Top 10 Bài thơ hay nhất của nhà thơ Tú Mỡ

Nhà thơ Tú Mỡ, tên thật là Hồ Trọng Hiếu. Ông sinh ngày 14 tháng 3 năm 1900, tại phố Hàng Hòm, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội trong một gia đình tiểu thủ công nghèo. Nói đến Tú Mỡ là người ta dễ liên hệ đến bậc đàn anh Tú Xương. Hai ông là những đỉnh cao của thơ trào phúng. Mà đã là thơ trào phúng ắt sẽ phải chạm đến tâm hồn Việt. Tuyệt nhiên không có thứ thơ trào phúng lai căng, nhập ngoại. Ở Tú Mỡ, bên trong cái buồn cười, đầy vẻ trào lộng ấy lại là một con người rất mẫn cán với công việc và nhân hậu với cuộc đời, bằng hữu, đặc biệt là với người thân trong gia đình.

Ông và cháu

Làm được ông

Không phải dễ

Biết yêu trẻ

Cho ra yêu;

Biết nuông chiều

Cho đúng độ;

Biết dạy dỗ

Chẳng cần roi;

Biết trò chơi

Cho trẻ thích;

Chuyện cổ tích

Biết thật nhiều;

Kể thế nào

Nghe thật khoái;

Biết gấp giấy

Làm thằng người,

Làm thuyền mui,

Làm tên lửa,

Làm con ngựa,

Làm chim cò...

Biết làm bò

Cho cháu cưỡi;

Bài hát mới

Biết dăm ba,

Dậy hát ca

Và biểu diễn;

Biết xử kiện

Cho thông minh,

Được cảm tình,

Không trái lẽ.


Tính con trẻ

Hay tò mò

Hỏi bất ngờ

Vài câu hóm

Oái oăm gớm

Ai? Tại sao?

Làm thế nào?

Nhiều lúc bí...

Ông phải nghĩ

Đáp cho thông.


Cháu với ông

Hai thế hệ

Già hợp trẻ,

Trẻ hợp già

Vui cửa nhà

Thật hạnh phúc!

Ông và cháu
Ông và cháu
Ông và cháu
Ông và cháu

Tương tư

Vì ai nên nỗi nhớ cùng thương
Một mối tơ tình dạ vấn vương
Sáu khắc mơ màng hình bạn ngọc
Năm canh nhớ tưởng bóng người vàng
Ruột tằm chín khúc vò tơ rối
Giấc điệp năm canh diễn khắc trường
Muốn nhắn cùng ai, ai nhắn hộ
Mòn đuôi con mắt giải sông Tương.

Tương tư
Tương tư
Tương tư
Tương tư

Sư cô ở cữ

Chùa Yên Lạc, phủ Khoái Châu

(Tên sao khéo đặt nên câu hữu tình!)

Có bà sư trẻ xinh xinh,

Tuổi chừng ba chục xuân xanh đang vừa.

Vẻ người bầu bĩnh dễ ưa,

Nõn nà tay ngọc, mởn mơ má hồng.

Tuy duyên lộ vẻ mặn nồng,

Sư bà vẫn muốn hết lòng chân tu.

Nhưng rồi một sáng mùa thu,

Người ta thấy vị ni cô sượng sùng.

Bụng đeo cái trống cà rùng,

Đến nhà thương để tìm phòng khai hoa.

Các ngài Bồ Tát, Thích Ca,

Độ trì phù hộ sư bà trẻ son.

Đẻ ra một cậu sư con,

A Di Đà Phật! Mẹ tròn con vuông.

Đẻ xong từ giã nhà thương,

Gởi con nhà nước lên đường lại tu.

Dốc lòng tu… hú, tu… mu,

Tại miền khoái lạc, cảnh chùa yên vui.

Phật thương rồi cứ quen mùi,

Sẽ năm một, ba năm đôi xòn xòn.

Sinh năm đẻ bảy sư con,

Càng ngày quả phúc càng tròn hơn xưa.

Ngẫm ngày mùng tám tháng tư,

Bụt còn đẻ, nữa là sư?! Ngượng gì!

Sư cô ở cữ - Hình minh hoạ
Sư cô ở cữ - Hình minh hoạ
Sư cô ở cữ - Hình minh hoạ
Sư cô ở cữ - Hình minh hoạ

Thương ông

Ông bị đau chân

Nó sưng nó tấy

Đi phải chống gậy

Khập khiễng, khập khà

Bước lên thềm nhà

Nhấc chân quá khó

Thấy ông nhăn nhó

Việt chơi ngoài sân

Lon ton lại gần,

Âu yếm, nhanh nhảu:

“Ông vịn vai cháu,

Cháu đỡ ông lên.”


Ông bước lên thềm

Trong lòng sung sướng

Quẳng gậy, cúi xuống

Quên cả đớn đau

Ôm cháu xoa đầu:

“Hoan hô thằng bé!

Bé thế mà khoẻ

Vì nó thương ông.”


Đôi mắt sáng trong

Việt ta thủ thỉ:

“Ông đau lắm nhỉ?

