cô, người đi săn đã để cho cô sống, cô đã chạy suốt ngày mãi cho đến khi thấy nhà họ.
Các chú lùn bảo cô:
– Cô có muốn giúp chúng tôi một tay, làm các việc trong nhà này không? Cô sẽ nấu nướng, làm giường, giặt giũ, khâu vá, thêu thùa, cô quét tước, dọn dẹp. Ở lại đây với chúng tôi, cô sẽ chẳng thiếu thứ gì.
Từ đó Bạch Tuyết ở với các chú lùn. Cô làm công việc nội trợ.
Sáng sớm, các chú lùn vào mỏ lấy quặng và vàng cho đến chiều tối, Bạch Tuyết làm thức ăn sẵn để cho họ về ăn. Suốt ngày, cô ở nhà một mình. Các chú lùn dặn cô:
– Cẩn thận đề phòng mụ gì ghẻ đấy! Thế nào rồi mụ cũng biết là cô ở đây. Đừng cho ai vào nhà đấy!
Về phần hoàng hậu, mụ cứ đinh ninh là đã ăn tim gan Bạch Tuyết, từ nay mình đẹp nhất đời.
Mụ ta lại hỏi gương:
Gương kia ngự ở trên tường,Nước ta ai đẹp được dường như ta?
Gương đáp:
Xưa kia bà đẹp nhất trần,
Ngày nay Bạch Tuyết muôn phần đẹp hơn.
Nàng ở khuất núi khuất non,
Tại nhà của bảy chú lùn xa xa.
Mụ giật mình vì biết rằng gương không bao giờ nói sai, người đi săn đã lừa mụ và Bạch Tuyết còn sống. Mụ lại nghĩ cách hại Bạch Tuyết. Mụ đứng ngồi không yên vì thấy mình chưa đẹp nhất nước.
Sau mụ tìm ra một kế: mụ bôi mặt và ăn mặc giả làm một bà lão bán hàng xén, không ai nhận ra được. Mụ cải trang rồi vượt bảy ngọn núi đến nhà bảy chú lùn kia, gõ cửa nói:
– Lão có hàng đẹp bán đây.
Bạch Tuyết nhìn qua cửa sổ nói:
– Chào bà, bà bán gì đấy?
– Toàn là của đẹp, dây buộc, áo lót đủ các màu.
Rồi mụ cho cô xem một chiếc ao lót chẽn bằng xa-tanh ngũ sắc. Bạch Tuyết nghĩ bụng: “Đây không phải là hoàng hậu, mình cho vào được”. Cô bèn mở cửa cho mụ vào và mua chiếc áo lót.
Mụ bảo cô:
– Con ơi, con buộc vụng lắm, lại đây, bà buộc cho.
Bạch Tuyết không chút e ngại, để mụ buộc hộ. Mụ buộc thoăn thoắt, thít chặt quá, Bạch Tuyết không thở được nữa, ngã lăn ra đất, bất tỉnh nhân sự.
Mụ nói:
– Thế là hết đời con đẹp nhất.
Rồi mụ vội vã ra về.
Tối đến bảy chú lùn về nhà, thấy Bạch Tuyết nằm xoài trên mặt đất, không động đậy thì hoảng sợ lắm. Họ nhấc cô lên, thấy áo lót buộc chặt quá, bèn cắt đôi ra. Cô lại khe khẽ thở, rồi dần dần sống lại. Sau khi nghe cô kể chuyện vừa xảy ra, các chú lùn bảo cô:
– Bà già bán hàng kia đúng là mụ hoàng hậu độc ác. Từ rày cô phải cẩn thận, chúng tôi vắng nhà thì chớ có cho ai vào nhé.
Về tới nhà, mụ dì ghẻ vội đến trước gương và hỏi:
Gương kia ngự ở trên tường,Nước ta ai đẹp được dường như ta?
Gương đáp:
Xưa kia bà đẹp nhất trần,
Ngày nay Bạch Tuyết muôn phần đẹp hơn.
Nàng ở khuất núi khuất non,
Tại nhà của bảy chú lùn xa xa.
Nghe nói vậy, hoàng hậu cảm thấy máu sôi lên vì căm giận, mụ biết là Bạch Tuyết đã được cứu sống lại. Mụ nói: “Được rồi, thế nào tao cũng lập mưu trừ được mày”. Rồi mụ phù phép làm một cái lược có thuốc độc và mặc giả làm một bà lão khác lần trước.
Mụ vượt bảy ngọn núi đi đến nhà bảy chú lùn, gỗ cửa và nói:
– Bà có hàng đẹp bán đấy.
Bạch Tuyết ngó qua cửa sổ, nói to:
– Bà đi đi, tôi không được phép cho ai vào đâu.
Mụ già nói:
– Thì ai cấm con xem cơ chứ?
Rồi nó giơ cho Bạch Tuyết xem cái lược có thuốc độc.
Cô thích cái lược quá, xiêu lòng chạy ra mở cửa. Mụ già nói:
– Để bà chải cho đẹp nhé.
Bạch Tuyết chẳng ngần ngại gì, để cho mụ chải đầu. Lược mới đụng vào tóc, Bạch Tuyết đã bị độc, ngã lăn ra bất tỉnh nhân sự.
Con mụ gian ác nói:
– Thế là cô gái đẹp tuyệt vời đã đi đời nhà ma.
Rồi mụ bỏ đi.
May sao bấy giờ đã muộn. Chẳng mấy chốc, bảy chú lùn về. Thấy Bạch Tuyết nằm chết cứng dưới đất, họ nghi ngay thủ phạm là mụ dì ghẻ. Họ tìm thấy cái lược trên đầu Bạch Tuyết. Vừa gỡ lược ra thì Bạch Tuyết sống lại ngay, kể lại sự việc cho các chú nghe. Các chú dặn cô phải cẩn thận. Bất cứ ai đến cũng đừng mở cửa cho vào.
Hoàng hậu về nhà soi gương hỏi:
Gương kia ngự ở trên tường,
Nước ta ai đẹp được dường như ta?
Gương vẫn trả lời như trước:
Xưa kia bà đẹp nhất trần,
Ngày nay Bạch Tuyết muôn phần đẹp hơn.
Nàng ở khuất núi khuất non,
Tại nhà của bảy chú lùn xa xa.
Nghe thấy thế, hoàng hậu tức điên lên, thét lên:
– Con Bạch Tuyết, mày phải chết.
Mụ vào một cái phòng rất kín trong lâu đài, nơi không ai được bước chân tới. Mụ tẩm thuốc độc vào một quả táo. Quả táo trông rất ngon, nửa đỏ nửa trắng, ai thấy cũng muốn ăn, nhưng cắn một miếng là chết tươi.
Sau khi đã chuẩn bị quả táo, mụ bôi mặt, ăn mặc giả làm một bà nông dân, vượt bảy ngọn núi đến nhà bảy chú lùn. Mụ gõ cửa.
Bạch Tuyết thò đầu qua cửa sổ, nói:
– Tôi không được phép cho ai vào đâu. Bảy chú lùn đã cấm rồi.
Mụ nông dân kia bảo:
– Thôi cũng được. Tôi có nhiều táo lắm. Để tôi cho cô một quả.
Bạch Tuyết nói:
– Không, cháu không được phép lấy gì đâu.
Mụ già nói:
– Cô sợ ăn phải thuốc độc ư? Trông đây này, tôi bổ quả táo ra làm đôi, cô ăn nửa đỏ chín rất đẹp, tôi ăn nửa trắng nhé.
Mụ già bỏ thuốc độc vào quả táo rất khéo, chỉ nửa đỏ có thuốc độc thôi. Bạch Tuyết thèm ăn quả táo quá, thấy mụ ăn táo mà không sao cả, cô bèn cầm lấy phần mụ đưa. Cô vừa cắn một miếng thì ngã lăn ra chết. Mụ gườm gườm nhìn cô, cười khanh khách, nói:
– Trắng như tuyết, đỏ như máu, đen như mun, lần này những thằng lùn hết đường cứu sống mày.
Khi về đến cung hoàng hậu hỏi :
Gương kia ngự ở trên tường,
Nước ta ai đẹp được dường như ta?
Gương đáp:
– Tâu hoàng hậu, hoàng hậu đẹp nhất nước ạ.
Lúc đó, lòng mụ mới được thư thái, sự thư thái của kẻ đố kỵ.
Những chú lùn về nhà thấy Bạch Tuyết đã tắt thở nằm dài trên mặt đất. Họ nâng cô dậy, tìm xem có dấu vết chất độc nào không. Họ nới áo cho cô, chải đầu cho cô, lấy nước và rượu tắm rửa cho cô, nhưng chẳng ăn thua gì, cô chết thật rồi. Họ đặt cô lên giường. Cả bảy người ngồi quanh thi hài than khóc ròng rã ba ngày. Họ muốn chôn cô, nhưng thấy sắc mặt cô tươi, má cô ửng hồng như người sống, thì nói: “Ai nỡ vùi cô xuống đất đen”. Họ đặt xác cô vào một cỗ quan tài bằng thủy tinh, trông rõ mồn một, và khắc tên cô bằng chữ vàng, đề rõ cô là một nàng công chúa. Rồi họ đem quan tài lên núi, cắt phiên nhau canh gác. Đến cả loài vật cũng đến viếng Bạch Tuyết, trước hết là cú, rồi đến quạ, sau cùng là chim bồ câu.
Xác Bạch Tuyết để trong quan tài đã lâu mà sắc mặt vẫn tươi như ngủ, da vẫn trắng như tuyết, môi vẫn đỏ như máu, tóc đen như gỗ mun.
Một hôm, có Hoàng tử đi rừng về muộn, tới nhà các chú lùn xin ngủ nhờ. Hoàng tử trông thấy trên núi có chiếc quan tài trong có Bạch Tuyết, ngoài đề chữ vàng. Hoàng tử liền bảo các chú lùn:
– Các chú để cho ta cái quan tài kia, muốn lấy bao nhiêu ta cũng trả.
– Hoàng tử có trả chúng tôi một núi vàng, một biển bạc chúng tôi cũng không bán.
Hoàng tử nói:
– Thế thì các chú biếu ta vậy. Ta sẽ yêu nàng và chăm sóc nàng, coi nàng là người yêu của ta.
Nghe Hoàng tử nói thế, các chú lùn tốt bụng động lòng thương và bằng lòng cho. Hoàng tử sai thị vệ khiêng quan tài đi. Người khiêng vấp phải rễ cây, làm nẩy người Bạch Tuyết lên. Bạch Tuyết nôn miếng táo có thuốc độc ra.
Tức thì nàng sống lại, mở mắt, nâng nắp quan tài lên, ngồi nhỏm dậy, kêu lên:
– Trời ơi, đây là đâu?
Hoàng tử mừng rỡ nói:
– Nàng ở đây với ta.
Rồi Hoàng tử kể cho Bạch Tuyết nghe đầu đuôi câu chuyện.
Hoàng tử nói tiếp:
– Ta yêu nàng nhất đời. Nàng hãy về cung điện vua cha với ta, ta sẽ cưới nàng làm vợ.
Bạch Tuyết vui vẻ theo gót Hoàng tử về cung. Lễ cưới được cử hành rất long trọng.
Mụ dì ghẻ gian ác của Bạch Tuyết cũng được mới đến dự tiệc. Mụ ăn mặc lộng lẫy, đến gương soi và hỏi:
Gương kia ngự ở trên tường,
Nước ta ai đẹp được dường như ta?
Gương đáp:
Tâu bà, bà đẹp tuyệt trần,
Nhưng bà hoàng mới muôn phần đẹp hơn.
Mụ dì ghẻ giận run lên. Mới đầu mụ toan không đi ăn cưới, nhưng mụ đứng ngồi không yên, sốt ruột đi xem mặt cô dâu.
Mụ bước vào và nhận ra ngay Bạch Tuyết, sợ quá đứng thần người ra, không nhúc nhích được, rồi quả tim độc ác của mụ vỡ tan, mụ lăn ra chết.
Nàng công chúa và hạt đậu
Ngày xưa, có một hoàng tử muốn cưới một nàng công chúa, nhưng công chúa phải cho ra công chúa, phải hoàn thiện toàn mỹ. Hoàng tử bèn chu du khắp thiên hạ để kén vợ. Công chúa thì chẳng thiếu gì, nhưng nàng nào cũng có vài nhược điểm hoặc tật xấu. Thế là một ngày kia, hoàng tử đành buồn rầu trở về nhà.
Đến tối, nổi lên một cơn giông tố kinh khủng. Mưa ào ào như xối. Có tiếng gõ cửa lâu đài. Lão vương thân chinh ra mở cửa.
Bên ngoài là một nàng công chúa, nhưng mưa gió đã làm cho nàng tiều tụy quá thể. Đầu tóc, quần áo nàng võng những nước và còn nhỏ giọt từ mũi xuống giầy nàng. Nàng tự giới thiệu nàng là công chúa toàn thiện toàn mỹ mà hoàng tử đang chờ đợi. Hoàng hậu nghĩ thầm: “Được, cứ để xem xem !”. Rồi hoàng hậu vào buồng ngủ thắp đèn lên và nhét một hạt đậu xuống dưới đệm giường. Sau đó ngài đặt hai mươi cái đệm chồng lên trên cái đệm đã đặt trước. Đấy chính là cái giường dành cho công chúa.
Sáng ra người ta hỏi thăm đêm qua nàng ngủ có yên giấc không. Nàng đáp:
– Suốt đêm tôi không chợp mắt, vì nằm phải vật gì răn rắn, thâm tím cả mình mẩy.
Hoàng hậu bèn phán:
– Công chúa ra công chúa thật ! Đây chính là nàng công chúa toàn thiện toàn mỹ, nằm trên hai mươi lần đệm nàng vẫn thấy đau vì một hạt đậu.
Hoàng tử cưới nàng làm vợ và hạt đậu được bày trong một phòng triển lãm, đến giờ vẫn vào xem được, vì chưa có ai lấy đi cả.
Người đẹp và quái vật
Ngày xưa, có một người lái buôn rất giàu có, ông sinh ra ba người con trai và ba cô con gái. Cả ba cô con gái đều xinh đẹp, nhưng đứa con gái út, Belle, là người xinh đẹp nhất, tốt bụng nhất và được cha yêu quý nhất. Cuộc sống gia đình ông gặp khó khăn, khi những con thuyền lớn của ông gặp nạn, và cả nhà phải từ bỏ căn biệt thự huy hoàng để dời đến tạm lánh trong một ngôi làng hẻo lánh.
Một hôm, người cha nghe tin một trong những con tàu của ông thoát được, và quyết định lên đường đến bến cảng mong vớt vát lại được một ít của cải. Trước khi đi, ông đã hỏi hỏi các con gái muốn gì. Cô thứ nhất và cô thứ hai muốn trang sức, còn Belle muốn một bông hoa hồng. Thế nhưng, do số tài sản mất mát quá lớn, đến khi ông dùng hết mọi thứ còn lại để trả nợ thì không còn một xu dính túi, cũng vì thế không thể mua các thứ đồ mà các con gái ông yêu cầu. Khi trở về, ông bị lạc trong cơn bão tuyết và không biết bằng cách nào đã đi đến một tòa lâu đài.
Dường như có một thế lực vô hình ngầm chào đón người đàn ông đi lạc, và người lái buôn sau một khoảng thời gian vất vả chưa kịp ăn uống, ông đã chén sạch toàn bộ thức ăn và đồ uống được chủ nhân tòa lâu đài tiếp đãi. Ông quyết định ngủ một đêm tại đó. Sáng hôm sau, ông ra vườn tình cờ thấy một vườn hồng và nhớ đến yêu cầu của Belle, ông quyết định ngắt một bông hoa. Đột ngột, một quái thú xuất hiện và nói rằng sau khi tiếp nhận lòng mến khách của hắn đêm qua, ông lão sẽ phải chết. Người đàn ông tội nghiệp van xin và nói rằng chỉ xin một bông hồng cho cô con gái yêu quý. Sau khi nghe người lái buôn kể mọi chuyện, quái thú ra lệnh phải đưa một trong những người con gái của ông đến đây, nếu không toàn bộ gia đình ông sẽ bị giết. Trước khi đi quái thú còn tặng những hòm rương chứa đầy đủ những vật phẩm mà các người con của ông yêu cầu trước khi lên đường.
Về nhà, người lái buôn kể lại mọi chuyện cho tất cả những đứa con của mình. Khi những đứa con trai tình nguyện đến tòa lâu đài và chiến đấu với quái thú, thì Belle do cảm thấy là do lỗi của mình, quyết định thẳng thắng đến tòa lâu đài để thế mạng cho cha. Khi Belle đến nơi, cô được quái thú tiếp đãi chu đáo, hằng ngày đều có đồ ăn thức uống tuyệt hảo và những bộ quần áo lộng lẫy, kèm theo đó là lời ngỏ muốn Belle làm vợ hắn. Cô hết lần này đến lần khác, và đêm nào cũng đi vào giấc mộng thấy một vị Vương tử tuấn tú hỏi những câu hỏi như kiểu vì sao cô lại từ chối gả cho hắn. Belle hết lần này đến lần khác trả lời rằng cô cũng có cảm tình với Quái thú nhưng chỉ giới hạn là bạn bè. Khi tỉnh lại, cô cho rằng vị Vương tử đang bị Quái thú giam giữ và lùng sục khắp lâu đài để tìm thấy chàng ta.
Nhiều tháng về sau, Belle không ngừng được cung phụng bởi Quái thú. Những bữa tiệc hoành tráng, những món trang sức và áo váy đắt tiền, nhưng Belle chỉ ngày càng tăng nỗi nhớ nhà mà thôi. Cô quyết định cầu xin Quái thú cho cô về thăm nhà, và Quái thú đồng ý với điều kiện phải quay lại đây đúng một tuần sau. Quái thú tặng cô một chiếc gương giúp cô thấy được việc gì diễn ra với Quái thú và một chiếc nhẫn giúp cô quay lại lâu đài ngay lập tức khi xoay 3 vòng quanh ngón tay. Khi cô trở về, cả nhà vui mừng, các chị cô thì ghen tị khi thấy cô được cuộc sống giàu sang, và quyết định kì kèo cô ở lâu hơn, vì họ hy vọng như vậy Quái thú sẽ nổi giận và ăn thịt Belle. Vốn yếu lòng, Belle đành chìu theo những lời ngon ngọt của hai người chị gái.Vài ngày sau khi giới hạn đã qua, Belle cảm thấy tội lỗi vì phá vỡ lời hứa, bèn nhìn qua chiếc gương xem Quái thú thế nào. Cô hốt hoảng khi thấy Quái thú đang bán thân bất toại, chỉ còn thoi thóp bên cạnh bụi hồng, nơi mà cha cô đã bứt một cành hồng lúc trước. Belle không suy nghĩ gì mà dùng chiếc nhẫn để quay lại ngay bên cạnh Quái thú.
Ôm Quái thú đang hấp hối trong lòng, Belle khóc và thú nhận cô yêu hắn. Giọt nước mắt cô rơi xuống, thì Quái thú chuyển thành vị Vương tử tuấn tú mà cô gặp trong giấc mơ. Tỉnh dậy, Quái thú - vị Vương tử thật sự, đã cho Belle biết rằng chàng vốn là vị Vương tử quyền uy của lâu đài này, do từ chối giúp đỡ một bà tiên mà bị biến thành Quái thú gớm ghiếc và chỉ khi tìm được tình yêu đích thực thì mới quay lại làm người.
Nàng công chúa tóc mây
Ngày xưa có một đôi vợ chồng nghèo sống ở một ngôi nhà nhỏ nhắn ven rừng. Một hôm người vợ thấy cạnh nhà có một giống hoa màu tím lạ, nên nài nỉ bắt ông chồng hái cho được bông hoa đấy.
Thương vợ người chồng leo qua tường hái bông hoa ấy. Nhưng người chồng không ngờ rằng đây là khu vườn của mụ phù thủy. Bà ta bắt gặp người chồng hái trộm nên ra điều kiện:
– Nếu ngươi chịu giao đứa con đầu lòng của ngươi cho ta, ta sẽ tha cho ngươi.
Quá sợ lời nguyền của mụ phù thủy nên người vợ đành chấp nhận lời đề nghị của mụ. Năm ấy người vợ hạ sinh một đứa con gái và vợ chồng họ đành giao đứa con gái đầu lòng của mình cho mụ ta.