Khi nào ông đau

Ông nhớ lấy câu

Bố cháu vẫn dạy

Nhắc đi nhắc lại:

- Không đau! Không đau!

Dù đau đến đâu,

Khỏi ngay lập tức.”


Tuy chân đang nhức,

Ông phải phì cười:

“Ừ, ông theo lời

Thử xem có nghiệm”

Ông bèn nói liền:

“Không đau! Không đau!”

Và ông gật đầu:

“Khỏi rồi! Tài nhỉ!”

Việt ta thích chí:

“Cháu đã bảo mà...!”

Và móc túi ra:

“Biếu ông cái kẹo!”


Nửa đầu của bài thơ này được trích giảng trong sách giáo khoa cấp I trong nhiều năm.


Nguồn: Định Hải, Hương cốm, NXB Kim Đồng, 1975

Thương ông
Thương ông
Thương ông
Thương ông

Mười thương

Một thương tóc lệch đường ngôi,

Hai thương quần trắng, áo mùi, khăn san.

Ba thương hôm sớm điểm trang,

Bốn thương răng ngọc hai hàng trắng phau.

Năm thương lược Huế cài đầu,

Sáu thương ô lục ngả màu thanh thiên.

Bảy thương lắm bạc nhiều tiền,

Tám thương động tí nữ quyền giở ra.

Chín thương cô vẫn ở nhà,

Mười thương... thôi để mình ta thương mình...


Nguồn: Tú Mỡ, Giòng nước ngược - Tập I, Trung Bắc Tân Văn, 1934

Mười thương
Mười thương
Mười thương
Mười thương

Mùa xuân

Dung dăng dung dẻ

Dẫn trẻ đi chơi

Mùa xuân đến rồi

Ánh xuân tươi sáng.


Đám mây bông trắng

Nổi giữa trời xanh

Gió đưa bồng bềnh

Cao vời lồng lộng


Vườn thênh thang rộng

Cỏ non xanh vờn

Hoa đào tươi thắm

Vườn xuân đầm ấm

Ríu rít chim ca.

Mùa xuân
Mùa xuân
Mùa xuân
Mùa xuân

“Phở” đức tụng

Trong các món ăn “quân tử vị”,

Phở là quà đáng quý trên đời.

Một vài xu, nào đắt đỏ mấy mươi,

Mà đủ vị: ngọt, bùi, thơm, béo, bổ.

Náy bánh cuốn, này thịt bò, này nước dùng sao nhánh mỡ,

Ngọn rau thơm, hành củ thái trên.

Nước mắm, hồ tiêu, cùng dấm, ớt điểm thêm,

Khói nghi ngút đưa lên thơm ngát mủi.

Như xúc động tới ruột gan bàn phổi,

Như giục khơi cái đói của con tì.

Dẫu sơn hào, hải vị khôn bì,

Xới một bát nhiều khi chưa thích miệng.

Kẻ phú quý cho chí người bần tiện,

Hỏi ai là đã nếm không ưa,

Thầy thông, thấy phán đi sớm về trưa,

Điểm tâm phở, ngon ơ và chắc dạ.

Cánh thuyền thợ làm ăn vất vả,

Phở xơi no cũng đỡ nhọc nhằn.

Khách làng thơ đêm thức viết văn,

Được bát phở cũng đỡ băn khoăn óc bí…

Bọn đào kép, con nhà ca kỹ,

Lấy phở làm đầu vị giải lao.

Chúng chị em sớm mận tối đào,

Nhờ có phở cũng đỡ hao nhan sắc.

Phở là đại bổ, tốt bằng mười thang thuốc bắc,

Quế, phụ sâm, nhung chưa chắc đã hơn gì.

Phở bổ âm, dương, phế, thận, can, tì,

Bổ cả ngũ tạng, tứ chi, bát mạch.

Anh em lao động đồng tiền không rúc rích,

Coi phở là môn thuốc ích vô song.

Các bậc vương tôn thường chả phượng, nem công,

Chưa chén phở, vẫn còn chưa đủ món.

Chớ chê phở là đồ ăn hèn mọn,

Dẫu sao thành Ba-Lê còn phải đón phở sang.

Cùng các cao lương vạn quốc phô trương,

Ngon lại rẻ, thường hay quán giải.

Sống trên đời, phở không ăn cũng dại,

Lúc buông tay ắt phải cúng kem.

Ai ơi, nếm thử kẻo thèm.


Nguồn: Việt Nam thi nhân tiền chiến, Nguyễn Tấn Long và Nguyễn Hữu Trọng, Xuân Thu tái bản, 2000

“Phở” đức tụng
“Phở” đức tụng
“Phở” đức tụng
“Phở” đức tụng

...Và ông già trẻ

Ngược đời có lắm cụ già nua

Nhí nhảnh làm ra bộ tuổi thơ

Đầu tóc nhuộm đen hòng trẻ lại

Râu ria cạo trụi rõ...trai lơ

Đua chơi ra phết ông còn khoẻ

Làm việc lơ mơ, cụ kiếu già

Thấy gái y như mèo thấy mỡ

Năm thê bảy thiếp cũng không vừa.