Thời gian trôi qua cô bé càng lớn càng xinh đẹp nhất là bộ tóc dài vàng óng mượt. Sợ nàng trốn thoát mụ phù thủy đã đem nàng nhốt trên một ngọn tháp cổ rất cao. Mỗi khi về tới nhà mụ phù thủy lại gọi:
– Tóc dài! Tóc dài!
Thế là cô gái thả mái tóc xuống để mụ phù thủy leo lên. Ở trên tháp cổ một mình ngày nào cô gái tóc dài cũng cất cao tiếng hát để xua đi nỗi cô quạnh.
Một hôm có vị hoàng tử cưỡi ngựa đi ngang qua chợt nghe thấy tiếng hát của nàng. Chàng tò mò đến gần và thấy sự kiện lạ lùng khi thấy mụ phù thủy leo lên và leo xuống cái tháp bằng mái tóc dài của nàng.
Chờ mụ ta đi khuất chàng đến bên tháp bắt chước làm theo mụ phù thủy. Khi gặp được cô gái tóc dài, Hoàng tử cùng cô gái đàn ca vui vẻ họ trở nên thân thiết nhau hơn. Và chàng hẹn với cô gái hôm sau sẽ quay trở lại nữa.
Tối đến khi mụ phù thủy trở về nhà, cô gái đã thật thà kể lại hết câu chuyện cho mụ phù thủy nghe. Bà ta tức giận cắt mái tóc dài của cô gái cột vào cửa sổ. Rồi bà ta dắt cô gái bỏ vào rừng sâu.
Sáng hôm sau hoàng tử lại đến và leo lên tháp. Chàng gặp mụ phù thủy đứng bên cửa sổ và biết là mình đã bị lừa. Mụ phù thủy cười khoái trá và cắt mái tóc để hoàng tử rơi từ trên cao xuống. Nhưng rất may chàng lại rơi trên đống tóc dài mà mụ đã cắt đi. Còn mụ phù thủy lúc này mới nhận ra rằng mình không còn cách nào để leo xuống và bị nhốt trên tháp cao suốt cuộc đời.
Đến lúc này thì Hoàng tử chạy đi tìm cô gái ở khắp nơi, bất chợt nàng nghe văng vẳng tiếng hát của nàng ở mãi tận rừng sâu. Chàng vui mừng thúc ngựa chạy mau vào rừng và gặp lại cô gái.
Chàng vui mừng dẫn nàng về ra mắt vua cha và xin với vua cha được cưới cô gái tóc dài làm vợ. Từ đó họ sống bên nhau thật hạnh phúc. Và nàng cũng đã tìm lại được cha mẹ nghèo khó của mình nơi xa xôi sau bao năm xa cách.
Bầy chim thiên nga
Ở nơi xa, xa đây lắm, nơi chim nhạn bay đến vào mùa thu, có một nhà vua có mười một con trai và một con gái tên là Li-dơ. Mười một con trai trẻ tuổi ấy đều đeo thánh giá trên ngực và gươm bên mình. Ở trường, họ viết trên những tấm bảng bằng vàng với những con dao nhọn bằng kim cương, họ đọc thông và rất thuộc bài. Họ thật xứng đáng là những hoàng tử.
Cô em út, nàng Li-dơ, thường ngồi trên một chiếc ghế bằng thủy tinh, tay cầm một cuốn sách có nhiều tranh vẽ, riêng cuốn sách ấy cũng đáng giá bằng nửa giang sơn của bất cứ một vua chúa nào. Họ sống rất sung sướng, nhưng chẳng được bao lâu.
Vua cha góa vợ. Ngài tục huyền với một bà hoàng hậu độc ác, bà chẳng yêu những đứa trẻ đáng thương kia chút nào, ngay từ ngày đầu, lũ trẻ đã cảm thấy như vậy. Hôm ấy, ở lâu đài mở hội và lũ trẻ được tham dự. Nhưng thay vì bánh ngọt và táo nấu chín mà các hoàng tử và công chúa thường được ăn, hoàng hậu chỉ cho họ ăn cát và bảo rằng đối với họ như vậy là tốt lắm rồi.Tuần sau, mụ sai người dẫn cô bé đến ở trong một gia đình nông dân. Chỉ trong một thời gian ngắn, mụ đã tìm cách làm cho vua cha hết thương con và chẳng lưu ý gì đến họ nữa.Mụ ấy chính là một tay phù thủy. Một hôm, mụ nói với mười một hoàng tử:
- Chúng mày hãy cút khỏi nơi đây, đi khắp thế gian mà kiếm ăn như những con chim đã đủ lông đủ cánh.
Nhưng mụ không thể làm hại họ như mụ mong ước vì họ đã biến thành một bầy thiên nga lộng lẫy, vừa bay qua vườn thượng uyển và cánh rừng gần đấy vừa cất lên những tiếng kỳ quái.
Đến sáng, bầy thiên nga bay qua túp lều, nơi công chúa Li-dơ đang ngủ trên chiếc giường xinh xắn. Bầy thiên nga lượn trên mái nhà, vươn cổ ra và vỗ cánh ầm lên, nhưng chẳng ai nhìn thấy và nghe thấy gì cả. Bầy thiên nga tiếp tục bay, bay tít trên cao giữa các tầng mây, mỗi lúc một xa.
Cả bầy bay về phía khu rừng âm u dọc bờ biển.
Cô bé Li-dơ ở lại túp lều tranh. Chẳng có trò chơi gì khác, cô chơi với mấy chiếc lá xanh. Cô lấy kim chọc vào một lá và nhìn qua lỗ lên mặt trời. Cô tưởng tượng thấy những cặp mắt sáng ngời của các anh và mỗi lần ánh nắng rọi vào má, cô tưởng đó là những chiếc hôn nồng cháy của các anh cô.
Những ngày buồn bã lần lượt trôi qua. Khi gió thổi qua bụi hồng trước nhà, gió hỏi hồng:
- Còn ai đẹp hơn các bạn nữa không?
Cả khóm hồng vừa lắc lư vừa nói:
- Có chứ, có nàng Li-dơ!
Chủ nhật, khi bà cụ nông dân ngồi đọc kinh trên ngưỡng cửa, gió đến giở các trang sách và hỏi:
- Còn có ai ngoan đạo hơn sách không?
- Có chứ, có nàng Li-dơ! - Quyển sách đáp và hoa hồng cũng bảo là đúng như thế.
Khi lên mười lăm tuổi Li-dơ được trở về cung vua. Nhưng khi hoàng hậu thấy nàng đã trở nên muôn phần xinh đẹp, mụ lại không nén nổi lòng tức giận. Mụ muốn biến nàng thành thiên nga, nhưng mụ không dám, vì đức vua muốn gặp mặt công chúa.
Sáng sớm hôm sau, hoàng hậu vào phòng tắm làm toàn bằng đá hoa, có nệm êm và thảm rực rỡ phủ khắp phòng. Mụ bắt ba con cóc, hôn chúng và bảo con thứ nhất:
- Cóc hãy nhảy lên đầu con Li-dơ lúc nó vào tắm làm cho nó cũng sẽ đần độn như cóc.
Rồi mụ dặn con thứ hai:
- Cóc hãy bám vào trán nó, làm cho nó xấu xí như cóc để cha nó không nhận ra nó nữa.
Sau cùng, mụ nói với con thứ ba:
- Cóc hãy bám vào tim nó, gợi cho nó những ý nghĩ xấu để cho nó và những kẻ khác phải khổ sở.
Nói rồi, mụ thả ba con cóc vào nước làm nước biến ngay thành màu xanh ngắt, mụ gọi nàng Li-dơ vào, cởi quần áo cho nàng và bắt
nàng phải tắm. Khi Li-dơ vừa bước vào bồn nước thì con cóc thứ nhất bám vào tóc nàng, con thứ hai bám vào trán nàng và con thứ ba bám vào ngực nàng.
Hình như Li-dơ không biết gì cả và khi nàng bước ra khỏi bồn nước thì ba đóa hoa anh túc nổi lềnh bềnh trên mặt nước. Nếu cóc không có nọc độc và mụ phù thủy không ôm hôn chúng thì chúng đã biến thành ba bông hồng. Tuy nhiên, chúng cũng đã biến thành hoa vì chúng đã bám vào đầu và tim nàng Li-dơ. Vì nàng rất ngoan đạo và tâm hồn rất trong trắng nên ma thuật không thể làm gì được nàng.
Khi mụ hoàng hậu độc ác thấy thế mụ bèn lấy nhựa vỏ trái hồ đào sát vào người Li-dơ làm cho nàng đen thui đi, mụ còn xoa thuốc mỡ thối vào mặt nàng và làm rối bù bộ tóc dài và đẹp của nàng. Không còn có thể nhận ra nàng Li-dơ xinh đẹp nữa.
Khi vua cha nhìn thấy nàng, ngài khiếp sợ và tuyên bố rằng nàng không phải là con gái mình. Chẳng ai muốn nhận nàng, ngoài con chó giữ nhà và đàn chim nhạn, nhưng chúng chỉ là những con vật khốn nạn, có nói cũng chẳng ai thèm nghe.
Nàng Li-dơ đáng thương khóc sướt mướt và nghĩ đến các anh nàng. Nàng buồn bã trốn khỏi cung vua, lang thang suốt ngày ngoài đồng và cuối cùng nàng đi tới một khu rừng lớn. Nàng chẳng biết rồi sẽ đi đến đâu nữa. Tuy nhiên, trong lúc buồn nản, nàng vẫn luôn luôn muốn đi tìm các anh nàng, giờ đây chắc hẳn cũng đang lang thang khắp thiên hạ như nàng.
Nàng vừa đi được vài bước trong rừng thì trời sắp tối. Nàng bị lạc và chẳng còn có thể tìm thấy đường nữa. Nàng nằm xuống đám rêu, cầu kinh xong thì gối đầu lên một rễ cây. Mọi vật im lìm. Không khí êm dịu. Quanh nàng, trong vòm lá, hàng trăm đom đóm lấp lánh nom như những đốm lửa xanh. Khi nàng lắc một cành cây thì trông thật giống như một trận mưa sao rơi xuống.
Suốt cả đêm nàng mơ tưởng đến các anh. Nàng mơ thấy nàng và các anh nàng đang chơi đùa lúc còn ấu thơ, viết lên những tấm bảng bằng vàng với những con dao nhọn bằng kim cương và xem cuốn sách có nhiều tranh vẽ đáng giá bằng nửa giang sơn của bất kỳ một vị vua chúa nào. Nhưng trên bảng, họ không những chỉ viết những con số không hoặc gạch dưới những nét cổ mà còn viết những thành công của họ và tất cả những gì họ đã trông thấy hoặc đã xảy ra trong quãng đời phiêu bạt của họ.
Trong cuốn sách tất cả người và vật vẽ trong các tranh đều cử động. Chim ca hát. Người bước ra khỏi tranh để nói chuyện với Li-dơ và các anh nàng. Mỗi lần người xem giở sang trang khác, người và vật trong tranh không bị xáo trộn.
Khi Li-dơ tỉnh dậy, mặt trời đã lên cao quá chân trời. Nàng không nhìn rõ mặt trời, vì những gốc cây lớn tỏa cành rậm rạp xuống đến tận đầu nàng. Nhưng những tia nắng cũng xuyên kẽ lá và lấp lánh như những đóa hoa bằng vàng.
Không khí ngát hương thơm. Chim ca hót và bay đến đậu trên vai nàng công chúa. Nàng nghe thấy tiếng nước róc rách, trên các dòng suối và đổ vào một cái đầm, cây lá xanh rờn bao quanh. Quanh đầm toàn là bụi cây rậm, nhưng có một quãng, hươu nai đi lại thành lõng nên Li-dơ có thể theo đấy mà đến tận bờ đầm. Nàng nhìn xuống. Nước trong vắt và từng chiếc lá in hình rất rõ trên mặt nước đến nỗi, nếu gió không làm rung cây, người ta có cảm tưởng như cành lá được họa lên trên đáy ao.
Chợt nhìn thấy bóng mình trong nước, nàng ghê sợ vì thấy mặt mày đen thui xấu quá đi mất. Nàng lấy bàn thay xinh xắn vốc nước vuốt lên mắt và lên trán, da dẻ nàng trở lại trắng trẻo như cũ. Nàng cởi quần áo lội xuống nước. Chưa bao giờ có một nàng công chúa đẹp đến thế. Sau khi mặc quần áo xong, nàng uống một ngụm nước suối, rồi đi sâu vào rừng thẳm, cũng chả biết là sẽ đi đến đâu cả.
Nàng tưởng nhớ đến các anh, đến Thượng Đế chí nhân. Chắc chắn là người sẽ không bao giờ bỏ rơi nàng. Người sinh ra những cây táo dại dành cho kẻ đói và nàng đã run rủi tìm được một cây trĩu quả. Nàng dừng lại ăn táo rồi lại lên đường. Cảnh vật im phăng phắc đến nỗi nàng nghe thấy cả bước chân nàng đi và tiếng lá rào rạo dưới chân nàng. Không có lấy một bóng chim. Không có lấy một tia sáng xuyên qua những cành cây to lớn rạm rạp. Nhìn xa những cây cao mọc sít vào nhau, như một hàng rào sắt.
Chưa bao giờ Li-dơ thấy một cảnh tĩnh mịch như vậy...
Đêm đến, nàng càng lo ngại. Trong rêu chẳng có lấy một con đom đóm nào. Nàng nấp vào một nơi để ngủ. Nàng mơ thấy vòm lá rẽ ra và Thượng Đế chí nhân đang nhìn nàng, các tiên đồng xinh xắn đáng yêu đang bay lượn trên đầu nàng. Sáng hôm sau, khi tỉnh dậy, nàng chẳng còn biết rằng đã nằm mơ hay đã chứng kiến một cảnh thật.
Nàng lại lên đường. Đi được mấy phút nàng gặp một bà lão tay mang một giỏ đầy mận. Bà cho Li-dơ mấy quả, nàng hỏi bà có thấy mười một hoàng tử qua cánh rừng không?
- Không - Bà cụ trả lời - Nhưng hôm qua ta đã trông thấy mười một con thiên nga, mỗi con đội một chiếc mũ miện bằng vàng, đỗ xuống bơi lội trên dòng suối gần đấy.
Bà đưa Li-dơ đến một bờ suối. Những cành cây dài rậm lá hai bên bờ suối giao nhau thành một cái nôi trên mặt nước. Li-dơ chia tay bà cụ và đi men suối tới tận quãng suối đổ ra đại dương. Trước mắt nàng là biển cả mênh mông, xanh ngắt, không một cánh buồm, một bóng thuyền. Làm thế nào mà đi xa hơn nữa bây giờ?
Nàng ngắm những hòn đá cuội trên bờ bể, nhiều vô kể, nước biển đã mài tròn đi. Thủy tinh, sắt, đá, tất cả những vật gì trôi dạt đến đấy đều bị nước mài nhẵn thín, mịn như bàn tay của nàng công chúa.
- Đại dương - Nàng nghĩ thầm - đã đẩy mọi vật lăn không ngừng và cuối cùng trở nên trơn tru. Ta cũng muốn không bao giờ mệt mỏi.
Làn sóng trong vắt! Ta hiểu sóng muốn dạy ta điều gì rồi. Một ngày kia nhất định ta sẽ tìm thấy các anh ta.
Nàng nhìn thấy giữa đám rong bể mười một chiếc lông thiên nga. Nàng lượm lấy, chắp thành một bó. Nhiều giọt nước lấp lánh trên lông.
Chẳng hay đó là nước biển, hay là nước mắt? Nàng đứng một mình trên bờ biển, nhưng không để ý đến điều đó, nàng mê mải ngắm nhìn cảnh biến đổi không ngừng của biển cả. Khi có một đám mây đen bay tới, biển như muốn bảo nàng:
- Coi chừng, ta sắp bực mình đây.
Khi gió nổi, sóng biển ngầu bọt lên. Khi mây đỏ sẫm lại, gió lặng xuống thì biển trông như một khối đá hoa màu hồng. Nước biển khi xanh, khi trắng, nhưng dù biển lặng đến đâu, lúc nào cũng có tiếng nước vỗ nhè nhẹ bên bờ. Nước nhẹ nhàng dâng lên hạ xuống như lồng ngực của một đứa trẻ đang ngủ.
Khi mặt trời lặn, Li-dơ nhìn thấy ở chân trời hiện ra mười một con thiên nga lớn, lông trắng, đầu đội mũ miện bằng vàng, đang bay về phía đất liền. Chúng bay nối đuôi nhau thành hình một dải trắng dài.
Nàng chạy đến một quãng bờ cao và nấp sau một bụi cây. Đàn thiên nga sà xuống gần nơi nàng và vỗ những bộ cánh rộng và trắng. Khi mặt trời vừa lặn, bỗng lông chim rụng hết và Li-dơ thấy hiện ra mười một hoàng tử xinh đẹp, các anh nàng. Nàng reo to lên, mặc dù họ đã biến đổi nhiều, nhưng nàng cảm thấy ngay đấy chính là các anh nàng. Nàng chạy lại ôm chầm lấy họ và tíu tít gọi tên từng người. Khi họ nhận ra cô em út, giờ đã lớn và xinh đẹp hơn xưa, họ mừng quýnh lên. Họ vừa cười vừa khóc và thuật lại sự độc ác của mụ dì ghẻ. Hoàng tử cả nói:
- Các anh bắt buộc phải bay lượn suốt ngày, chỉ được trở lại thành người khi mặt trời lặn, do đó các anh phải bay sát đất liền vào lúc gần tối. Nếu lúc ấy các anh còn bay trên cao thì các anh sẽ rơi xuống đất.
Đây không phải là nơi mà các anh ở, các anh ở bên kia biển có trong một xứ sở cũng đẹp như xứ sở này. Đường sang nơi ấy rất xa, phải vượt qua đại dương và nửa đường không có hòn đảo nào để có thể ngủ đỗ lại được. Ở chính giữa đại dương chỉ có một tảng đá mà các anh có thể chen chúc nhau mà nghỉ chân. Khi có thủy triều, nước dâng lên tận chỗ các anh đậu, tuy thế các anh vẫn đội ơn Thượng Đế đã đặt ở đấy một tảng đá để các anh có chỗ nghỉ đêm khi trở lại thành người. Không có tảng đá ấy, các anh không thể nào trở lại Tổ quốc, vì muốn vượt đại dương, mỗi năm các anh phải bay trong hai ngày, hai ngày dài nhất trong một năm. Mỗi năm một lần các anh được phép về đây và nghỉ lại mười một ngày. Lúc đó các anh bay lượn trên khu rừng lớn, các anh nhìn tòa lâu đài nơi chôn rau cắt rốn của chúng ta và nơi cha chúng ta đang ở, nhìn vào gác chuông nhà thờ cao vút, gần đấy là nơi mẹ thân yêu của chúng ta đang yên nghỉ. Nơi đây cây cối và bờ bụi đều là những người đốt than hát lên những bài hát cổ đã giúp cho chúng ta nhảy múa khi chúng ta còn bé. Hình như có cái gì thu hút các anh về chốn này, và cuối cùng các anh lại tìm thấy em, em gái bé nhỏ của các anh! Các anh còn ở đây hai ngày, rồi lại phải vượt biển để quay về xứ sở xinh đẹp, xa lạ kia. Hay là các anh đưa cả em đi. Nhưng các anh chẳng có tàu bè gì cả, biết làm thế nào?
- Em có thể làm cách nào cứu được các anh không? - Nàng Li-dơ hỏi.
Và họ chuyện trò gần suốt đêm. Họ chỉ ngủ được trong giây lát. Bỗng có tiếng cánh chim đập trên đầu làm Li-dơ tỉnh giấc. Đó là mười một hoàng tử lại biến thành thiên nga đang bay lượn vòng trên đầu nàng. Họ bay lên, bay cao mãi, rồi bay xa. Nhưng một hoàng tử, cậu út, ở lại một mình bên em gái. Cậu rúc đầu vào lòng nàng, còn nàng thì vuốt ve bộ lông thiên nga của cậu. Họ ở bên nhau suốt cả ngày hôm ấy. Đến chiều các anh khác bay về và khi mặt trời vừa lặn, họ lại trở thành người. Người anh cả nói:
- Ngày mai các anh phải đi và một năm nữa mới quay trở lại đây. Nhưng các anh không thể để em ở lại đây được. Em có can đảm đi theo các anh không? Cánh tay anh đã từng ẵm em qua rừng, cánh của tất cả các anh chắp lại chẳng lẽ lại không đủ sức để chở em qua bên kia biển cả hay sao?