Nhà thơ Tú Mỡ
Nhà thơ Tú Mỡ
...Và ông già trẻ
...Và ông già trẻ

Khóc người vợ hiền

Bà Tú ơi! Bà Tú ơi!

Té ra bà đã qua đời, thực ư ?

Tôi cứ tưởng nằm mơ quái ác,

Vùng dậy là tỉnh giấc chiêm bao

Tỉnh dậy, nào thấy đâu nào,

Nào đâu bóng dáng ra vào hôm mai

Đâu bóng dáng con người thùy mị,

Tuy tuổi già xấp xỉ bảy mươi,

Vần còn khỏe mạnh, vui tươi,

Le te, nhanh nhẹn như thời xuân xanh.

Nhìn sau lưng vô tình cứ ngỡ

Một cô nào thiếu nữ thanh tân.

Vậy mà cái chết bất thần

Cướp bà đi mất, vô ngần xót xa!

Kể từ thuở đôi ta kết tóc,

Thấm thoát gần năm chục năm qua

Thủy chung chồng thuận vợ hòa,

Gia đình hạnh phúc thật là ấm êm.


Tôi được bà vợ hiền thuần thục,

Cảm thấy mình tốt phúc bao nhiêu!

Đôi ta cùng một cảnh nghèo,

Đạo chồng vợ lấy chữ yêu làm nền.

Nhớ khi giường bệnh đã nằm,

Bà còn thủ thỉ tình thâm thương chồng

"Tôi mà chết thì ông sẽ khổ,

Vì, cứ theo câu cổ ngữ ta

Xưa nay con cái nuôi cha

Cũng không chu đáo bằng bà nuôi ông.

"Bà ơi, hãy dầu lòng yên dạ,

Giấc nghìn thu cho thoả vong hồn,

Bà đi, đã có dâu con,

Một lòng phụng dưỡng, chăm nom bố già.

Tôi có khổ, âu là chỉ khổ

Vì thiếu bà, nhà cửa vắng tanh,

Khổ khi thức giấc tàn canh

Bên giường trống trải một mình nằm trơ.

Khổ nhớ lại sớm trưa ngày trước

Pha ấm trà chén nước mời nhau.

Giờ tôi chẳng thấy bà đâu,

Bên bàn thờ nhắp chén sầu đầy vơi...

Khổ những lúc ra sân mê tỉnh

Ngắm vườn nhà thấy cảnh thênh thang,

Mà bà khuất núi cho đang,

Quả cau tươi, lát rầu vàng ai xơi?

Khổ trông thấy cái cơi còn đó,

Đã khô trầu, khô vỏ, khô cau.

Ba thước đất đã vùi sâu

Cặp môi cắn chỉ ăn trầu đỏ tươi

Ngẫm: cảnh già cuộc đời sung sướng,

Tưởng vợ chồng còn hưởng dài lâu

Không ngờ con tạo cơ cầu,

Bà đi, để tủi dể sầu cho tôi

Ôi! Duyên nợ thế thôi là hết,

Năm mu_ơi năm thám thiết yêu nhau!

Bà về trước, tôi về sau

Thôi đành tạm biệt, nuốt sầu gượng vui

Bà đi rồi nhưng tôi phải ở,

Công việc đời còn dở tí thôi,

Bao giờ nhiệm vụ xong xuôi,

Về nơi cực lạc, lại tôi với bà...


(19-11-1968)

Khóc người vợ hiền
Khóc người vợ hiền
Khóc người vợ hiền
Khóc người vợ hiền

Thề đi

Vì tiền có vụ kiện nhau

Thần công lý chẳng biết đâu mà rờ.

Mượn, vay, tờ chữ mập mờ,

Kẻ kêu chưa giả, người thưa giả rồi.

Thật là rắc rối, lôi thôi,

Quan toà chẳng rõ ai người gian ngay.

Các ngài đành chịu bó tay

Muốn ra manh mối phải xoay thần quyền.

Sức cho bên bị, bên nguyên

Ra đền Hàng Trống mà tuyên lời thề.

Ai ngay, Thánh để cho về...

Ai gian, Thánh vật xuống hè chết tươi.

Đền Hàng Trống? Các ngài ơi,

Các ngài hãy để cho tôi phì cười.

Đền Hàng Trống dạo vừa rồi

Bị thẳng kẻ trộm vào moi hòm tiền.

Thánh Bà nếu quả linh thiêng,

Đã làm cho nó đảo điên rụng rời..!

Nói chi đến việc thề bồi,

Bầy trò che mắt con người thế gian!

Từ xưa, bao kẻ khai man,

Vẫn nguây nguẩy sống, bình an như thường.

Thần thiêng, ồ chuyện hoang đường!

Thề trê chui ống, trò mường ai tin?


Nguồn: Báo Ngày nay, số 89, ngày 12-12-1937

Thề đi
Thề đi
Thề đi
Thề đi

Bình luận

Có Thể Bạn Quan Tâm ?