Nàng út nói: - Vâng, các anh đem em đi với.
Suốt đêm họ tết được một tấm lưới chắc chắn bằng cói và dây liễu. Li-dơ nằm ngủ trên tấm lưới ấy và, khi mặt trời vừa hiện ra, các anh nàng đã biến thành thiên nga, dùng mỏ kéo lưới bay lên mây, mang theo nàng em gái đang ngủ rất bình thản. Tia nắng rọi vào mắt nàng, một con thiên nga vội bay ngay lên phía trên, lấy bộ cánh rộng để che cho nàng ngủ. Khi Li-dơ tỉnh giấc thì họ đã bay rất xa khỏi đất liền. Bay cao trên mặt biển như thế, nàng cảm thấy đang sống một giấc mơ kì diệu. Bên cạnh nàng có một cành cây có quả và một bó rễ cây ăn được. Đó là hoàng tử út đã chăm lo đến việc ấy cho nàng. Nàng mỉm cười như để cảm ơn anh. Nàng nhận ra anh rất rõ, chính hoàng tử út lúc nãy đã bay trên lưới che nắng.
Lúc này họ bay cao đến nỗi chiếc tàu đầu tiên mà họ trông thấy giống như một con chim hải âu đậu trên mặt nước. Đằng sau họ có một đám mây lớn tựa như trái núi, nàng nom thấy bóng nàng và các hoàng tử rọi vào đám mây. Chưa bao giờ nàng thấy cảnh đẹp như vậy. Nhưng mặt trời càng lên cao, mây càng xa đi thì bóng cũng biến theo.
Họ bay suốt ngày không ngừng, như một mũi tên rít trong không gian. Nhưng họ bay chậm hơn thường ngày một chút vì còn phải khiêng cô em gái. Thời tiết bỗng xấu đi và trời đã sắp tối. Li-dơ lo lắng thấy vầng thái dương lặn xuống chân trời mà không hề thấy tảng đá nào nhô lên mặt biển. Nàng cảm thấy đàn thiên nga vỗ cánh mạnh hơn.
Trời! Nàng thầm nghĩ, nếu các anh ta không bay kịp đến nơi! Chính là lỗi tại ta rồi. Khi mặt trời lặn, các anh sẽ biến thành người và sẽ rơi tõm xuống biển chết đuối mất. Tự đáy lòng nàng cầu khẩn xin Thượng Đế cứu giúp. Nhưng họ vẫn chưa nhìn thấy tảng đá. Mây đen kéo đến, gió thổi mạnh báo hiệu một con giống tố. Mây tụ thành một đám xám xịt như chì. Chớp lóe liên hồi.
Mặt trời đã xuống tới mặt biển. Nàng Li-dơ cảm thấy trái tim tan vỡ. Có lúc đàn thiên nga chao xuống rất nhanh làm nàng tưởng như đang rơi xuống biển. Nhưng không, đàn thiên nga đã lượn lên. Mặt trời chìm một nửa xuống nước thì nàng thấy ngay hòn đảo bên dưới. Trông nó không lớn hơn một con hải cẩu đang thò đầu lên trên mặt nước. Mặt trời lặn nhanh, chỉ còn lại một dải sáng và mỏng ở phía chân trời khi nàng đặt chân lên tảng đá. Rồi ánh mặt trời vụt tắt như mảnh giấy cháy rụi.
Mười một hoàng tử và Li-dơ chen chúc nhau trên tảng đá, chỉ vừa đủ chỗ cho họ đặt chân. Sóng biển cao, vượt qua cả đầu họ. Trời sáng lóe lên như rực cháy và sấm sét nổ ran không ngớt. Nhưng mười hai anh em cầm tay nhau và hát những bài kinh nguyện để lòng thêm can đảm.
Sáng ra, không khí trong sạch và mát mẻ. Mặt trời vừa ló lên, đàn thiên nga lại cùng nàng Li-dơ bay đi. Biển vẫn còn động. Từ trên cao nhìn xuống ngọn sóng xanh sẫm ngầu bọt họ cảm thấy như hàng triệu con thiên nga đang rập rờn trên mặt nước. Khi mặt trời lên cao hơn nữa, nàng Li-dơ nhìn ra phía trước thấy trong không gian một dải đất toàn là núi non với những tảng băng lóng lánh. Nàng trông thấy một tòa lâu đài vĩ đại có những hàng cột chồng chất lên nhau bao quanh. Phía sau là một khu rừng sồi và rất nhiều vườn hoa. Li-dơ hỏi các anh có phải đấy là nơi mà các anh định đến không, nhưng đàn thiên nga lắc đầu.
Cảnh vật mà nàng trông thấy là tòa lâu đài tráng lệ, hình dáng luôn luôn thay đổi của bà tiên Morgan. Không một người nào có thể vào đấy được. Li-dơ mải ngắm phong cảnh tuyệt vời ấy, bỗng núi non, lâu đài, cây cối biến đi tất cả, và thay vào đó là hai mươi tòa nhà thờ hiên ngang, giống nhau như hệt, tòa nhà nào cũng có chòi cao và gác chuông tráng lệ.
Li-dơ tưởng như nghe thấy tiếng đại phong cầm, nhưng đó chỉ là tiếng thì thầm của biển cả. Nàng đang bay sát vào các nhà thờ bỗng các công trình ấy biến ngay thành một đoàn thuyền vĩ đại căng buồm lướt sóng rất nhanh rồi biến mất.
Những cảnh huyền ảo cứ như thế hiện ra suốt cuộc hành trình cho đến lúc họ nhìn thấy dải đất họ định bay tới. Nơi đó sừng sững những ngọn núi xanh lam cao ngất với những khu rừng đầy cây bá hương, những tòa lâu đài và nhiều thành phố. Trước khi mặt trời lặn rất lâu, Li-dơ đã được đặt xuống một tảng đá, ngay cửa một cái hang, nền đất phủ đầy dây leo như một tấm thảm tuyệt đẹp.
- Đêm nay em ước sẽ mơ thấy gì? - Hoàng tử út vừa hỏi vừa chỉ cho cô em gái phòng ngủ của nàng.
- Em cầu xin Thượng Đế cho em mơ thấy phép giải thoát cho các anh - Li-dơ đáp.
Ý nghĩ ấy không phút nào rời nàng cả. Nàng cầu xin Thượng Đế cứu giúp nàng. Khi đã ngủ thiếp đi, nàng vẫn cầu nguyện. Nàng mơ thấy như lại bay qua trong không gian, tới lâu đài bà tiên Morgan và bà ta tiến đến trước mặt nàng, đẹp một cách lộng lẫy, giống hệt như bà tiên đã cho nàng mấy quả mận và kể chuyện đàn thiên nga đội mũ miện cho nàng nghe khi nàng đi tới khu rừng.
- Các anh con có thể giải thoát được - Bà tiên nói - Nhưng liệu con có đủ can đảm và bền gan để cứu các anh con không? Nước còn mềm hơn đôi bàn tay thanh nhã của con, nhưng nước chảy đá cứng nhất cũng phải mòn. Có điều là nước sẽ không cảm thấy đau đớn như đôi bàn tay con sẽ phải chịu đựng. Nước không có tim nên không biết đau đớn như con. Con sẽ gặp nhiều nỗi gian nguy, con có thấy cành tầm ma ta cầm trong tay không?
Quanh cái hang con đang ngủ, tầm ma mọc nhiều lắm. Nhưng chỉ có loài tầm ma này và loài tầm ma mọc ở nghĩa địa mới dùng được, con chớ nên quên điều đó. Con phải đi hái cây ấy về và con sẽ bị phồng tay lên, đau đớn vô cùng. Con hãy lấy chân giẫm nát cây ra và sẽ được một loại sợi gai mà con sẽ dùng để dệt mười một chiếc áo dài tay.
Dệt xong con quàng áo lên mười một con thiên nga, và như vậy là phép ma sẽ tiêu tan. Nhưng con phải nhớ rằng từ lúc bắt đầu dệt cho đến khi dệt xong con không được nói một câu. Dù phải dệt bao nhiêu năm con cũng không được nói. Nếu con chỉ nói một tiếng thôi thì tiếng nói đó sẽ như một nhát dao đâm xuyên tim các anh con. Như vậy là tính mạng các anh con treo ở đầu lưỡi của con đó.
Bà tiên đặt cành tầm ma vào tay nàng Li-dơ và bàn tay nàng đau như bị bỏng. Nàng bừng tỉnh. Trời đã sáng rõ, bên nàng là cành tầm ma nàng đã mơ thấy. Nàng quỳ xuống tạ ơn Thượng Đế và ra khỏi hang, bắt đầu làm việc để cứu các anh.
Nàng hăm hở bẻ cây tầm ma, tay nàng cháy bỏng lên. Chẳng mấy lúc hai cánh tay nàng bị phồng cả lên. Nhưng nàng thản nhiên chịu đựng đau đớn, miễn là giải thoát cho các anh. Nàng lấy chân không giẫm nát cây tầm ma và bắt đầu dệt những chiếc áo xanh thẫm.
Khi mặt trời bắt đầu lặn, các anh nàng trở về. Họ rất sợ hãi khi thấy nàng bị câm. Lúc đầu họ tưởng rằng đó lại là phép ma mới của mụ dì ghẻ độc ác, nhưng khi trông thấy hai bàn tay cô em, họ hiểu ngay rằng nàng đang làm việc cho họ. Người anh trẻ nhất òa lên khóc, nước mắt nhỏ xuống làm mất ngay những chỗ phồng da và Li-dơ không thấy đau đớn gì nữa.
Nàng thức suốt đêm để dệt áo, nàng không muốn nghỉ ngơi trước khi giải thoát được cho các anh nàng. Cả ngày hôm sau nàng ngồi một mình trong lúc đàn thiên nga bay đi, nhưng nàng chẳng hề thấy ngày dài nữa, nàng dệt xong một cái áo và bắt đầu dệt sang tấm thứ
hai.
Bỗng có tiếng tù và của người đi săn vang lên trong núi. Tiếng tù và nghe càng gần, nàng càng lo sợ. Nàng chợt nghe thấy tiếng chó sủa, nàng hốt hoảng trốn vào trong hoang. Nàng quấn chiếc áo đã dệt thành một bọc và ngồi lên trên. Bỗng một con chó to chạy đến, theo sau cả đàn chó săn. Một lát sau, tất cả những người đi săn đã tụ tập ở cửa hang. Đây là một cuộc săn bắn của nhà vua trị vì xứ này.
Nhà vua tiến thẳng về phía nàng Li-dơ. Chưa bao giờ ngài thấy một thiếu nữ xinh đẹp như thế. Ngài hỏi nàng:
- Làm sao mà nàng lại tới chốn này, hỡi cô bé kiều diễm kia?
Li-dơ chỉ lắc đầu, vì cần phải giữ miệng để cứu lấy tính mạng của các anh nàng. Cùng lúc ấy nàng giấu đôi tay xuống dưới vạt áo để nhà vua không nhìn thấy đôi tay bị phồng lên.
- Nàng hãy đi theo ta - nhà vua phán - Nàng không thể ở đây được. Nếu nàng vừa đẹp người lại đẹp nết, nàng sẽ bận xiêm y may toàn bằng nhung lụa và ta sẽ ban cho nàng một chiếc mũ miện bằng vàng. Nàng sẽ ở lại trong cung điện.
Rồi nhà vua đặt nàng lên yên ngựa. Nàng chắp đôi tay lại, khóc lóc, nhưng nhà vua khẽ bảo nàng:
- Ta không muốn làm hại nàng đâu, một ngày kia nàng sẽ cảm ơn ta.
Nói rồi nhà vua ôm nàng ngồi phía trước, phóng ngựa qua núi, cả đoàn người đi săn theo sau. Đến sẩm tối họ về đến kinh thành. Nhà vua đưa nàng Li-dơ vào cung.
Trong những gian phòng rộng bằng đá hoa có những vòi nước chảy rất kỳ diệu, tường nhà treo đầy chân dung. Nhưng nàng chẳng chú ý đến vật gì cả, nàng chỉ than vãn, khóc lóc. Nàng lơ đãng, kệ cho các cung nữ mặc cho nàng những bộ quần áo lộng lẫy, đính ngọc trai vào mái tóc nàng và đeo găng vào đôi tay cháy xém của nàng. Phục sức như vậy nàng lại càng xinh đẹp bội phần đến nỗi cả triều đình phải cúi rạp trước sắc đẹp của nàng.
Mặc cho vị giáo chủ lắc đầu phản đối và quả quyết rằng cô gái người rừng này hẳn là một mụ phù thủy, có đôi mắt đốt cháy và làm đảo điên trái tim của nhà vua, ngài vẫn tuyên bố rằng nàng là vị hôn thê của ngài. Một đại hội được tổ chức, các cô thiếu nữ diễm lệ nhất trong nước nhảy múa những bản vũ đẹp nhất. Nhưng trong ánh mắt và đôi môi của nàng Li-dơ không thấy hiện ra lấy một nụ cười và chỉ thấy vẻ đau đớn buồn phiền.
Nhà vua mở cả một phòng ngủ dành cho nàng. Phòng được căng toàn thảm xanh biếc, loại rất quý, trông hệt như khung cảnh cái động trong đó nhà vua đã gặp nàng. Trên sàn nhà là bó cây tầm ma nàng dùng để dệt áo và trên trần nhà treo chiếc áo đã dệt xong. Một người trong đoàn đi săn thấy lạ đã mang các thứ đó về. Nhà vua nói:
- Ở như thế này em sẽ có thể tưởng tượng như đang ở chốn cũ của em. Có cả những thứ em trìu mến hoặc thường dùng trước đây.
Với những vật ấy, giữa cảnh xa hoa em vẫn có thể sống bằng trí tưởng tượng cuộc đời trước đây. Khi nàng Li-dơ nhìn thấy những thứ mà trái tim nàng tha thiết mong muốn thấy, môi nàng nở một nụ cười và da mặt lại hồng hào tươi tắn lên. Nàng nghĩ đến tính mạng của các anh và cúi xuống hôn tay nhà vua. Ngài ôm nàng vào ngực và truyền lệnh rung chuông nhà thờ liên hồi để báo tin ngài làm lễ thành hôn. Thế là cô gái câm trở thành hoàng hậu.
Giáo chủ thầm thì vào tai nhà vua không biết bao nhiêu lời sàm tấu, nhưng những lời đó không lay chuyển nổi ý định của nhà vua và lễ cưới vẫn cứ bắt đầu. Giáo chủ phải đích thân đặt mũ miện lên đầu nàng Li-dơ. Lão ta độc ác, ấn sụp mũ miện xuống trán nàng, làm cho nàng bị đau ở đầu. Nhưng nàng vẫn cứ trơ ra, không còn thấy đau đớn về thể xác nữa, tim nàng còn đau hơn thế vì chưa giải thoát được các anh nàng.
Nàng vẫn câm, vì chỉ một lời thôi cũng có thể giết chết các anh nàng. Nàng chỉ biết dùng đôi mắt để tỏ lòng biết ơn nhà vua nhân đức đã tìm hết cách để an ủi nàng. Càng ngày nàng càng yêu nhà vua và trong thâm tâm nàng cũng muốn gửi gắm nhà vua nỗi đau khổ của nàng, nhưng nàng không thể nói lên được. Đêm nào cũng vậy nàng lại vào trong gian phòng xinh xắn, trang hoàng hệt như hang đá cũ, và tiếp tục dệt hết chiếc áo này sang chiếc khác. Dệt đến chiếc thứ 7 thì hết sợi gai tầm ma. Nàng biết rằng giống tầm ma chỉ mọc ở nghĩa địa thôi và phải đích thân nàng đi hái mới được.
- Làm sao mà ra nghĩa địa được bây giờ? - Nàng nghĩ thầm
- Ôi! Tay ta có đau đớn đến mấy cũng không thể so sánh với nỗi đau đang đè nặng tim ta! Ta muốn hy sinh tất cả cho các anh ta. Thượng Đế sẽ phù hộ cho ta.
Run rẩy như đang làm một việc xấu xa, một đêm sáng trăng, nàng xuống vườn, đi theo con đường lớn, qua các phố vắng ngắt tới gần nghĩa địa. Ở đấy nàng thấy những mụ phù thủy già khọm và kinh tởm đang ngồi quây tròn trên nấm mồ lớn nhất. Chúng quẳng tất cả quần áo đi như sắp sửa tắm và dùng những ngón tay gầy guộc, dài ngoẵng để bới những ngôi mộ mới. Li-dơ phải đi ngang qua chỗ chúng và chúng quằm quặm nhìn nàng. Nhưng nàng vẫn lẩm nhẩm đọc kinh. Nàng hái ít cây tầm ma, rồi trở về cung vua.
Chỉ có một người nom thấy nàng ra nghĩa địa. Đó là lão giáo chủ. Trong lúc mọi người đã ngủ, chỉ có lão còn thức. Lão cho rằng lão đã đoán rất đúng về những hành vi khả nghi của hoàng hậu. Theo lão, chính hoàng hậu là một mụ phù thủy đã mê hoặc nhà vua và toàn thể thần dân.
Hôm sau, lão kể với đức vua chuyện xảy ra đêm trước. Nhưng trong lúc lão kể, những pho tượng quanh đó đều lắc đầu như muốn nói:
“Nàng Li-dơ vô tội!” Lão giáo chủ lại xuyên tạc ngụ ý của những cái lắc đầu ấy và nói rằng các pho tượng đang kết tội hoàng hậu. Thế là hai giọt nước mắt lăn dài trên má nhà vua và ngài trở về cung, mang theo một mối nghi ngờ khinh khủng trong lòng. Đêm sau, ngài giả vờ ngủ và trông thấy nàng Li-dơ đi ra như vậy và lần nào nhà vua cũng theo dõi nàng cho đến khi nàng trở về cung.
Càng ngày nhà vua càng trở nên lầm lì, nàng Li-dơ cũng không hiểu vì sao. Đó lại thêm một nỗi buồn cho nàng, nhưng mối lo âu lớn nhất vẫn là việc giải thoát cho các anh nàng. Những hạt lệ của nàng tuôn trên nệm gấm, chăn nhung của hoàng gia như những hạt kim cương lóng lánh, tuy thế ai thấy nàng cũng vẫn ganh tỵ về sắc đẹp của nàng.
Công việc của nàng cũng đã gần xong. Nàng chỉ còn phải dệt một chiếc áo nữa thôi, nhưng sợi cây tầm ma lại hết. Nàng lại phải ra ngoài một lần nữa để hái vài nắm. Nghĩ đến việc đi đêm hôm và những mụ phù thủy ghê tởm, nàng rùng mình nhưng ý muốn của nàng không gì lay chuyển được và nàng cũng rất mực tin tưởng vào Thượng Đế. Nàng lại ra nghĩa địa. Nhà vua và giáo chủ theo gót nàng, họ thấy nàng đi vào cửa nghĩa địa rồi biến mất. Vào gần tới nơi họ mới nhìn thấy lũ phù thủy ngồi trên một ngôi mộ. Nhà vua chạy về, ngài đã tưởng tượng trong đám phù thủy ấy có con người mà tối tối ngài ấp đầu vào ngực.
- Dân chúng sẽ xét xử
Ngài phán quyết như vậy. Dân chúng kết tội hoàng hậu phải chết thiêu.
Từ gian phòng huy hoàng, nàng bị dong đến ngục kín, gió rít qua những chấn song cửa sổ bằng sắt. Thay vào nhung lụa, người ta cho nàng bó tầm ma nàng đã hái về, để gối đầu. Những tấm áo thô, còn đầy gai, dệt bằng sợi tầm ma, được trải làm giường nằm. Gai đâm vào người nàng bỏng ran, nhưng nàng lại lấy làm thích thú. Nàng lại bắt tay ngay vào việc và tạ ơn Thượng Đế. Ngoài phố, trẻ con hát những bài hát nguyền rủa nàng. Chẳng có ai an ủi nàng lấy một câu. Chiều đến một con thiên nga bay đến đậu vào cửa sổ.
Đó là hoàng tử út đã tìm thấy tung tích của nàng. Nàng thấy sung sướng vô cùng, mặc dù nàng biết rằng mai sẽ là đêm cuối của đời nàng. Chả là công việc của nàng đã gần xong và các anh nàng cũng không xa nàng mấy. Giáo chủ đến để làm phép rửa tội cho nàng, nhà vua đã lệnh cho lão làm việc ấy. Li-dơ lắc đầu và làm hiệu bảo lão hãy để cho nàng yên. Ngay đêm ấy nàng phải hoàn thành công việc của nàng, nếu không bao nhiêu đau buồn, nước mắt và bao đêm mất ngủ cũng trở thành vô ích. Giáo chủ vừa đi ra vừa càu nhàu, nhưng nàng biết mình vô tội.
Đàn chuột nhắt lon ton trên sàn nhà và gỡ sợi tầm ma giúp nàng. Một con họa mi đậu trên cửa sổ hót suốt đêm để khuyến khích nàng.
Trước khi mặt trời mọc mười một hoàng tử anh nàng vào cung xin được yết kiến nhà vua. Người ta bảo họ rằng không được, vì trời chưa sáng và không thể đánh thức nhà vua dậy lúc này được. Các hoàng tử van nài chán rồi dọa dẫm. Đội cấm binh kéo đến, nhà vua cũng thân chinh ra hỏi tại sao lại làm ầm ĩ lên như vậy. Vừa lúc ấy mặt trời ló lên, các hoàng tử chẳng còn đấy nữa, người ta chỉ thấy mười một con thiên nga đội mũ miện vàng đang bay lượn trên hoàng cung. Nhân dân kéo đến ngoài cổng thành để xem thiêu mụ phù thủy. Người ra đã bắt nàng Li-dơ mặc áo vải thô. Bộ tóc dài xõa xuống khuôn mặt xinh đẹp của nàng, đôi má nàng tái nhợt như da người chết, đôi môi nàng như cầu nguyện trong lúc đôi tay vẫn tiếp tục may vá.
Ngay trên đường đi đến chỗ chết thiêu, nàng vẫn không ngừng may áo vì nàng đã dệt và may xong mười chiếc, chỉ còn chiếc thứ mười một nữa, nên nàng ráng hết sức may cho xong trước giờ chết thiêu.
- Kìa, trông mụ phù thủy kìa! Nhìn xem nó đang lẩm nhẩm cái gì trong mồm kia! Nó chẳng có lấy một cuốn thánh kinh trong tay! Phải xé tan làm muôn mảnh cái bọc quái quỷ nó cặp kè bên mình kia!
Mọi người xô đẩy nhau và sắp sửa giành lấy bọc áo, bỗng mười một con thiên nga bay tới. Chúng đậu xung quanh nàng và vỗ những bộ cánh dài và rộng. Đám đông kinh ngạc, lùi lại:
- Đó là điềm trời đấy, chắc hẳn cô ta vô tội - Nhiều người thì thào.
Đao phủ đã nắm lấy tay Li-dơ. Nàng vội vã tung mười một chiếc áo lên đàn thiên nga, chúng biến ngay thành mười một hoàng tử trẻ măng. Riêng hoàng tử út còn lại một cánh thiên nga thay cánh tay, vì một chiếc áo chưa may xong, còn thiếu một tay.
- Giờ thì tôi đã nói được rồi! - Li-dơ reo lên - Tôi vô tội!
Nhân dân thấy thế vội quỳ xuống trước mặt nàng như trước một nữ thánh. Nhưng nàng đã ngã lăn ra, ngất đi trong tay các anh nàng, vì làm việc nhiều, lo lắng nhiều và đau đớn nhiều, nàng đã kiệt sức.
- Đúng thế, em chúng tôi vô tội! - Hoàng tử tuyên bố.
Và hoàng tử kể lại đầu đuôi câu chuyện. Trong khi hoàng tử kể chuyện, một mùi hương tỏa ra như có hàng triệu đóa hoa hồng ở đâu đấy. Đó là những thanh củi trên giàn thiêu đã bén rễ mọc thành hoa lá.
Lúc này, giàn thiêu đã biến thành một khóm hoa hồng, trên cùng là một đóa hồng bạch, lóng lánh như một ngôi sao. Nhà vua hái lấy bông hoa cài vào ngực Li-dơ, nàng tỉnh dậy, lòng đầy vui sướng và hạnh phúc. Bỗng nhiên, tất cả chuông nhà thờ không ai giật đều rung lên cả. Chim chóc kéo tới hàng đàn và trong cung vua mở một ngày hội lớn, chưa từng có từ trước tới nay...
Công chúa Elsa và Anna
Ngày xửa ngày xưa, có vương quốc nọ tên là Arendelle. Đó là một xứ sở nhộn nhịp và tươi vui, ẩn mình giữa những rặng núi trùng điệp và các khu vịnh hẹp êm đềm ở phương bắc xa xôi. Đêm đêm, những tia Bắc cực quang chiếu rọi bầu trời thành những vệt ánh sáng màu tuyệt đẹp.
Tiếc thay, đức vua và hoàng hậu lại luôn canh cánh trong lòng một nỗi lo âu âm thầm.
Con gái lớn của họ, công chúa Elsa, sở hữu phép thuật kì lạ. Nàng có thể khiến mọi thứ đóng băng, và chỉ cần vung tay, nàng sẽ tạo nên tuyết và băng trắng xóa.
Elsa có muột người em gái là công chúa Anna. Anna cực kì ngưỡng mộ chị mình. Một đêm, nàng nài nỉ chị Elsa lén vào đại sảnh, dùng phép thuật biến ra cả một xứ thần tiên băng tuyết để đùa chơi thỏa thích.
Hai công chúa nhỏ mải mê chơi đùa thì bỗng nhiên, Elsa lỡ tay phóng một tia băng ma thuật vào trúng em gái. Anna tội nghiệp ngã nhào xuống đất, mê man bất tỉnh. Một lọn tóc của Anna ngả màu trắng xóa.
Lo sợ tính mạng của em gái, công chúa Elsa thất thanh kêu cứu.
Vợ chồng đức vua liền vội vã đưa các con đến vùng đất của yêu tinh đá, họ biết chữa bệnh bằng phép thuật.
Một tộc trưởng phéo thuật cao siêu cứu mạng được công chúa Anna bằng cách biến đổi kí ức của nàng, để Anna không thể nhớ gì về phép thuật của Elsa. Thế nhưng, yêu tinh đá cũng cảnh báo với đức vua và hoàng hậu, rằng phép thuật của Elsa sẽ càng lúc càng mạnh mẽ hơn. Yêu tinh đá nói:
– Phép thuật ấy đẹp đẽ, nhưng cũng tiềm tàng hiểm nguy cục lớn. Nỗi sợ hãi chính là kẻ thù kinh khủng nhất với công chúa lớn!
Trở về Arendelle, đức vua và hoàng hậu sai đóng cổng thành, cấm mọi người ra vào, không ai được nhắc đến hay bàn luận về bí mật của công chúa Elsa.
Anna thui thủi chơi một mình, còn Elsa phải miệt mài tập cách che giấu phép thuật.
Cứ khi nào Elsa tức giận hay bối rối, phép thuật của nàng lập tức bộc phát. Đức vua trao cho con gái đôi găng tay để kìm phép thuật lại, nhưng Elsa vẫn phấp phỏng lo sợ, rằng nàng sẽ vô ý làm người khác bị thương. Elsa còn né tránh Anna, gắng giữa cho em gái được bình yên vô sự
Nhưng Anna thì nhớ chị nàng da diết. Năm này qua năm khác, Anna nài nỉ Elsa ra chơi cùng nàng, nhưng Elsa lúc nào cũng từ chối.
Khi hai nàng công chúa đến tuổi đôi tám, đức vua và hoàng hậu bất ngờ mất tích trong con bão ngoài khơi xa. Hai chị em công chúa giờ đây càng đơn độc, và xa cách hơn bao giờ hết.
Khi Elsa đến tuổi trưởng thành, nàng phải thực hiện phận sự lên ngôi nữ hoàng. Vào một ngày mùa hạ đẹp trời, cổng thành rộng mở cho lễ đăng quang của Nữ hoàng Elsa.
Anna phấn khích vô cùng, giờ thì nàng có dịp gỡ bao nhiêu là người mới, và có thể tìm thấy tình yêu của đời nàng.
Nhưng Elsa thì lo lắng vô cùng, sao nàng có thể là trung tâm chú ý của mọi người? Nhỡ sơ sẩy, phép thuật của nàng bộc lộ thì sao?
Còn Anna thì lén ra khỏi cổng thành và dạo chơi khắp cả vương quốc. Bỗng đâu, một vị khách điển trai cưỡi trên ngựa trắng, chính là Hoàng tử Hans của xứ Đảo Nam, vô tình đụng phải công chúa Anna. Họ lập tức đem lòng cảm mến nhau.
Tại lễ đăng quang, Elsa buộc phải tháo găng tay để nhận quả cầu thánh giá cùng quyền trượng hoàng gia. Nàng chỉ cầu trời giúp nàng vượt qua buổi lễ mà không nhỡ tay làm đóng băng ai cả.
Anna đứng ngay cạnh chị gái, nhưng nàng chỉ lén đưa mắt say sưa ngắm chàng Hans.
… Và đến dạ tiệc mừng lễ đăng quang, Anna và Hans mải mê trò chuyện, dạo chơi và khiêu vũ cũng nhau cả buổi tối!
Đúng là “yêu từ cái nhìn đầu tiên”. Đôi trẻ quyết định đính hôn ngay lập tức!
Khỏi phải nói, Elsa choáng váng quá chừng. “Làm sao em cưới một anh chàng vừa mới quen biết được chứ?” Nàng hỏi xoáy em gái.
– Được chứ chị. Nếu đấy là tình yêu đích thực – Anna vẫn một mực khăng khăng.
– Câu trả lời của chị là “Không!” – Elsa cứng cỏi đáp. Nàng cương quyết không tán thành hôn lễ này.
Elsa tức giận rời khỏi phòng dạ tiệc, nhưng Anna chộp lấy tay chị, chiếc găng vô tình trượt khỏi tay Elsa.
Anna tiếp tục kêu ca:
– Sao chị cứ né tránh em mãi thế? Em không thể sống tháy này được nữa!
– Đủ rồi! – Elsa thét lên.
Một luồng băng giá phong ra từ bàn tay để trần của Elsa, những vỉa băng nhọn hoắt bỗng chóc xất hiện khắp phòng khiêu vũ. Ai nấy đều chăm chăm nhìn chúng đầy kinh hãi.
Elsa chạy vụt ra khỏi cổng thành, nàng sợ sẽ làm người khác bị thương mất.
– Tránh xa ta ra! – nàng cảnh báo mọi người trong vương quốc.
Bước chân nàng lướt qua bất kì đâu, nơi đó cũng lập tức hóa thành băng tuyết trắng xóa. Đến cả những khu vịnh hẹp hiền hòa bỗng chốc cũng đóng băng. Tàu thuyền thì mắc kẹt cứng.
Cả vương quốc chìm trong xao xác, hỗn loạn vì băng giá bao phủ khắp nơi. Nhưng ít nhất, giờ đây Anna đã hiểu ra tại sao chị nàng lại phải tìm cách giấu mình suốt bao nhiêu năm.
Cậy nhờ Hans trông coi vương quốc, Anna lập tức lên đường tim kiếm Elsa, đưa chị nàng về cứu mọi người khỏi màn băng giá.
Nữ hoàng Băng giáTrong khi đó, Elsa một mình leo lên những rặng núi cao. Chẳng còn ai xung quanh để phải thấp thỏm lo âu, nàng thỏa thích giải phóng phép thuật của mình. Một trận bão tuyết cuộn xoáy quanh nàng, còn nàng mải mê tạo ra nào đền đài, những bức tượng băng, một người tuyết, và thậm chí biển đổi cả diện mạo của chính nàng.
Lên đến gần một đỉnh núi, Elsa tạo ra hẳn một cung điện bằng băng lung linh huyền ảo. Giờ đây, nàng cảm thấy được trở về đúng với con người của mình. Nàng cô độc giữa chốn này, nhưng nàng chưa bao giờ cảm thấy được trọn vẹn là mình đến thế.
Còn lúc này, Anna mong mỏi được đoàn tụ với chị gái hơn bao giờ hết. Giờ thì bí mật của Elsa đã lộ, hai chị em sẽ lại thân thiết như ngày xưa.
Thế nhưng, cơn bão tuyết cản trở cuộc hành trình của Anna, và chú ngựa thì lồng lên, hất nàng ngã xuống đất. May thay, Anna nhìn thấy một căn nhà nhỉ ngay trước mặt.
Đó chính là tiệm tạp hóa kiêm nhà tắm Oaken của Lãng Tử. Ở đây, Anna đã kiếm được một đôi ủng cùng vài món quần áo ấm.
Thế rồi một chàng trai trẻ tên là Kristoff lê bước vào. Kristoff vốn làm nghề thu gom đá cây. Chàng ta rất bực bội vì trận bão tuyết ngay giữa mùa hè làm hỏng mất công việc của mình.
Khi nghe Kristoff nhắc đến chuyện cơn bão tuyết nổi lên từ núi Bắc, Anna liền dồn dập dò hỏi anh chàng. Nàng muốn có thêm tin tức về chị Elsa.
Nhưng Kristoff còn đang bận mặc cả với ông chủ tiệm Oaken:
– Cô đứng ra chỗ khác, để tôi còn làm cho ra nhẽ với tên lừa đảo này! – Kristoff bảo với Anna.
Oaken nổi giận đùng đùng, và tống ngay Kristoff ra khỏi cửa.
Nhìn thấy cảnh này, Anna nảy ra một ý. Nàng tìm gặp Kristop cùng Sven – chú tuần lộc của anh ta trong chuồng ngựa, và cho họ mọi món đồ họ cần. Đổi lại, nàng đòi Kristoff đưa nàng lên núi Bắc cùng bọn họ.
Cuối cùng, Kristoff đành nhận lời:
– Thôi được, sớm mai ta sẽ lên đường.
– Không, tôi muốn đi ngay bây giờ! – Anna cự lại.
Trên đường đi, Anna kể cho Kristoff nghe những chuyện đã xảy ra ở xứ Arendelle. Kristoff thấy thật kì quặc và lạ lùng. Nhưng anh chàng cũng mong Anna sẽ thuyết phục Elsa đưa mùa hè trở lại vương quốc, để người ta lại mua nước đá của Kristoff.
Đột nhiên, họ nghe thấy tiếng sói tru chói tai.
Anna giúp Kristoff đánh đuổi lũ sối, nhưng Sven buộc phải nhảy qua một miệng vực sâu hun hút để thoát thân.
Chiếc xe kéo đập vào đá, rơi vỡ tan tành. May sao, cả Anna, Kristoff và Sven đều thoát nạn.
Khi bình minh hé rạng, Anna và Kristoff nhìn thấy xứ Arendelle ở đằng xa dưới chân núi. Họ buồn bã nhận ra, cả vương quốc vẫn chìm trong đông giá
Rồi họ tiếp tục dấn bước sâu thêm vào khu rừng, nơi phép thuật của Elsa đã tạp nên phong cảnh kì vĩ khôn tả.
– Không ngờ… mùa đông lại đẹp tới nhường này! – Anna ngỡ ngàng thốt lên.
– Nhưng thế này trắng quá! Thêm chút xíu sắc màu thì sao nhỉ? Tôi đang nghĩ đến đỏ tươi hay xanh cốm. – một giọng nói cất lên.
Hóa ra, ngay sau lưng bọn họ là một người tuyết có sự sống.
– Tôi là Olaf! – Chàng người tuyết tự giới thiệu và bảo rằng chính Elsa đã tạo nên anh ta.
Anna vội nhờ Olaf dẫn họ đến gặp chị Elsa.
– Chúng tôi cần chị Elsa mang mùa hè trở lại vương quốc!
– Chà, mùa hè, tôi luôn say mê ý này! Ánh mặt trời ấm áp bờn – Olaf mỉm cười nói.
Anh cả Anna và Kristoff đều có chung một suy nghĩ: Mùa hè chẳng có gì là hay với một người tuyết.
Lúc này, ở Anrendelle, Hans đang cố sức trấn an dân chúng. Một trong các quan khách quý tộc, một vị công tước, tỏ ra cực kì tức giận vì bị mắc kẹt giữa vùng băng tuyết.
Giữa lúc ấy, chú ngựa của Anna quay về một mình.
– Công chúa Anna gặp nguy rồi! Tôi cần vài người tình nguyện theo tôi đi tìm nàng! – Hans kêu lên.
Vị công tước quả quyết rằng người của ông sẽ gia nhập đoàn tìm kiếm.
Bây giờ, con đường dẫn lên đỉnh núi càng lúc càng dốc đứng. Thật may, Olaf đã tìm ra một dải cầu thang bằng băng dẫn thẳng tới cung điện của Elsa.
– Chao ơi, cung điện lộng lẫy quá đi mất! – Anna trầm trồ khi họ lên đến đầu cầu thang.
Thế nhưng, Elsa chẳng hề vui mừng khi nhìn thấy Anna. Nàng sợ quyền phép của mình sẽ làm em gái bị thương! Nàng cảnh báo em gái:
– Em về đi, Anna! Chị đáng sợ lắm đấy!
Nhưng Anna vẫn kiên trì giải thích rằng Arendelle cần Elsa giúp đỡ. Cả vương quốc đang đóng băng, và chẳng ai biết phải làm sao.
Giờ thì Elsa sợ hãi thực sự. Nàng thú nhận rằng nàng không thể làm tan băng tuyết cho vương quốc. Nàng không biết phải làm thế nào!
Anna thì quả quyết rằng hai chị em sẽ cùng tìm ra cách, nhưng Elsa thì càng thêm bực bội. Quá chán nản, nàng thét lên:
Chị không làm được!
Một tia băng nhọn phóng qua phòng và đâm thẳng vào ngực Anna.
Kristoff vội nhào vào đỡ lấy Anna. Anh vội bảo với Anna:
– Ta nên rời khỏi đây thôi
– Không, không có chị Elsa, tôi không đi đâu cả.
– Có đấy, em phải đi.
Elsa quả quyết, rồi làm phép hóa ra một người tuyết khổng lồ.
Olaf nhìn thấy thế thì sung sướng reo lên:
– Này, anh ơi, nhận em làm em trai nhé! Em gọi anh là Kẹo dẻo bông xù được không?
Vốn Elsa ra lệnh cho người tuyết khổng lồ hộ tống Anna và các bạn xuống núi. Nhưng sua khi trúng một nắm tuyết của Anna, người khổng lồ quyết chí đuổi theo nhóm bạn.
Nhóm bạn chạy miết cho đến khi gặp một vách núi, họ lấy dây và tụt dần xuống theo gờ đá. Nhưng Kẹo dẻo bông xù đã tóm được đầu dây và kéo họ ngược lên. Anna vội làm thứ duy nhất nàng nghĩ ra được là cắt đứt sợi dây.
Ơn trời, Anna, Kristoff và Olaf đều đáp an toàn xuống một đống tuyết mềm ngay phía dưới. Nhưng có chuyện gì đó không ổn: tóc của Anna đang dần chuyển sang trắng xóa.
Kristoff hỏi:
– Tại Elsa lại phóng tia phép thuật trúng cô, đúng không?
Quá lo lắng cho Anna, Kristoff lập tức vạch ra một kế hoạch:
– Chúng ta phải đến gặp bạn tôi ngay. Họ sẽ có cách giúp ta.
Còn ở cung điện băng tuyết, Elsa bồn chồn đi đi lại lại, cố nghĩ cách hóa giải mùa đông cho xứ Arendelle. Nàng buồn lòng vô hạn. Tâm trạng ấy khiến sức mạnh của nàng càng khó kiểm soát, và cơn bão tuyết càng vần vũ dữ dội.
Màn đêm đã buông xuống khi Kristoff dẫn Anna, Olaf và Sven vào một thung lũng hẻo lánh lởm chởm đá. Kristoff bảo rằng các bạn của anh sống ở đây.
Đột nhiên, Anna cảm thấy mấy tảng đá như đang cựu quậy. Nàng thốt lên:
– Yêu tinh đá kìa!
Kristoff đã quen biết với các yêu tinh đá từ lâu rồi, nên với họ, chàng chẳng khác nào người trong cùng một nhà. Kristoff cho là họ giúp được Anna.
Còn các yêu tinh đá thì cực kì phấn khởi vì gặp được Anna. Họ tưởng nàng chính là bạn gái của Kristoff. Ai nấy đều thấy đôi trẻ thật xứng đôi vừa lứa, tình yêu giúp cho ai cũng tốt đẹp lên nhiều.
Yêu tinh đá trưởng lão nhận ra là Anna đã bị thương. Ngài nói rằng Elsa đã phóng băng vào tìm Anna, và chỉ nội trong một vài ngày tới, Anna sẽ đóng băng hoàn toàn. Nhưng vẫn còn le lói chút hi vọng, ngài nói:
– Một hành động yêu thương đích thực sẽ làm giá băng tan chảy.
Kristoff và Olaf quyết chí đưa Anna về nhà thật nhanh. Chắc chắn là chàng Hans sẽ làm tan được băng giá bằng nụ hôn của tình yêu đích thực.
Truyện Nữ hoàng Băng giáTrong lúc ấy, chàng Hans và những người tìm kiếm đang ập vào cung điện băng tuyết của Elsa. Kẹo dẻo bông xù gắng sức bảo vệ nữ hoàng, nhưng cả toán lính cùng nhào vào tấn công dồn dập.
Đám người tỏa ra khắp cung điện. Người của công tước áp sát bao vây Elsa.
Nàng càng hốt hoảng, lo sợ, phép thuật của nàng càng dữ dội. Nàng dựng lên một bức tường băng không lồ, đẩy vang một tên lính của công tước ra tận rìa ban công. Những mũi tên băng nhọn hoắt thì ghim một tên lính khác thẳng vào tường.
Đúng lúc ấy, Hans thét lên:
– Đừng để người ta nghĩ nàng đúng là quái vật!
Elsa chợt nhận ra rằng nàng đã để phép thuật bộc phát khủng khiếp ra sao. Nàng buông tay, nhờ vậy lính của ngài Công tước mới thoát nạn.
Nhưng rồi một tên liền nhắm cung tên thẳng vào Elsa. Han gạt tay hắn, khiến mũi tên trúng chùm đèn trần. Chùm đèn lao rầm xuống, khiến Elsa ngã ra bất tỉnh.
Elsa tỉnh lại trong một nhà ngục hoang lạnh giữa lâu đài. Nhìn qua song sắt, nàng kinh hoàng nhận ra cơn bão tuyết của mình đã tàn phá vương quốc đến thế nào.
Khi nàng đòi gặp Anna, Hans đáp rằng em gái nàng vẫn chưa trở về.
Bên ngoài, Kristoff, Olaf và Anna đang vội vã băng xuống núi. Kristoff cực kì lo lắng khi thấy Anna đang đuối sức dần.
Ở cổng thành, Kristoff gửi gắm Anna vào tuy những người hầu cận. Chàng bắt đầu nhận ra mình quan tâm đến Anna biết nhường nào, nhưng chàng hiểu rằng, Hans – tình yêu đích thực của Anna, mới có thể giúp nàng hồi phục.
Người hầu mau chóng đưa Anna vào trong thư phòng, nơi Hans vừa họp bàn với các quý tộc lân bang.
Run rẩy và yếu đuối, Anna gắng giải thích cho Hans những gì tia băng của Elsa gây ra với nàng, và rằng nụ hôn của chàng sẽ cứu mạng nàng. Anna nói:
– Chỉ có hành động yêu thương đích thực mới cứu nổi em!
Nhưng Hans nhếch mép chế nhạo:
– Ôi, Anna tội nghiệp! Giá có người yêu nàng thì hay quá!
Cầm bình nước dội tắt đống lửa, Hans giải thích rằng chàng ta chỉ giả vờ yêu Anna để tìm cách chiếm đoạt Arendelle. Giờ chỉ còn một việc, là loại bỏ nốt Elsa. Chàng ta nói với Anna:
– Mùa hè sẽ trở lại, còn cả vương quốc sẽ rơi vào tay ta!
– Không được!
Anna hổn hển thốt lên. Nàng đổ gục xuống sàn khi băng lạnh lan dần khắp cơ thể.
Bị nhốt kín và cô độc giữa thư phòng mênh mông, công chúa Anna mới chợt nhận ra nàng đã hấp tấp biết chừng nào. Gắng tìm kiếm tình yêu, nàng đã gây tai họa cho chính mình và cả chị gái.
Hans quay lại gặp các vị quý tộc và báo tin rằng, Elsa đã giết chết Anna. Hắn tiếp tục bịa chuyện, nói rằng hắn và Anna đã kịp trao lời thề nguyện trước khi Anna lìa đời. Hans tuyên bố:
– Tôi cáo buộc Nữ hoàng Elsa đã mặc tội phản bội tổ quốc và phải chịu hành hình!
Trong ngục, Elsa chỉ nghĩ đến làm sao thoát khỏi Arendelle. Đấy là cách duy nhất bảo vệ mọi người khỏi phép thuật của nàng. Elsa buồn bực đến nỗi nàng làm đóng băng cả nhà ngục và thoát ra ngoài.
Trong lúc đó, Kristoff ủ rũ đi lên núi. Nhưng Sven đã cản bước chàng. Chú tuần lộc cho rằng chính Kristoff mới là tình yêu đích thực của Anna.
Đúng lúc ấy, Kristoff nhìn thấy một trận bão tuyết điên cuồng nổi lên ở Arendelle. Chàng vội chạy ngay về vương quốc. Chàng phải giúp Anna.
Đúng lúc Anna đã từ bỏ mọi hi vọng, thì Olaf xuất hiện. Chú người tuyết liều mình thắp sáng lên một ngọn lửa, dù Anna lo rằng chú sẽ bị tan chảy mất. Olaf nói:
– Có người đáng để ta phải tan chảy chứ!
Olaf nhìn ra cửa sổ và thấy Kristoff đang quay về. Chú người tuyết hiểu ra rằng Kristoff chính là tình yêu đích thực của Anna, và chàng sẽ cứu mạng nàng.
Olaf dìu công chúa Anna ra ngoài, và nàng đã nhìn thấy Kristoff ở bên kia bờ vịnh. Nếu nàng kịp tiến đến chỗ chàng, nàng sẽ được cứu sống.
Nhưng Anna phát hiện một chuyện: Hans sắp sửa vung kiếm tấn công Elsa.
Cố gom chút sức tàn, Anna lao mình chạy đến, chắn trước Elsa. Lưỡi kiếm của Hans chém xuống đúng lúc toàn thân Anna hóa thành băng cứng.
Một tiếng Keeeng chói tai vang lên, lưỡi kiếm vỡ vụn thành từng mảnh.
Elsa và AnnaElsa choàng tay ôm chặt lấy Anna. Nàng thổn thức:
– Ôi, em gái bé bỏng của chị!
Và rồi một điều kì diệu đã xảy ra, người Anna dần dần tan băng giá. Elsa hỏi:
– Em hi sinh bản thân vì chị sao?
Công chúa Anna đáp, giọng yếu ớt:
– Em thương chị lắm!
Olaf thốt lên, chú người tuyết đã nhận ra phép màu:
– Một hành động yêu thương đích thực sẽ làm tan chảy trái tim băng giá.
Đó chính là lúc Elsa chợt hiểu ra, rằng tình yêu thương sẽ đưa mùa hè trở lại. Nàng giơ đôi bàn tay, và băng tuyết dần tan tức khắc. Người dân vương quốc Arendelle hò reo vui sướng, họ đã tận mắt chứng kiến thấy mọi chuyện.
Nhưng Olaf cũng đang tan dần. Elsa lập tức hóa phép, tạo ra một vầng mây tuyết, để bảo vệ an toàn cho chú ta.
Anh chàng Hans quá sửng sốt vì Anna vẫn còn sống. Hắn ta lắp bắp:
– Nhưng, Anna ơi, chính Elsa đã làm tim em hóa thành băng giá mà!
– Thứ duy nhất băng giá ở đây chính là trái tim của ngươi.
Anna đáp lại. Và chỉ bằng một cú đấm, nàng đã hạ gục hắn. Sau đó Hans bị đem trả lại về Quần đảo phương Nam để chịu hình phạt cho những tội lỗi của mình.
Mùa hè đã trở lại, thuyền bè các nước lân bang căng buồm quay về xứ sở, Arendelle trở lại nhịp sống bình thường, chỉ có điều, cổng thành giờ đây sẽ vĩnh viễn rộng mở.
Công chúa Anna giúp Kristoff thay một chiếc xe kéo và các loại dụng cụ mới toanh. Nhưng chàng đâu vội rời đi, nhất là khi nhận được một nụ hôn bất ngờ của Anna.
Elsa tạo ra một sân băng thật rộng trong lâu đàu và chào đón tất cả mọi người trong vương quốc. Ai nấy đều hớn hở thi tài trượt băng cùng Nữ hoàng Elsa và Công chúa Anna.
Cuối cùng, Arendelle đã trở lại là một xứ sở hạnh phúc và bình yên.
Cô bé Lọ Lem
Ngày xửa ngày xưa có một người đàn ông rất giàu có, nhưng vợ của ông ta lại đang bị ốm nặng. Khi mà bà cảm thấy mình chuẩn bị gần đất xa trời rồi thì bà liền gọi cô con gái độc nhất vô nhị của mình tới bên cạnh giường mình đang nằm, rồi bà dặn dò với con gái rằng:
– Con gái yêu dấu của mẹ, khi mẹ đi rồi thì con hãy cố gắng chăm chỉ và nết na nhé, còn mẹ thì vẫn sẽ mãi mãi ở bên cạnh và phù hộ cho con.
Bà mẹ vừa nói xong lời trăn trối thì liền nhắm mắt qua đời. Sau khi mẹ mất thì ngày nào cô bé cũng tới bên cạnh mộ của mẹ mình mà khóc thương. Cô bé vâng lời mẹ nên ngày ngày rất chăm chỉ và nết na khiến cho tất cả mọi người xung quanh đều cảm thấy yêu mến cô bé.
Rồi khi mùa đông đã tới, tuyết đã phủ đầy một lớp dày ngay trên mộ của người mẹ, nhìn nó giống hệt như là một tấm khăn màu trắng xinh đẹp vậy. Rồi khi những ánh nắng mặt trời của mùa xuân tới và cuốn mất đi chiếc khăn trắng tinh ấy đi thì người cha quyết định sẽ cưới vợ hai.
Không chỉ đem vợ hai về nhà, mà người dì ghẻ này còn đem theo cả hai cô con gái riêng của mình nữa. Cả hai đứa con gái riêng này mặt mày tuy rằng cũng sáng sủa và kháu khỉnh, nhưng trong bụng lại vô cùng xấu xa và đen tối.
Cũng từ ngày đó trở đi thì cô bé kia phải sống một cuộc đời khốn khổ. Mụ dì ghẻ hùa cùng với hai đứa con gái riêng của mình bảo nhau rằng:
– Chúng ta không thể nào cứ để cho cái con ngan ngu ngốc ấy ngồi lỳ ở trong nhà được! Nếu nó muốn có bánh mà ăn thì phải tự đi mà kiếm. Ra đây ngay lập tức, con làm bếp!
Khi cô bé ra ngoài, chúng đem lột sạch tất cả những quần áo đẹp đẽ đang mặc trên người cô ra, ném cho cô chiếc áo choàng màu xám vô cùng cũ kĩ và xấu xí, sau đó lại ném tiếp cho cô đôi guốc mộc nữa. Rồi thì chúng vui vẻ cười nói:
– Hãy nhìn xem cô công chúa đài các của chúng ta ngày nào đã thay đổi hình dạng của mình như thế nào kìa!
Và ba mẹ con họ cứ thế reo lên mà nhạo báng đủ điều, sau đó mới đẩy cô xuống nhà bếp. Họ bắt cô từ sáng tới tận tối làm lụng vất vả, từ tờ mờ sáng thì cô đã phải dậy, rồi đi gánh nước, về lại nhóm bếp, sau đó thì thổi cơm và giặt giũ. Nhưng như vậy vẫn còn chưa đủ, hai đứa con gái của dì ghẻ nghĩ ra rất nhiều cách để mà hành hạ cô, khi đã hành hạ chán chê thì chúng lại hả hê chế giễu, chúng còn đem đậu Hà Lan trộn lẫn cùng đậu biển đổ xuống tro rồi bắt cô nhặt riêng từng loại.
Khi tối đến, sau cả một ngày phải làm lụng vất vả, cơ thể cô đã mệt lử cả đi, nhưng ba mẹ con dì ghẻ cũng chẳng cho cô được ngủ trên một chiếc giường tử tế, chúng bắt cô ngủ ở trên đống tro tàn ngay cạnh bếp. Bởi vì lúc nào cũng ở gần tro bụi trong bếp nên nhìn cô càng ngày càng lem luốc, nên hai đứa con gái của dì ghẻ liền đặt tên cho cô là “Lọ Lem”.
Có một lần người cha chuẩn bị đi chợ phiên, ông ta hỏi hai đứa con của dì ghẻ xem chúng muốn mua món quà như thế nào. Đứa con gái thứ nhất thì nói:
– Con muốn có quần áo đẹp.
Còn đứa thứ hai lại nói rằng:
– Con muốn có ngọc với đá quý nữa.
Người cha lại quay ra hỏi:
– Còn Lọ Lem, con thì muốn thứ gì?
– Thưa cha, lúc trên đường trở về nhà, có cành cây nào vướng vào mũ của cha thì xin cha bẻ cành cây đó về cho con.
Đi chợ phiên trở về, người cha không quên mua quần áo đẹp cùng ngọc trai, đá quý về cho hai đứa con gái của dì ghẻ. Lúc đi trên đường, ông cưỡi ngựa ngang qua bụi cây, một cành dẻ vô tình vướng vào người khiến chiếc mũ ông đang đội rơi xuống đường. Nhớ đến Lọ Lem, ông liền bẻ luôn cành dẻ ấy mang về nhà.
Khi về đến nhà, người cha đem quà đã mua chia cho hai đứa con gái của dì ghẻ đồ chúng đã xin, ông cũng đưa cành dẻ kia cho Lọ Lem. Lọ Lem liền cám ơn cha mình, sau đó mang theo cành dẻ kia đến bên mộ của mẹ mình rồi trồng ngay bên cạnh mộ, sau đó cô ngồi đó khóc lóc thảm thiết, hai hàng nước mắt cứ chảy xuống không ngừng, tưới ướt cả cành cây dẻ mới trồng. Đột nhiên cành dẻ nảy dễ đâm chồi, sau đó một thời gian ngắn thì từ cành cây nhỏ đã trở thành cây dẻ cao lớn, tán lá xòe to.
Hằng ngày Lọ Lem đều chăm chỉ ra mộ của mẹ viếng ba lần, xong cô lại ngồi đó mà khóc lóc khấn mẹ, mỗi lần cô như vậy thì đều có một chú chim màu trắng bay tới rồi đậu ở trên cành cây dẻ. Hễ thấy Lọ Lem nói ra điều mong ước muốn thứ gì thì chim lập tức đem thả thứ ấy cho cô.
Ngày kia, nhà vua cho mở hội tận ba ngày, ngài cho mời hết tất cả những hoa khôi ở trong nước tới tham dự để cho hoàng tử con trai mình kén vợ.
Khi hai đứa con gái của dì ghẻ nghe tin mình cũng có thiệp mời tới tham dự thì vô cùng vui mừng, chúng liền cho gọi Lọ Lem tới và bảo cô:
– Mày mau mau chải đầu rồi đi đánh lại giày cho bọn tao, nhớ buộc dây giày cho thật chặt, bọn tao còn phải đi tới dự hội trong cung vua đấy.
Lọ Lem ngoan ngoãn làm theo những gì chúng sai khiến, sau đó lại ngồi ôm mặt khóc một mình, bởi vì cô cũng muốn được đi nhảy tại hội ấy. Cô liền xin mụ dì ghẻ cho mình được đi cùng. Nhưng dì ghẻ lại nói:
– Cái đồ Lọ Lem mày, người thì toàn bụi bẩn mà lại dám đòi được đi dự hội à! Quần áo, giày không có mà còn đòi được đi nhảy cơ!
Lọ Lem vẫn khẩn khoản cầu xin dì ghẻ cho phép mình đi. Cuối cùng dì ghẻ mới nói là:
– Tao vừa mới đổ một đấu đậu biển vào trong đám tro, nếu như mày có thể nhặt hết số đậu ấy trong vòng hai giờ đồng hồ thì tao sẽ cho mày được đi hội.
Lọ Lem vâng lời, cô lập tức chạy hướng cửa sau và ra vườn, cô gọi to:
– Hỡi những chú chim câu hiền lành, những chim gáy cùng tất cả những chú chim khác trên trời, các bạn hãy bay về đây nhặt đậu giúp em với:
Đậu ngon chim bỏ vào niêu,
Còn là đậu xấu chim bỏ vào diều chim nhé.
Cô vừa dứt tiếng gọi thì có hai con chim bồ câu màu trắng lập tức bay qua ô cửa sổ bếp và sà xuống đám tro nhặt đậu, tiếp theo còn có chim gáy, sau đó thì tất cả những loài chim đang bay trên trời đều đua nhau sà xuống nơi tro bếp.
Đôi chim bồ câu kêu gù gù hai tiếng rồi cúi đầu mổ lia lịa, liên tục phát ra những tiếng “píc, píc, píc”, chúng đem nhặt những hạt đậu tốt rồi bỏ vào trong nồi. Chưa hết một giờ đồng hồ thì đám chim đã cùng nhau nhặt xong chỗ đậu tốt ở trong đống tro bếp. Khi mọi việc xong xuôi thì đàn chim lại cùng nhau cất cánh mà bay đi. Lọ Lem mang chỗ đậu đã nhặt xong tới cho dì ghẻ xem, trong bụng mừng thầm, cô tin chắc rằng dì ghẻ sẽ cho mình đi theo tới chỗ dạ hội của nhà vua tổ chức. Nhưng không, mụ dì ghẻ nói với cô:
– Mày không thể đi đâu. Lọ Lem! Xem mày có được bộ quần áo tử tế nào không mà đòi đi nhảy, mọi người ở đó sẽ nhạo báng mày.
Khi trông thấy cô khóc nức nở thì dì ghẻ lại nói tiếp:
– Nếu như mày có thể nhặt hết hai đấu đậu biển lẫn trong đống tro ấy trong vòng một giờ đồng hồ thì tao sẽ cho mày được đi hội cùng.
Lúc đó dì ghẻ nghĩ rằng: “Nó chắc chắn không bao giờ có thể nhặt xong được”. Sau khi mụ dì ghẻ đã đổ hết đậu vào trong đống tro cạnh bếp, Lọ Lem lại đi từ cửa sau ra ngoài vườn và gọi lớn:
– Hỡi những chú chim câu hiền lành, những chim gáy cùng tất cả những chú chim khác trên trời, các bạn hãy bay về đây nhặt đậu giúp em với:
Đậu ngon chim bỏ vào niêu,
Còn là đậu xấu chim bỏ vào diều chim nhé.
Ngay lập tức lại có hai con chim bồ câu màu trắng lập tức bay qua ô cửa sổ bếp và sà xuống đám tro nhặt đậu, tiếp theo còn có chim gáy, sau đó thì tất cả những loài chim đang bay trên trời đều đua nhau sà xuống nơi tro bếp. Đôi chim bồ câu kêu gù gù hai tiếng rồi cúi đầu mà mổ lia lịa, liên tục phát ra những tiếng “píc, píc, píc”, chúng nhặt những hạt đậu tốt rồi bỏ vào trong nồi. Chưa hết nửa giờ thì đám chim đã cùng nhau nhặt xong chỗ đậu tốt ở trong đống tro bếp. Khi mọi việc đã xong thì đàn chim lại cùng nhau cất cánh mà bay đi. Lọ Lem đem chỗ đậu đã nhặt xong tới cho dì ghẻ xem, trong bụng mừng thầm, cô tin rằng lần này thể nào mình cũng sẽ được dì ghẻ cho phép tới chỗ dạ hội. Nhưng không, mụ dì ghẻ lại nói với cô:
– Dù mày làm gì cũng tốn công vô ích thôi Lọ Lem ạ! Mày không thể nào mà đi theo cùng được, bởi vì mày có đây quần áo đẹp mà lại đòi đi nhảy chứ. Chả nhẽ mày lại bắt chúng tao phải bẽ mặt với thiên hạ bởi vì đứa như mày sao?
Nói đoạn mụ dì ghẻ lập tức quay lưng và cùng với hai đứa con gái của mụ vội vã lên xe tới cung vua dự dạ hội. Khi trong nhà chẳng còn một bóng người thì Lọ Lem liền tìm ra mộ của mẹ, cô đứng ngay dưới gốc của cây dẻ mà gọi nhỏ:
– Cây ơi, hãy rung đi nào,
Hãy thả xuống cho em những áo vàng, áo bạc.
Khi cô vừa dứt lời thì chim liền thả xuống một bộ váy áo thêu những chỉ vàng chỉ bạc lấp lánh cho cô, còn thêm cả một đôi hài lụa cũng thêu chỉ bạc nữa. Lọ Lem vội vàng đem theo đống trang phục rực rỡ ấy vào nhà thay ra rồi đến chỗ dạ hội. Bởi vì Lọ Lem quá xinh đẹp nên cả mụ dì ghẻ lẫn hai đứa con gái của mụ đều không thể nào nhận ra được, bọn chúng cứ ngỡ rằng cô là công chúa của đất nước xa lạ nào đó được mời tới để dự dạ hội. Cả ba mẹ con mụ ta nào đâu ngờ được người đó chính là cô bé Lọ Lem, vẫn cứ đinh ninh cho rằng giờ phút này cô đang ở nhà lúi húi nhặt đống đậu ra khỏi tro bếp.
Hoàng tử bị thu hút bởi sắc đẹp lộng lẫy nên lập tức tiến lại gần cô, lịch sự đưa tay mời cô cùng nhảy một điệu. Hai người cùng nhau nhảy, và hoàng tử lại không muốn bắt cặp nhảy chung với một ai nữa, vì thế qua hết bài nhạc này tới bài nhạc khác vẫn không chịu rời tay khỏi tay cô. Khi có người khác tới để mời cô cùng nhảy thì hoàng tử lại nói rằng:
– Đây là bạn nhảy của tôi!
Cho đến khi tối đến, Lọ Lem muốn được về nhà, chàng hoàng tử lại nói:
– Hãy để tôi cùng đi, tôi muốn được đưa cô về tận nhà.
Hoàng tử muốn biết nàng thiếu nữ rất xinh đẹp này là tiểu thư của nhà nào. Khi đã gần tới nhà thì cô liền gỡ bàn tay của hoàng tử ra rồi nhảy lên phía chuồng của chim bồ câu. Còn chàng hoàng tử thì vẫn ngây ngốc đứng chờ ở đó rất lâu, đến tận khi người cha trở về nhìn thấy thì chàng liền kể lại cho ông nghe chuyện có một cô gái lạ mặt nhảy lên chuồng chim bồ câu. Vì vậy ông ta nghĩ thầm:
– Chẳng lẽ đó lại là Lọ Lem?
Nghĩ vậy nên ông ta liền đem rìu cùng câu liêm tới chẻ đôi chiếc chuồng chim bồ câu kia ra. Tuy nhiên thì ông chẳng thấy người nào ở đó. Rồi khi họ trở về đến nhà thì vẫn thấy Lọ Lem đang mặc trên người bộ quần áo nhem nhuốc và còn đang nằm ở trên đống tro bếp bẩn thỉu, ngay cạnh ống khói của lò sưởi vẫn có một ngọn đèn dầu đang cháy tù mù.
Nhưng thực sự là lúc đó Lọ Lem đã rất nhanh mà nhảy khỏi chuồng chim bồ câu, rồi chạy về phía cây dẻ bên mộ của người mẹ, thay bộ quần áo đẹp ra để lại đó. Và con chim kia lại sà xuống tha đống đồ đó đi mất. Sau đó thì Lọ Lem lại mặc lên người chiếc áo choàng màu xám cũ kĩ, trở lại đống tro cạnh bếp và nằm an ổn ở đó.
Ngày hôm sau dạ hội lại tiếp tục diễn ra như cũ. Đợi đến khi cả cha, dì ghẻ cùng hai người con gái của dì ghẻ đều đã đi hết. Lọ Lem mới đến chỗ gốc cây dẻ và gọi:
– Cây ơi, hãy rung đi nào,
Hãy thả xuống cho em những áo vàng, áo bạc.
Và chim lại thả cho cô một bộ trang phục còn lộng lẫy hơn cả hôm trước nhiều. Lọ Lem sau khi thay xong quần áo thì lại lên đường đến dạ hội. Cô xuất hiện dưới ánh đèn sáng của dạ hội khiến cho mọi người đều phải sửng sốt, cô đẹp đến rực rỡ làm cho ánh mắt của mọi người nhìn cô đều say đắm không nỡ rời.
Hoàng tử hôm nay đã đợi cô rất lâu, khi thấy cô đến lập tức tiến lại và nắm lấy tay cô. Hôm đó hoàng tử cũng chỉ nhảy cùng với duy nhất một người là cô mà thôi. Và những người khác ở trong dạ vũ đến mời cô cùng nhảy thì chàng hoàng tử lại nói:
– Đây là bạn nhảy của tôi!
Khi tối đến, lúc cô xin được trở về nhà thì hoàng tử lại theo sau, chàng muốn biết được nhà của cô ở nơi nào. Nhưng vừa mới đến nơi thì cô đã vội vã chạy về phía sau vườn. Nơi đó có cây lê đang kì trĩu quả nhìn thật ngon mắt. Lọ Lem nhanh như sóc liền trèo lên cây và lẩn trốn giữa những tán lá dày.
Lần này hoàng tử cũng chẳng biết được cô trốn ở nơi nào, chàng đành phải đợi người cha trở về rồi lại nói:
– Cô gái lạ mặt ấy lại chạy trốn rồi. Ta nghĩ cô ấy đã nhảy lên trên cây lê này rồi.
Người cha nghe vậy thì lại thầm nghĩ:
– Chẳng lẽ đó lại là Lọ Lem?
Người cha sai người đem rìu tới và đẵn cây lê kia xuống, nhưng mà chẳng trông thấy người nào ở trên cây cả. Khi tất cả mọi người cùng tới bếp, Lọ Lem đã ở đó, nằm trên đống tro bếp như mọi ngày khác.
Nhưng thực ra thì Lọ Lem đã nhảy xuống từ phía bên kia của cây lê, rồi đem bộ quần áo xinh đẹp tới trả cho chim vẫn đậu trên cây dẻ, sau đó mặc vào chiếc áo choàng xám bẩn thỉu của mình.
Ngày dạ hội thứ ba lại đến, cha, dì ghẻ cùng với hai cô con gái của dì ghẻ lại ăn diện rời khỏi nhà. Và Lọ Lem lại đến chỗ mộ của mẹ mình và bảo với cây dẻ:
– Cây ơi, hãy rung đi nào,
Hãy thả xuống cho em những áo vàng, áo bạc.
Lần này chim thả xuống cho cô một bộ váy áo vô cùng xinh đẹp, lộng lẫy chưa từng có và còn cả đôi hài làm bằng vàng. Lọ Lem thay quần áo đẹp, đi hài vàng tới dự dạ hội. Sự xuất hiện của cô khiến cho mọi người đều há hốc mồm ngạc nhiên, tất cả đều trợn tròn mắt mà ngắm nhìn cô.
Đêm này cũng không có gì khác, hoàng tử vẫn luôn nắm tay cùng cô nhảy hết bài này tới bài khác. Nếu như có ai khác tới và mời cô nhảy cùng thì chàng lại bảo:
– Đây là bạn nhảy của tôi!
Khi trời đã tối, Lọ Lem lại xin phép được trở về. Lần này hoàng tử cũng định sẽ đưa cô về, nhưng Lọ Lem lại nhanh hơn mà lẩn trốn khiến hoàng tử không theo kịp. Tuy nhiên thì lần này chàng hoàng tử đã nghĩ được một kế rất hay, chàng cho người đổ đầy nhựa thông trên chiếc thang, vì vậy nên lúc cô nhảy lên trên thang thì chiếc hài vàng bên chân trái vì bị nhựa thông dính chặt lại.
Lúc hoàng tử chạy tới nơi thì chỉ thấy chiếc hài bằng vàng nhỏ nhắn và xinh đẹp dính lại nơi đó, còn Lọ Lem thì đã biến mất. Ngày hôm sau chàng hoàng tử liền đem theo chiếc hài vàng đến nhà tìm người cha, chàng nói:
– Ta sẽ chỉ lấy người có thể đi vừa chiếc hài này làm vợ.
Hai đứa con gái của dì ghẻ nghe được chàng hoàng tử nói như vậy thì vui mừng vô cùng, bởi vì cả hai người đều có được những đôi chân rất đẹp. Người thử đầu tiên là cô chị cả, cô ta đem theo chiếc hài vàng vào trong buồng để thử cho mẹ mình nhìn trước. Tuy chân cô đẹp thật nhưng lại không cách nào nhét được ngón chân cái của mình vào trong chiếc giày. Dì ghẻ trông thấy vậy lập tức đưa cho con gái mình con dao rồi bảo:
– Con cứ cắt phăng cái ngón chân đó đi. Khi đã được làm hoàng hậu thì có bao giờ phải đi bộ đâu.
Cô con gái nghe mẹ nói vậy thì lập tức cầm dao chặt ngay ngón chân cái của mình đi, rồi sau đó cắn răng chịu đau mà nhét chân vào trong hài. Cô ta ra ngoài đến trước mặt hoàng tử. Khi thấy hài vừa chân, chàng hoàng tử liền nhận cô ta làm cô dâu của mình, chàng bế cô ta lên trên ngựa để cùng cưỡi trở về cung.
Trên con đường trở về hoàng cung, ngựa phải đi qua một ngôi mộ, ở đó có đôi chim bồ câu đang đậu ở trên cành cây dẻ, chim hót:
– Rúc-di-cúc, rúc-di-cúc.
Máu thấm trên hài,
Do chân dài quá,
Chính cô dâu thật,
Vẫn ở trong nhà.
Nghe tiếng chim hót, hoàng tử liền liếc nhìn dưới chân cô gái, chàng thấy máu vẫn đang chảy ra không ngừng, chàng lập tức dừng ngựa lại, rồi đưa cô dâu giả trả về nhà, và nói:
– Đây đâu phải là cô dâu thật của ta.
Chàng hoàng tử lấy lại chiếc hài vàng đưa cho cô em. Cô ta mang hài vào trong buồng để thử, may mắn là các ngón chân của cô ta đều lọt được vào trong hài, nhưng gót chân của cô ta lại quá to.
Lần này mụ dì ghẻ cũng đưa cho con mình một con dao và nói:
– Con cứ cắt phăng miếng gót chân ấy đi. Khi đã được làm hoàng hậu thì có bao giờ phải đi bằng chân đất đâu.
Nghe lời mẹ nên cô ta cắt một miếng lớn ở gót chân rồi lại cắn răng chịu đau đớn nhét chân mình vào trong chiếc hài nhỏ. Cô ra trình diện trước mặt hoàng tử. Thấy hài vừa chân nên chàng hoàng tử lập tức nhận cô ta làm cô dâu của mình, rồi lại bế cô ta đặt lên ngựa để cùng mình về cung.
Trên con đường trở về hoàng cung, ngựa phải đi qua một ngôi mộ, ở đó có đôi chim bồ câu đang đậu ở trên cành cây dẻ, chim hót:
– Rúc-di-cúc, rúc-di-cúc.
Máu thấm trên hài,
Do chân dài quá,
Chính cô dâu thật,
Vẫn ở trong nhà.
Nghe tiếng chim hót, hoàng tử liền liếc nhìn dưới chân cô gái, chàng thấy máu vẫn đang chảy ra không ngừng, chàng lập tức dừng ngựa lại, rồi đưa cô dâu giả trả về nhà, và nói:
– Đây cũng đâu phải là cô dâu thật của ta. Gia đình này còn có người con gái khác không?
Lần này người cha trả lời:
– Tâu hoàng tử là không còn ạ. Vợ cả của tôi trước khi qua đời để lại cho tôi một đứa con gái, nhưng đứa này cả người đều xanh xao và nhem nhuốc. Thứ như nó thì sao mà làm cô dâu cho được.
Tuy nhiên hoàng tử lại bảo ông ta cứ cho gọi cô gái đó ra đây. Mụ dì ghẻ thấy vậy thì liền chen ngang:
– Tâu hoàng tử, không nên làm thế đâu ạ. Cả người nó đều hết sức dơ bẩn, sao có thể gọi nó ra đây mà nhìn hoàng tử được.
Dù cho bọn họ có nói như thế nào đi nữa thì chàng hoàng tử vẫn cứ khăng khăng gọi cho được Lọ Lem ra gặp mặt. Lọ Lem liền rửa sạch mặt mũi, chân tay của mình sau đó mới ra cúi chào hoàng tử. Chàng liền đưa chiếc hài vàng nhỏ xinh cho cô. Lọ Lem ngồi xuống ghế, đem bàn chân nhỏ rút ra khỏi đôi guốc mộc nặng nề và xỏ vào trong hài vàng thì vừa như in. Lúc cô đứng dậy, chàng hoàng tử đã trông thấy khuôn mặt của cô thì lập tức nhận ra cô chính là cô gái xinh đẹp đã làm bạn nhảy của mình mấy ngày dạ vũ vừa rồi, chàng reo lên:
– Đây mới đúng là cô dâu thật của ta!
Mụ dì ghẻ cùng với hai đứa con gái của mụ lúc này cả khuôn mặt đều tái mét đi vì sợ hãi và tức giận. Chàng hoàng tử lập tức bế bổng nàng Lọ Lem đưa lên ngựa và trở về cung.
Trên con đường trở về hoàng cung, ngựa phải đi qua chỗ gốc cây dẻ, đôi chim bồ câu đang đậu ở trên cành cây liền hót:
– Rúc-di-cúc, rúc-di-cúc.
Hài không có máu,
Chân vừa như in,
Đúng cô dâu thật,
Hoàng tử dẫn về.
Sau khi hót xong thì đôi chim ấy liền bay tới và đậu trên vai Lọ Lem, mỗi con đậu một bên vai của cô.
Đám cưới của hoàng tử nhanh chóng được tổ chức, Lọ lem giờ đây đã trở thành công chúa. Hai đứa con gái của mụ dì ghẻ vì muốn phỉnh nịnh mong được hưởng theo phú quý nên cũng kéo đến. Khi đoàn rước dâu đi đến thì cô chị cả lập tức chạy tới bên phải, còn cô em thì lại chạy sang bên trái. Đôi chim bồ câu liền mổ cho mỗi cô mất một con mắt. Rồi khi hai chị em trở về, cô chị lại đi bên trái, còn cô em lại đi bên phải. Đôi chim bồ câu kia lại mổ cho mỗi cô mất thêm một con mắt nữa. Vậy là cả hai phải chịu cảnh mù lòa cả đời, họ bị trừng trị vì tội ác cũng như những giả dối suốt thời gian qua.
Nàng tiên cá
Tít ngoài biển khơi kia, nước xanh hơn cánh đồng hoa mua biếc nhất, trong vắt như pha lê, nhưng sâu thăm thẳm, sâu đến nỗi neo buông không tới đáy, phải chồng chất vô số ngọn núi đá mới lên tới mặt nước.
Chớ tưởng rằng đáy bể chỉ toàn là cát trắng. Nơi đấy, cỏ cây vẫn mọc, những loại cây kỳ diệu, thân lá mềm mại đến nỗi một gợn nước cũng có thể làm cho cây đu đưa. Cá lớn, cá bé lướt giữa những cành lá như chim bay qua các vòm cây trên mặt đất. Nơi sâu nhất, sừng sững lâu đài của vua Thủy Tề,tường bằng san hô, cửa sổ cao hình cung nhọn, bằng hổ phách trong suốt, mái lợp toàn vỏ ốc, mở ra khép vào theo chiều nước. Thật là tráng lệ! Nguyên một trong những hạt ngọc nằm trong từng vỏ ốc cũng đủ trang sức cho mũ miện của một bà Hoàng Hậu rồi. Vua Thủy Tề góa vợ từ lâu, công việc trong cung do Hoàng Thái hậu điều khiển. Bà là người khôn ngoan, nhưng rất kiêu hãnh về dòng dõi quý tộc của bà. Bà cài tới mười hai con ngọc trai ở đuôi, trong khi những bà khác trong Hoàng tộc chỉ đeo đến sáu con là cùng. Bà có nhiều đức tính tốt, nhưng tốt nhất là bà rất mực yêu thương các cô cháu gái, các nàng công chúa nơi thủy cung. Các cô nàng đều xinh đẹp, riêng nàng út đẹp hơn cả. Nàng có làn da nhỏ mịn như cánh hồng, có đôi mắt xanh thẳm như nước biển. Nhưng nàng cũng giống các chị, không có chân, chỉ có một cái đuôi như đuôi cá.
Suốt ngày các nàng nô đùa trong những cung thất rộng rãi, hoa nở khắp các hốc tường. Cửa sổ bằng hổ phách mở rộng, cá tung tăng bơi vào như chim én bay vào nhà chúng ta khi cửa ngỏ. Chúng xán đến cho các công chúa vuốt ve.
Trước lâu đài là một vườn rộng, cành lá xanh thẫm, quả vàng lóng lánh, cánh hoa đỏ ửng tựa than hồng, cùng với cuộng hoa rung rinh không ngớt. Mặt đất toàn một thứ cát rất mịn, xanh như ngọn lửa diêm sinh. Một luồng ánh sáng xanh biếc huyền diệu chiếu tỏa khắp nơi. Khi gió lặng, sinh vật dưới đáy biển có thể nhìn thấy mặt trời lóng lánh như một ông hoa đỏ thắm đang tỏa ánh sáng xuống đáy biển.
Mỗi nàng công chúa có một khoảnh vườn nhỏ để có thể vun xới, trồng trọt theo sở thích. Nàng này sắn luống theo hình cá voi, nàng kia theo hình tiên cá, nàng út sắn luống thành hình tròn như vầng thái dương, trồng thuyền thành một loài hoa đỏ tía như mặt trời.
Tính tình nàng út trầm lặng và đoan trang. Trong khi các cô chị bày biện những vật kỳ lạ chìm theo những con tàu bị đắm, thì ngoài những bông hoa đỏ tía như mặt trời, nàng chỉ thích một bức tượng rất đẹp rơi xuống biển bữa nào. Ấy là tượng một cậu bé xinh xắn tạc bằng đá trắng như tuyết.
Nàng trồng bên pho tượng một nhánh liễu đỏ tía, liễu mọc rất nhanh, cành lá rậm rạp chiếu bóng màu tím xuống nền cát xanh. Nàng thích nghe nói chuyện về loài người sống trên mặt đất có hương thơm mà loài hoa dưới biển không có, trên ấy rừng lại xanh biếc và cá lại có đậu trên cành cây cất tiếng hót mê hồn. Vì nàng chưa hề trông thấy chim, nên Hoàng Thái hậu phải gọi chim là cá, không thì nàng không thể hiểu được.Bà nói thêm rằng:
– Khi nào lên mười lăm tuổi cháu sẽ được phép ngồi trên mặt biển, ngồi dưới ánh trăng, trên một mõm đá mà nhìn tàu bè đi lại. Lúc đó cháu sẽ được tận mắt nom thấy rừng núi và thành phố.
Năm sau, cô chị cả mới đến tuổi mười lăm. Các nàng sinh năm một, vì thế nàng út còn phải đợi năm năm nữa mới mới được phép lên mặt biển xem trên ấy có những gì. Các nàng hứa sẽ lần lượt kể cho nhau nghe những điều mắt thấy trên mặt biển, vì bà Thái hậu chưa biết đấy đủ, còn vô khối cái mà các nàng tò mò muốn biết rõ hơn.
Người nóng ruột nhất là nàng út, vì nàng là người phải chờ đợi lâu nhất. Ban đêm, đứng bên cửa sổ, nhìn qua làn nước xanh sẫm, nàng thấy cả trăng sao. Qua làn nước, ánh trăng mờ nhạt đi, nhưng trăng sao lại to phìn ra khác thường, và mỗi lần chúng bị một vật gì che khuất như một đám mây lớn, nàng biết đó là một con cá voi đang bơi phía trên hay là một chiếc tàu lớn chở đầy người. Hẳn họ không ngờ rằng có một nàng tiên cá nhỏ nhắn đang lặng lẽ đứng dưới đáy biển với đôi tay trắng về phía con tàu.
Thế là đến tuổi mười lăm nàng công chúa cả được phép lên mặt biển.
Trở về, nàng kể lại hàng ngàn câu chuyện. Theo nàng, tuyệt nhất là được ngồi dưới ánh trăng trên bãi cát, khi bể lặng và nhìn thấy thành phố lớn gần bờ biển, có hàng trăm ánh đèn lấp lánh như sao sa, được nghe tiếng ca nhạc, tiếng xe cộ, tiếng người ầm ĩ, được trông thấy tháp nhà thờ, và nghe thấy tiếng chuông ngân vang.
Công chúa út chăm chú nghe chị kể. Chiều chiều, khi trở lại đứng bên cửa sổ nhìn qua làn nước xanh thẫm, tâm trí nàng bay bỗng về cái thành phố lớn có nhiều tiếng ồn ào, và lúc đó dường như có tiếng chuông ngân tới tận tai nàng.
Năm sau, chị hai được phép lên mặt nước để vùng vẫy thỏa thích. Nàng ló lên khỏi mặt nước vào lúc hoàng hôn và nàng cho rằng không còn gì đẹp bằng khung cảnh lúc ấy. Bầu trời như toàn bằng vàng, còn mây thì nhuộm một màu đỏ kỳ diệu. Gần nơi mặt trời lặn, một đàn thiên nga bay là là mặt nước trông như một dải dài bằng sa trắng. Chúng mất hút theo hướng ấy, rồi mặt trời lặn xuống nước, ánh hào quang vụt tắt trên mặt biển và trên các đám mây.
Năm sau nàng thứ ba được lên mặt nước. Nàng bạo dạn nhất trong năm chị em. Nàng bơi ngược dòng một con sông đổ ra biển và thế là nàng thấy được những đồi nho rực rỡ. Thành phố, lâu đài hiện ra sau dải rừng xanh. Chim hót ríu rít; mặt trời nóng bỏng đến nỗi nàng phải luôn luôn ngụp xuống nước cho mát da mặt.
Nàng trông thấy một đám trẻ con trần truồng nô đùa nhảy xuống nước trong một cái vịnh nhỏ. Nàng muốn vui chơi cùng chúng, nhưng chúng hoảng sợ bỏ chạy. Một con vật đen xì, một con chó mà nàng chưa hề thấy bao giờ, chạy tới. Nó sủa dữ dội đến nỗi nàng hoảng sợ, vội vã bơi nhanh ra biển khơi. Nhưng chẳng bao giờ nàng quên được núi rừng hùng vĩ, gò đống xanh tươi, và những đứa trẻ đáng yêu bơi lội rất giỏi mà chẳng cần đến đuôi cá.
Nàng thứ tư, vốn nhút nhát, thả mình đong đưa trên ngọn sóng, cho rằng không còn gì thú bằng. Mặt biển quanh nàng rộng tới hàng mấy dặm, bầu trời như một quả chuông vĩ đại bằng thủy tinh. Nhìn xa xa thấy tàu biển, nàng tưởng đó là giống chó bể.
Bầy cá heo nhào lộn trước mặt nàng, mấy con cá voi khổng lồ phun nước qua hai lỗ mũi làm cho nàng tưởng mình đang bơi giữa hàng trăm vòi nước đang phun.
Đến lượt nàng năm. Ngày sinh nàng vào mùa đông nên ngày đầu tiên trên mặt biển, cảnh vật nàng trông thấy không giống cảnh vật các chị nàng đã được mục kích. Bể xanh ngắt một màu. Xung quanh nàng những tảng băng nổi khổng lồ rập rờn trên mặt biển như là những viên ngọc quý lóng lánh và lớn hơn tháp chuông nhà thờ. Hình thù chúng rất quái dị. Nàng ngồi trên một tảng đá to nhất, gió đùa trên mái tóc, cá tung tăng bơi lặn xung quanh. Chiều đến, mây đen phủ kín bầu trời, sấm sét nổi lên, từng đợt song đen ngòm nâng bỗng những tảng băng khổng lồ sáng rực dưới ánh chớp.
Tất cả tàu bè đều hạ buồm. Ai nấy đều kinh hãi. Riêng nàng tiên cá vẫn trầm lặng ngồi trên núi băng ngắm ngía những tia chớp nổ ran trên mặt biển ngầu bọt.
Thoạt mới lên mặt nước nàng nào cũng say mê với những cảnh vật mới lạ, nhưng dần dần được tự do đi lại các nàng đã thấy dửng dưng. Các nàng vội quay về lâu đài dưới nước và chỉ một tháng sau đã cho rằng không kỳ diệu bằng đáy biển.
Thường buổi chiều, năm chị em cầm tay nhau bơi lên mặt biển. Các nàng có giọng hát mê hồn, hay hơn bất cứ giọng hát nào trên trần gian.
Khi giông tố nổi lên, tưởng chừng như sắp đánh tàu bè, các nàng liền bơi đến trước mũi tàu, cất giọng mê hồn ca ngợi vẻ đẹp nơi đáy biển, khuyên các thủy thủ chớ có sợ gì và mời họ theo các nàng về thủy cung; nhưng thủy thủ chẳng hiểu gì và cho rằng đó là những tiếng gào thét của cơn giông tố.
Vả chăng, khi xuống đáy biển, họ chẳng thể nhìn thấy cảnh đẹp huy hoàng ở đấy, vì nếu tàu đắm họ sẽ chết đuối, và chỉ còn là những cái xác không hồn.
Chiều chiều, khi năm chị em rủ nhau đi, nàng út ở lại một mình, ngó theo các chị, những muốn khóc lên. Nhưng nàng là cá, không có nước mắt, nên lòng càng thêm đau đớn bội phần. Nàng thở dài: “Ước gì ta đủ mười lăm tuổi! Chắc rằng ta sẽ yêu cuộc đời và những con người trên ấy”.
Cuối cùng nàng đã đến mười lăm tuổi.Bà bảo nàng:
– Thế là cháu đã trưởng thành. Lại đây để bà trang điểm cho, như các chị cháu.
Bà đặt tóc nàng một mũ miện hình hoa sen, dát ngọc, và ra lệnh cho tám con ngọc trai cặp vào đuôi nàng để tỏ rõ ngôi thứ của nàng.
Công chúa kêu lên:
– Đau quá!
Bà nàng bảo:
– Muốn đẹp thì phải đau một tí!
Nàng tiên cá chỉ muốn quẳng tất cả ngọc trai và mũ miện nặng trình trịch đi! Nàng thích trang điểm bằng những bông hoa nhỏ trồng trong vườn kia, nhưng nàng không dám trái lệnh bà Thái hậu.– Cháu đi đây, bà ạ!Nàng reo vừa lao mình lên mặt biển, nhẹ nhàng như bọt bong bóng.
Nàng lên tới mặt biển thì mặt trời lặn, mây còn ánh màu da cam, và trên bầu trời rực lửa, sao hôm đã lấp lánh sang ngời. Không khí êm đềm, mát mẻ, mặt biển phẳng như gương. Gió lặng. Một con thuyền có ba cột buồm đứng im phăng phắc, chỉ trương một cánh buồm. Thủy thủ đang nghỉ ngơi. Tiếng đàn, tiếng hát vọng ra và đến đêm, hang ngàn ngọn đèn lồng thắp sang trưng.
Quốc kỳ của tất cả các nước dăng lên trên thuyền và tung bay trước gió. Nàng tiên cá Bơi đến gần các cửa sổ ở mạn thuyền, và mỗi lần sóng nâng nàng lên, nàng nhìn được vào cả bên trong thuyền. Trong ấy có rất nhiều người ăn mặc sang trọng, người mặc đẹp nhất là một Hoàng tử chạc mười sáu tuổi. Hôm nay chính là ngày hội mừng sinh nhật hoàng tử. Thủy thủ nhảy múa trên thuyền và khi Hoàng tử bước ra, hàng trăm pháo hoa bay vụt lên không trung.
Pháo hoa rực sáng như ban ngày làm nàng tiên cá sợ hãi lặn xuống nước. Nàng lại nhô đầu lên và tưởng chừng như tất cả các sao trên trời rơi xuống đầu nàng. Chưa bao giờ nàng được xem đốt pháo hoa. Có bông đỏ rực như mặt trời vừa quay tít vừa rít lên, có bông bay vút lên bầu trời xanh và tất cả phản chiếu xuống mặt biển trong vắt. Trên thuyền sáng rực, nhìn rõ từng vật, nhìn người lại càng rõ hơn. Hoàng tử mới đẹp làm sao! Chàng tươi cười thân mật nắm tay mọi người, giữa tiếng nhạc vang lừng trong màn đêm lặng lẽ.
Đêm đã khuya, nhưng nàng công chúa vẫn không rời mắt khỏi con thuyền và chàng Hoàng tử đẹp trai. Đèn tắt, không còn pháo hoa, không còn tiếng đại bác nổ nữa. Người ta chỉ còn nghe thấy tiếng biển cả gầm thét. Nàng tiên cá vẫn ngồi trên sóng, nhìn qua cửa sổ ở mạn thuyền.
Gió nổi, thuyền nhổ neo, buồm lần lượt căng lên rồi sóng lớn mãi, mây đen kéo đến. Chẳng bao lâu sấm chớp nổi lên và một cơn phong ba khủng khiếp đổ tới. Thủy thủ vội vã hạ buồm. Chiếc thuyền cheo leo trên mặt biển đang động lên dữ dội. Từng đợt sóng dâng lên, đen ngòm, cao như những ngọn núi khổng lồ, hăm dọa đổ sập vào các cột buồm. Con thuyền dâng lên hạ xuống theo những đợt sóng ngầu bọt. Thủy thủ rất lo lắng, còn nàng tiên cá thấy cảnh tượng ấy lại lấy làm thích thú.
Những tấm vân dầy gãy gập trước những đợt sóng hung hãn. Con thuyền vỡ tan ra, cột buồm chính gãy đôi như một cây sậy, thuyền nghiêng sang một bên, nước ập vào khoang.Lúc đó nàng tiên cá mới hiểu là người trên thuyền đang gặp cơn phong ba nguy hiểm, và chính nàng cũng phải cẩn thận để khỏi va vào các mảnh thuyền vỡ tung đang trôi lềnh bềnh. Có lúc trời tối ngòm đến nỗi nàng không còn phân biệt được vật gì nữa; nhưng ánh chớp lóe lên làm nàng nhận ra từng người trên thuyền. Nàng chỉ chú ý nhìn theo chàng hoàng tử trẻ tuổi và khi thuyền chìm hẳn, nàng thấy chàng cũng chìm theo.
Thoạt đầu nàng mừng rỡ, tưởng rằng sẽ được gặp chàng nơi đáy biển. Nhưng nàng sực nhớ rằng con người không sống được dưới nước và khi tới giang sơn của vua Thủy tề thì chàng đã chết. Chết ư? Không, không thể để cho chàng chết được!
Nàng nâng đầu chàng lên khỏi mặt nước và cùng chàng phó mặc cho sóng cuốn.
Sáng hôm sau, cơn bão táp đã qua, nhưng chẳng còn dấu vết gì của con thuyền nữa. Mặt trời đỏ ửng chói lọi trên mặt biển, Hoàng tử trông như còn sống, nhưng đôi mắt vẫn nhắm nghiền. Nàng tiên cá hôn lên trán chàng. Người chàng đã lạnh toát như pho tượng cẩm thạch trong vườn hoa của nàng. Nàng hôn mãi lên trán chàng, lòng tha thiết mong chàng sống lại.
Đột nhiên, nàng trông thấy đất liền, thấy những rặng núi cao, một màu xanh biếc, đỉnh phủ tuyết, lóng lánh như đàn thiên nga đang ngủ. Dưới chân núi, gần bờ biển, có những khu rừng đẹp đẽ xanh tươi và một ngôi nhà, nhà thờ, nhà tu hay nhà gì đó, nàng chẳng rõ.
Chanh, cam đầy vườn, dừa mọc trước cửa. Biển xói vào bờ tạo thành một cái vịnh nhỏ, nước lặng và sâu, có núi đá bao quanh. Nàng dìu Hoàng tử về phía đó, đặt chàng lên bãi cát mịn và cẩn thận nâng cao đầu chàng lên.
Tiếng chuông nhà thờ đổ hồi trong ngôi nhà trắng xinh xắn và một đoàn thiếu nữ chạy ra vườn. Nàng tiên cá vội bơi ra nấp sau một tảng đá, lấy rong biển phủ đầu và trước ngực để khỏi lộ bộ mặt kiều diễm. Nàng cố ý theo dõi xem chàng Hoàng tử tội nghiệp sẽ ra sao.
Một lát sau, có một thiếu nữa đi tới. Lúc đầu, cô ta sợ, nhưng các cô khác đã kéo đến. Nàng tiên cá nhìn thấy Hoàng tử đã hồi tỉnh và mỉm cười với các thiếu nữ. Chỉ riêng với nàng, người đã cứu chàng, nhưng chàng không hề biết, chàng không tặng một nụ cười nào cả. Thế là nàng buồn thỉu. Và khi Hoàng tử đã vào khuất trong ngôi nhà, nàng lặn xuống nước, quay về nơi thủy cung.
Từ đó, sáng, chiều, nàng bơi lên nhìn lại nơi nàng đã đặt Hoàng tử. Nàng thường thấy có người ra hái trái cây, nàng thấy tuyết lóng lánh trên núi cao, nhưng nàng chẳng thấy Hoàng tử, và cứ thế nàng lại trở về, càng buồn bã hơn.
Niềm an ủi độc nhất của nàng là ngồi trong vườn, ôm lấy pho tượng cẩm thạch trông giống Hoàng tử như đúc. Nàng chẳng còn thiết hoa nữa, bỏ mặc hoa lan ra cả lối đi, cuốn cành cuốn lá vào cả các cây lớn.
Cuối cùng, không chịu nổi nữa, nàng kể lể nỗi niềm với một cô chị. Các chị khác cũng được biết chuyện và kể lại với vài bạn giáng liềng thân thiết nhất, trong số đó, có một cô biết rõ giang sơn của Hoàng tử.
– Đi nào, cô em bé bỏng!
Các chị gọi nàng rồi tay cầm tay, họ nối đuôi nhau bơi lên mặt nước, tới trước lầu Hoàng tử.Lầu này xây bằng các thứ đá màu rực rỡ và có những cầu thang lớn bằng cẩm thạch chạy xuống tận mắt nước. Mặt lầu cuộn tròn và thếp vàng lộng lẫy. Giữa các cột, quanh lầu, có những bức tượng bằng cẩm thạch trông như người thật. Nhìn qua cửa sổ cao, người ta thấy những căn phòng lộng lẫy, trải thảm lụa, và những bức chân dung kỳ diệu dăng đầy tường. Chính giữa căn phòng lớn, một vòi nước phun lên tới tận mái tròn. Từ mái lầu mặt trời rọi xuống mặt nước và cỏ cây mọc trong bể cạn.
Bây giờ nàng tiên cá đã biết nơi Hoàng tử ở. Từ đó, chiều và đêm, nàng thường trở lại đấy, ngồi trên mặt biển. Nàng còn bơi xa hơn các cô chị, bơi sâu vào đất liền, đến tận con kênh đào chảy dưới chân các bể bực thang lộng lẫy xây bằng đá cẩm thạch. Nàng ngồi đó ngắm ngía Hoàng tử, còn Hoàng tử thì tưởng rằng chỉ có một mình mình dưới ánh trăng.
Thường vào buổi chiều Hoàng tử dạo chơi giữa tiếng đàn nhạc, trên một con thuyền mắc đầy cờ xí. Lúc đó, nàng vượt hẳn lên mặt nước, gió đùa trên mái tóc màu bạc của nàng, trông hệt như một con thiên nga đang giương cánh.
Thường thường, nghe những người dân chài đánh cá ban đêm ca tụng Hoàng tử, nàng cảm thấy sung sướng, vì đã cứu chàng đêm nào bập bềnh, ngoắc ngoải giữa làn sóng, và nàng lại càng sung sướng mỗi khi nghĩ đến lúc ôm ghì đầu chàng vào ngực mà hôn. Nhưng chàng đâu có hề hay biết chuyện ấy mà nghĩ đến chuyện an ủi nàng. Càng ngày nàng thấy yêu mến loài người, nàng lại càng muốn gần họ, càng muốn sống với loài người trên cái thế giới rộng hơn giang sơn của nàng rất nhiều. Loài người có thể lướt trên sóng bằng thuyền bè, có thể leo lên tận đỉnh núi cao tít. Rừng núi, động ruộng của họ rải ra đến tân chân trời bao la. Còn biết bao nhiêu điều nàng muốn rõ mà các chị nàng không giải đáp cho nàng được.
Nàng tìm đến bà Thái hậu là người biết rõ về cái thế giới bên trên, mà nàng gọi là “xứ trên bể”. Nàng hỏi:
– Bà ơi, nếu loài người không chết đuối thì họ có thể sống vĩnh viễn được không? Họ có chết như chúng ta ở dưới bể không?
Thái Hậu bảo:
– Có chứ, họ chết và đời họ còn ngắn hơn đời chúng ta nữa kia! Chúng ta có thể sống tới ba trăm năm, nhưng khi lìa đời chúng ta sẽ biến thành bọt sóng và không có mồ mả để được chôn cất giữa những người thân yêu. Linh hồn chúng ta không tồn tại được lâu nên ta không thể hóa thành kiếp khác được, cũng ví như cây rong bể đã cắt rồi là hết xanh tươi. Loài người, trái lại có một linh hồn bất tử, ngay cả khi thân thể đã nằm im trong nấm mồ, linh hồn họ lúc ấy bay lên không trung. Cũng như chúng ta bơi lên mặt nước để nhìn đất liền, linh hồn họ bay lên những miền mà chúng ta không thể nào nhìn thấy được.
Nàng tiên cá buồn bã hỏi:
– Sao chúng ta lại không có một linh hồn bất diệt? Cháu sẵn sàng hiến ba trăm năm của cháu để được thành người, dù chỉ sống có một ngày để linh hồn được lên Thiên đàng.
Thái Hậu bảo:
– Cháu đừng nghĩ nhảm; dù sao chúng ta còn sung sướng hơn loài người nhiều lắm.
– Thế là cháu sẽ phải chết và hóa thành bọt bể ư? Lúc đó chẳng còn nghe thấy tiếng sóng vỗ nhịp nhàng, chẳng còn nhìn thấy hoa nở và mặt trời ửng hồng sao?
Thái Hậu nói thêm:
– Không cháu ạ, chỉ cần có một người yêu thương cháu thiết tha hơn cha mẹ. Nếu tâm hồn và tình yêu người đó dồn cả cho cháu và có một đức cha đặt tay cháu vào người đó thì lúc ấy hồn người đó truyền qua cháu và cháu sẽ được hưởng phần hạnh phúc dành riêng cho loài người. Nhưng việc đó không bao giờ có được. Ở dưới đáy bể chúng ta cho cái đuôi cá là đẹp nhất thì loài người cho là gớm ghiếc. Họ cho là cặp chân nặng nề của họ mới là đẹp kia!
Nàng tiên cá thở dài buồn bã nhìn cái đuôi của mình.
Thái Hậu bảo:
– Thôi cháu đi vui chơi với bà. Bà cháu ta sẽ nhảy nhót cho thỏa ba trăm năm của chúng ta. Cuộc đời như thế cũng đủ lắm. Cháu đi với bà! Tối nay có đại hội khiêu vũ trong cung đấy.Thật vậy, ở trên mặt đất, người ta không thể tưởng tượng được một khung cảnh lộng lẫy đến thế. Gian phòng khiêu vũ rộng lớn, tường và trần toàn bằng một thứ thủy tinh dầy, trong suốt. Hàng mấy trăm con ngao khổng lồ xanh đỏ xếp thành hai hàng dọc; cạnh chúng ta là những ngọn đuốc có ánh lửa xanh lam chiếu tỏa khắp phòng trông hệt như một bể ánh sáng rực rỡ. Hàng ngàn cá lớn, cá con, vẩy đỏ, vẩy vàng, vẩy bạc, bơi tung tăng bên ngoài tường kính.
Thanh niêm nam nữ sống dưới đáy biển nhảy múa và ca hát êm ái trên một dòng nước chảy giữa gian phòng; loài người không thể có giọng hát hay đến thế. Nàng công chúa út hát hay nhất.
Mọi người hoan nghênh nàng và có lúc nàng sung sướng nghĩ rằng giọng hát của nàng có thể hay nhất trần gian, trên đất liền cũng như trên mặt biển. Nàng chợt nghĩ đến thế giới trên mặt đất. Nàng không thể nào quên được chàng Hoàng tử trẻ tuổi và cảm thấy đau khổ vì không thể có được một linh hồn bất diệt. Giữa lúc mọi người vui chơi, ca hát, nàng lẩn tránh ra ngoài lâu đài của vua cha rồi ngồi âu sầu trong khu vườn nhỏ của mình. Bỗng nhiên nàng nghe thấy những tiếng động truyền qua làn nước biển vọng tới nàng.
Nàng nghĩ thầm:
– Chắc là tiếng chàng, người mà ta luôn luôn nghĩ tới, người mà ta yêu quý hơn cha mẹ, người mà ta muốn gửi gắm cả cuộc đời. Ta dám làm tất cả mọi việc để được gần chàng, để được có một linh hồn bất diệt. Trong lúc các chị còn đang mãi múa trong lâu đài của vua cha, ta thử tìm đến mụ phù thủy mà cho đến bây giờ ta vẫn khiếp sợ, may ra mụ có thể khuyên bảo và giúp ta điều gì.
Nghĩ thế nàng bơi đến động của mụ phù thủy, ở dưới cái vưc xoáy đang gầm thét.Nàng chưa hề qua nẻo đường này, một con đường chẳng có hoa và rong rêu gì cả, chỉ có cát mịn rải tới tận miệng vực, nước xoáy lồng lộng như dưới bánh cối xay máy.
Nàng vượt qua làn sóng vào tận xào huyệt của mụ phù thủy, ở giữa một khu rừng kỳ lạ. Cây cối, bờ bụi đều là những loại san hô, nửa động vật, nửa thực vật, trông như những con rắn trăm đầu mọc từ dưới đất lên, cành cây giống như những con rắn trăm đầu mọc từ dưới đất lên, cánh cây giống như những cánh tay dài nhầy nhụa.
Nàng công chúa kinh hãi đứng trước nhà mụ phù thủy, tim đập mạnh. Nàng toan bỏ chạy nhưng nghĩ đến hoàng tử và linh hồn con người nàng trở nên can đảm. Nàng quấn mớ tóc dài để tránh không cho những con san hô nắm được, khoanh tay vào trước ngực, bơi rõ nhanh như cá, lách qua các con san hô gớm ghiếc đang giơ những cánh tay khủng khiếp về phía nàng. Nàng thấy hàng trăm cánh tay của chúng, hệt như những cái kim sắt, cặp chặt lấy những bộ xương trắng hếu của những người bị chết đuối, những xác súc vật, và cái làm cho nàng kinh hãi nhất là có cả xác một nàng tiên cá.
Cuối cùng, nàng đến một cánh đầm lầy, lúc nhúc những con rắn gớm ghiếc, ở giữa là nhà mụ phù thủy xây bằng sọ những người chết chìm. Trước cửa nhà, mụ phù thủy đang ngồi cho con cóc ăn như loài người mớm thức ăn cho chim bạch yến vậy.
Mụ bảo:
– Ta biết ngươi muốn gì rồi. Hỡi nàng công chúa xinh đẹp, ngươi thật là điên rồ, ngươi sẽ bị đau khổ, nhưng ta cũng cứ giúp ngươi. Muốn cho hoàng tử yêu ngươi và chia sẻ linh hồn với ngươi, ngươi phải vứt bỏ cái đuôi cá và thay vào đó đôi chân như của loài người. Ngươi đến thật đúng lúc, vì nếu ngươi đến sau đêm nay thì một năm nữa ta mới có thể giúp ngươi được. Ta sẽ chế cho ngươi một liều thuốc, rồi ngươi bơi vào bờ, uống hết liều thuốc đó và sẽ biến thành một người con gái đẹp tuyệt trần. Dáng đi của ngươi sẽ nhẹ nhàng uyển chuyển như một vũ nữ, nhưng cứ mỗi bước đi ngươi sẽ thấy như kim châm và ứa máu chân ra. Nếu ngươi chịu được đau đớn ta sẽ giúp ngươi.
– Tôi xin chịu hết, nàng tiên cá vừa run rẩy trả lời vừa nghĩ đến hoàng tử và linh hồn bất diệt.
Mụ phù thủy bảo:
– Nhưng hãy nghĩ cho kỹ. Một khi đã biến thành người rồi ngươi không thể trở thành thủy nữ nữa được nữa. Không bao giờ ngươi gặp lại các chị ngươi, được quay về thủy cung nữa. Và nếu ngươi không chiếm được tình yêu của Hoàng tử để chàng yêu quý ngươi hơn cha mẹ chàng, nếu chàng không chịu làm lễ thàn hôn với ngươi thì ngươi không thể có linh hồn bất diệt được. Ngay sáng sau hôm hoàng tử lấy người khác làm vợ, tim ngươi sẽ tan nát và ngươi sẽ biến thành bọt biển.
– Tôi xin chịu đựng cả, nàng công chúa nhắc lại, mặt tái nhợt như người chết.
– Nhưng ngươi phải trả công cho ta không phải là ít. Giọng hát của ngươi hay nhất nơi đáy biển này, và ngươi tưởng rằng sẽ dùng trò mê hoặc hoàng tử, nhưng chính giọng hát ấy ngươi phải trao cho ta. Ta muốn đổi liều thuốc của ta lấy cái quý báu nhất của ngươi kia, vì chính ta cũng phải chích máu của ta để chế thành liều thuốc cho ngươi uống. Nó sẽ công hiệu như một thanh kiếm hai lưỡi vậy.
Thủy nữ lo lắng:
– Nhưng nếu mụ lấy mất giọng hát của tôi thì tôi chẳng còn gì nữa ư?
– Còn cái sắc đẹp, cái dáng đi nhẹ nhàng, duyên dáng và đôi mắt tình tứ của ngươi. Bấy nhiêu cũng đủ say đắm một con người rồi. Thế nào? Hay ngươi lại sợ rồi? Thè cái lưỡi con con ra cho ta cắt để đổi lấy liều thuốc.
– Được, thủy nữ đáp.
Liền đó, mụ phù thủy lấy một cái nồi ra để pha thuốc.
– Sạch sẽ vẫn là một thói tốt! Vừa nói mụ vừa lấy một búi toàn là rắn để chùi nồi.
Rồi mụ rạch ngực cho máu chảy xuống và thêm hết vị thuốc này đến vị thuốc khác cho vào trong nồi. Một làn khói dầy đặc bốc lên. Cuối cùng liều thuốc đã chế xong, lúc này trong suốt như nước.
– Đây cầm lấy.
Mụ phù thủy nói rồi cắt luôn lưỡi nàng tiên cá. Thế là từ đấy nàng tiên cá không thể hát và nói được nữa.
– Khi qua rừng, nếu loài san hô định bắt ngươi cứ rẩy cho chúng vài giọt nước này.
Nàng tiên cá chẳng cần phải làm thế. Các thủy quái vừa thấy bình thuốc lóng lánh như sao trong tay nàng đã sợ hãi rụt tay lại. Nàng vượt qua cánh rừng và các vực sâu bình yên vộ sự. Nàng đã lại nhìn thấy lâu đài của vua cha. Các ngọn đuốc nơi phòng lớn đã tắt, mọi người đang say sưa yên giấc. Nàng chẳng dám đánh thức ai cả, nhất là bây giờ nàng đã câm rồi. Nàng sắp phải vĩnh viễn lìa xa tất cả. Lòng nàng se lại vì đau khổ. Nàng lén ra vườn hái trong một khoảnh vườn của các chị một bông hoa, gửi hàng nghìn chiếc hôn về phía lâu đài, rồi bơi qua làn nước xanh thẳm, nhoi lên mặt biển.
Mặt trời chưa mọc, hoàng tử đang bước lên trên những bậc thang cẩm thạch rực rỡ. Trăng chưa lặn, tỏa một ánh sáng dịu dàng. Nàng tiên cá uống liều thuốc nóng bỏng. Nàng thấy hình như có một thanh kiếm hai lưỡi đâm xuyên qua làn da thịt mềm mại, và nàng nằm đấy, ngất đi. Khi mặt trời chiếu sáng trên ngọn sóng, nàng tỉnh dậy, và thấy người đau nhói. Chàng hoàng tử trẻ tuổi đã đứng trước mặt, đôi mắt đen nhánh chăm chú nhìn nàng. Nàng nhìn xuống thấy đuôi cá đã biến mất, thay vào đấy là một cặp chân trắng muốt như chân của một người con gái. Thấy mình thân thể lõa lồ nàng vội lấy làn tóc dài quấn vào người như một cái áo choàng. Hoàng tử hỏi nàng là ai, ở đâu, nàng nhìn chàng với đôi mắt xanh thẳm, âu yếm nhưng buồn rầu, không nói được một lời.
Hoàng tử cầm tay dắt nàng về lầu. Mỗi bước đi, đúng như lời mụ phù thủy nói, nàng cảm thấy như giẫm lên kim hay gốc rạ phát nhọn, nhưng nàng cố chịu đựng, không hề kêu ca. Nàng đi bên chàng, nhẹ như bông hồng, và chàng, cũng như mọi người trong lầu, đều say mê dáng đi uyển chuyển, nhẹ nhàng của nàng.
Người ta mặc cho nàng quần áo lượt là. Trong lâu đài này, nàng là người đẹp nhất, nhưng chẳng biết nói mà cũng chẳng biết hát. Rất nhiều cung nữ, quần áo lụa dát vàng, đến ca hát trước hoàng tử, vua và hoàng hậu, người nào hát cũng hay và được hoàng tử vỗ tay khen ngợi trước tiên. Nàng tiên cá rất buồn rầu vì biết rằng mình còn có thể hát hay hơn thế.
Nàng nghĩ
:– Ôi! Nếu chàng biết được rằng ta đã phải vĩnh viễn hy sinh giọng hát của ta chỉ vì muốn được sống bên chàng!
Hát xong, cung nữ nhảy múa theo điệu nhạc rất du dương. Nàng tiên cá liền giơ cao đôi cánh tay nõn nà, nhấc gót lên, đầu gót chân lướt trên mặt sàn, cất bước nhảy múa một bài tuyệt đẹp. Mỗi cử chỉ làm tôn vẻ đẹp của nàng lên và đôi mắt nàng làm xúc động tâm hồn hơn các cung nữ.
Mọi người đều ngất ngây, nhất là hoàng tử. Chàng gọi nàng là cô bé lạc loài. Nàng vẫn tiếp tục nhảy múa, mặc dầu mỗi lần chạm chân xuống đất nàng cảm thấy đau đớn như giẫm lên gốc rạ vót nhọn. Hoàng tử lưu nàng lại và cho phép nàng ngủ trên chiếc đệm nhung, ngay trước cửa phòng mình. Hoàng tử còn cho may một bộ nam phục để nàng có thể cưỡi ngựa đi chơi cùng chàng. Hai người đi dạo qua những cánh rừng thơm ngát, cành lá xanh tươi rủ xuống vuốt ve vào vai họ, trên cành chim hót líu lo. Nàng cùng hoàng tử leo lên núi cao. Khi mọi người nhìn thấy chân nàng đẫm máu nàng vẫn mỉm cười và cùng chàng leo lên mãi đến khi thấy mây bay dưới chân tựa như những đàn chim bay từng đàn về xứ nóng.
Khi mọi người đã ngủ yên trong lâu đài, nàng ngồi xuống bậc thang cẩm thạch bên bờ biển, dúng đôi chân nóng bỏng xuống nước lạnh cho dịu cơn đau. Dần dần chân bớt đau, nàng nhìn biển cả, chạnh lòng nhớ đến những người thân yêu dưới đáy biển. Nàng bỗng thấy các chị đang cầm tay nhau hiện trên mặt biển, vừa bơi vừa hát véo von. Nàng vẫy họ và các chị đã nhận ra nàng, nói cho nàng biết nỗi âu sầu từ khi nàng bỏ đi. Từ đấy đêm nào các chị cũng đến, và có lần nàng trông thấy cả bà Thái Hậu là người đã hàng bao năm nay không lên đến mặt biển; nàng trông thấy cả vua Thủy tề, đầu đội mũ miệng vàng. Hai ngài giơ tay về phía nàng, nhưng không dám vào gần bờ như các chị nàng.
Mỗi ngày thủy nữ càng yêu hoàng tử, nhưng hoàng tử chỉ yêu nàng như yêu một người em gái hiền hậu, dễ thương thôi. Chẳng hề biết rằng nếu chàng không lấy nàng thì nàng sẽ không thể nào trở thành người có linh hồn bất diệt được và sau ngày chàng lấy người khác làm vợ, nàng sẽ phải biến thành bọt biển.
Anh không yêu em hơn tất cả mọi người sao? Đôi mắt người thủy nữ hình như hỏi vậy khi hoàng tử xiết chặt người nàng trong tay và hôn lên trán nàng. Hoàng tử bảo nàng:
– Đúng lắm, ta yêu em vì em có một tấm lòng tốt hơn cả. Em là bạn quý nhất của ta. Em giống hệt như một thiếu nữ mà ta đã gặp, nhưng rồi có lẽ ta chẳng bao giờ gặp nữa. Khi đó ta đang ở trên một chiếc tàu bị đắm. Sóng biển đánh giạt ta vào một nhà tu, nơi có nhiều thiếu nữ đã nguyện dốc lòng đi theo Thượng đế. Nàng trẻ nhất thấy ta nằm sóng sượt trên mặt biển đã cứu ta thoát chết. Ta chỉ gặp nàng có một lần, nhưng chỉ có nàng là người ta có thể yêu được thôi. Em giống hệt nàng và gợi lại hình ảnh nàng trong tâm trí ta. Nàng đã đi tu, nhưng nàng đã cử em đến đây như một sứ giả của tình bạn. Chẳng khi nào ta còn được gặp nàng nữa.
Nàng tiên cá nghĩ thầm:
– Trời ơi! Chàng không biết, chính ta đã cứu chàng thoát chết. Chính ta đã vượt sóng đưa chàng đến tận nhà tu trong rừng. Chính ta đã nấp sau tảng đá mong mỏi có người thấy mà cứu chàng, và chính ta đã trông thấy người con gái mà chàng yêu hơn ta.
Nàng không khóc được, nhưng thở dài não ruột, tự nhủ:
– Chàng đã chẳng bảo rằng cô ta đi tu hay sao? Như thế thì chẳng bao giờ cô ta được ra và họ chẳng thể gặp nhau được. Còn ta, ta sống gần hàng ngày trông thấy chàng, ta muốn được hầu hạ, yêu quý chàng và hiến dâng cho chàng cả cuộc đời của ta.
Trong cung, người ta đã bàn tán đến chuyện hoàng tử sắp lấy một nàng công chúa xinh đẹp, con vua nước giáng liềng. Người ta đã chuẩn bị một chiếc tàu trang hoàng lộng lẫy.
Nhân dân đồn đại:
– Hoàng tử nói là đi viếng thăm nhà vua, nhưng chính là sang xem mặt công chúa. Hoàng tử mang theo rất nhiều tùy tòng.
Nàng tiên cá mỉm cười, lắc đầu vì nàng biết rõ hơn ai hết ý định của hoàng tử. Hoàng tử nói với nàng:
– Phải, chính ta đi xem mặt công chúa, vì vua cha và hoàng hậu bắt buộc ta, nhưng cha mẹ chẳng thể bắt buộc ta phải cưới công chúa được, chắc chắn là công chúa không thể nào giống được người thiếu nữ trong nhà tu. Nếu ta lấy vợ, người đó sẽ là “nàng”, hay là em người em gái lạc loài, giống hệt như “nàng”, chỉ nói bẳng mắt mà không nói bằng lời.
Nói rồi chàng hôn lên đôi môi đỏ thắm, mâm mê bộ tóc dài của nàng ép đầu nàng vào ngực chàng. Suốt đêm đó nàng tiên cá đáng thương mơ được sống hạnh phúc và có một linh hồn bất diệt như loài người.
Khi tàu sửa soạn xong, hoàng tử hỏi nàng:
– Em câm của ta, em không sợ biển cả đấy chứ?
Rồi chàng nói về những cơn giông tố, về cảnh trời yên bể lặng, về những con cá biến kì dị.Nghe chàng nói, nàng mỉm cười, vì nàng biết rõ đáy biển hơn bất cứ một người nào.
Một đêm trăng, khi mọi người đã yên ngủ, trừ người hoa tiêu, nàng cúi trên thành tàu nhìn qua làn nước biếc, tưởng như nhìn thấy lâu đài của cha nàng. Bà nàng ngồi đó nhìn con tàu qua làn sóng đang cuốn lên dữ dội. Nàng vẫy tay ra hiệu muốn nói cho các chị biết rằng mình rất sung sướng, nhưng chợt có một anh thủy thủ đến, các chị vội lặn xuống nước. Anh thủy thủ tưởng rằng đấy chỉ là một đám bọt sóng.
Sáng hôm sau, tàu cập bến tại kinh đô nước giáng liềng. Chuông nhà thờ kéo vang, lính tráng mang cờ, súng cắm lưỡi lê, dàn thành cơ đội để duyệt binh. Mỗi ngày có những cuộc vui mới; yến tiệc, khiêu vũ liên tục, nhưng nàng công chúa vẫn chưa về. Người ta nói rằng hiện nàng đang ở một nhà tu xa để trau dồi đức hạnh theo lễ giáo của các vua chúa. Cuối cùng, nàng đã về.
Thủy nữ nóng lòng muốn biết mặt người con gái có sắc đẹp lừng danh ấy. Nàng đã phải công nhận điều đó. Nàng chưa bao giờ thấy một người dễ thương, có làn da mịn màng, đôi mắt xanh thẳm lóng lánh dưới hàng lông mày đen và dài như vậy.
Hoàng tử reo lên:
– Chính em, chính em đã cứu ta khi ta mê man trên bãi biển.
Rồi chàng ôm lấy người vợ chưa cưới và bảo nàng tiên cá:
– Hạnh phúc quá! Điều mơ ước tha thiết nhất đời ta đã thực hiện được. Cô bạn quý mến của ta ơi, em hãy chia xẻ hạnh phúc với ta!
Nàng công chúa thủy cung hôn tay hoàng tử, nhưng cảm thấy cõi lòng tan nát. Ngày cưới chàng sẽ là ngày nàng từ gĩ cõi trần và biến thành bọt biển.
Chuông tất cả nhà thờ khua vang, sứ giả chạy khắp phố phường báo tin công chúa kết hôn. Trên khắp các nhà thờ, dầu thơm bốc lên nghi ngút trong những cây đèn bạc quý giá. Các cha cố lắc lư đỉnh trầm; cặp vợ chồng mới cầm tay nhau nhận phước trước đứa giám mục. Nàng tiên cá bận áo lụa thêu vàng, nâng đuôi áo của công chúa. Nhưng nàng chẳng còn nghe thấy tiếng nhạc du dương, chẳng còn trông thấy lễ cưới tưng bừng. Nàng còn phải nghĩ đến cái chết đêm nay và tất cả những gì sẽ mất đi, đối với nàng, trên thế gian này.
Ngay đêm đó, cặp vợ chồng mới cưới trở lại con tàu giữa tiếng súng chào và cờ bay phấp phới. Chính giữa tàu là cán lều có căng màn đỏ rực thêu vàng, nơi mà cặp vợ chồng mới cưới sẽ nghỉ đêm.
Gió căng buồm và tàu lướt nhẹ nhàng trên làn nước trong vắt.
Đêm đến, người ta đốt đuốc sáng trưng, thủy thủ nhảy múa vui vẻ trên boong. Nàng tiên cá nhớ lại đêm đầu tiên nàng được phép lên mặt biển. Nàng đã được trông thấy một cuộc dạ hội tưng bừng náo nhiệt như đêm nay. Lúc này nàng còn đủ can đảm để khiêu vũ; nàng nhảy múa nhẹ như én liệng làm mọi người phải thán phục; chưa bao giờ nàng nhảy đẹp như đêm nay. Chân bước như giẫm lên gốc rạ vót nhọn, nhưng nàng đâu có cảm thấy đau, vì còn có một nỗi đau khổ mãnh liệt hơn đang dày vò tâm can nàng. Nàng biết rằng đêm nay là đêm cuối cùng nàng được nhìn thấy con người mà vì ai nàng lìa bỏ cha mẹ, quê hương, hy sinh tiếng nói và giọng hát huyền diệu, và ngày lại ngày, nàng đã phải âm thầm chịu đựng bao nhiêu nỗi đau đơn ê chề mà không ai biết tới. Đêm nay là đêm cuối cùng nàng được thở chung bầu không khí với người đó, nàng được nhìn thấy biển sâu và sao trời vằng vặc. Một đêm sâu thẳm, vĩnh viễn, một đêm vô tri vô giác, không mơ, không mộng, đang chờ đón nàng, chỉ vì nàng không có và chẳng hề có một linh hồn bất diệt được.
Cuộc vui r