Sóc Trăng là vùng đất hội tụ và đan xen của nhiều nền văn hóa khác nhau, trong đó, nổi bật nhất là văn hóa của ba dân tộc: Kinh, Hoa và Khmer. Chính do đó, văn hóa lễ hội xuất phát từ tâm linh tín ngưỡng dân tộc của người dân nơi đây rất phong phú về số lượng và cũng như vô cùng đặc sắc về hình thức và nội dung.
Lễ hội Nghinh Ông
Sau khi tiến hành những nghi lễ truyền thống, người ta sẽ diễu hành, múa lân rồi lên tàu ra biển cúng Ông. Trên tàu, người ta sẽ tiến hành các nghi thức cúng vái và xin keo. Khi xin keo thành công nghĩa là cá Ông đã chứng cho lòng thành của ngư dân, lúc đó, các tàu sẽ quay vào bờ để làm lễ hầu Ông về Lăng.
Đến với Lễ hội Nghinh Ông, du khách được hòa mình vào trong không gian văn hóa đặc sắc nhưng hết sức bình dị, mộc mạc của cư dân địa phương. Đồng thời, du khách cũng có thể tham quan một số địa điểm gần đó như Cảng cá Trần Đề, bãi biến Mỏ Ó, Rừng ngập mặn, Cầu Mỹ Thanh 2, Hồ Bể...
Lễ Đấu đèn
Thực chất, Ban quản trị ở chùa tổ chức lễ Đấu đèn để nhằm tạo bầu không khí sinh động đón mừng năm mới, tạo tình cảm vui tươi cho mọi người. Còn với người tham gia, họ muốn đóng góp tiền bạc cho chùa để làm những việc công ích xã hội.
Đến với Lễ hội, đừng quên chiêm ngưỡng kiến trúc của Chùa ông Bổn. Là một di tích kiến trúc nghệ thuật mang đậm nét đặc trưng của người Hoa, Chùa xây dựng hoàn toàn bằng đá và gỗ quý và được điêu khắc hết sức tinh xảo. Các công trình chạm trổ, khắc họa trên mái, trên cột, trên cửa, trên các bức hoành phi vẫn còn giữ nguyên nét công phu của các nghệ nhân xưa, rất đáng để chiêm ngưỡng. Chùa tọa lạc tại số 09, đường Nguyễn Văn Trỗi, khóm 1, phường 1, thành phố Sóc Trăng.
Lễ hội thả Đèn Nước
Trong đêm diễn ra Lễ hội, hàng ngàn bà con và du khách sẽ đổ xô về sông Maspero ở thành phố Sóc Trăng để cùng chiêm ngưỡng vẻ đẹp của những chiếc đèn nước. Đèn nước làm bằng thân và bẹ chuối được ráp thành hình một ngôi đền, trang trí cờ phướn, hoa lá, cắm đèn và nhang, bên trong bày vật cúng. Trước khi thả đèn, sư sãi và bà con trong phum sóc thắp nhang xung quanh đèn rồi nghe sư tụng kinh cầu tam bảo, cúng trăng để cầu nguyện cho sự an vui, thịnh vượng và ước mong của mọi nhà. Sau đó người ta rước đèn ra sông để thả đèn.
Trong ngày diễn ra Lễ hội, cùng với Lễ thả Đèn nước còn có nhiều hoạt động văn hoá truyền thống đặc sắc của bà con dân tộc Khmer như: múa trống sadăm, hát dù kê, múa lâm thol, biểu diễn dàn nhạc ngũ âm, hội thi trang phục dân tộc...
Lễ hội Thác Côn
Lễ mang tính nhân văn sâu sắc và thể hiện nét độc đáo trong văn hóa Khmer của Sóc Trăng. Lễ vật dâng cúng là những thứ hoa trái giàu sắc thái bản địa, tượng trưng cho sự thanh khiết như trầu cau, hoa sen và trái dừa. Hoa trái được bày trí trên một trái dừa, đồng bào Khmer gọi là Slathođôn (bình bông làm bằng trái dừa). Phần cây bông được tạo thành bởi lá trầu xanh và hoa.
Lễ hội Thác Côn đã tồn tại gần trăm năm, gắn với truyền thuyết về chiếc Cồng Vàng của vùng An Trạch. Lễ mang ý nghĩa giúp người ta tưởng nhớ về cội nguồn, tổ tiên, ông bà để sống chan hòa yêu nhau hơn, cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi, cuộc sống ấm no hạnh phúc.
Lễ hội cúng Phước Biển
Được tổ chức vào ngày 14, 15 tháng 2 âm lịch hàng năm, lễ hội diễn ra xuyên suốt trong hai ngày hai đêm. Đầu tiên, sẽ tổ chức rước tượng Phật từ chùa Cà Săng đến điểm làm lễ. Sau đó là lễ cầu siêu theo nghi thức Phật giáo. Tiếp đến, các sư sãi sẽ tụng kinh cầu quốc thái dân an và thỉnh pháp sư thuyết pháp cho bà con. Ở đêm thứ hai cũng tương tự nhưng sẽ có thêm lễ an vị Phật.
Bên cạnh các nghi lễ truyền thống còn có nhiều hoạt động giải trí đặc sắc tại lễ hội như: các trò chơi dân gian đua ghe Ngo trên cạn, đẩy xiệp, thi lượm củ hành...; liên hoan hòa tấu nhạc ngũ âm (phleang pinh peath); múa gà, múa khỉ cổ truyền; hội thi giọng hát hay, thi đấu bóng đá, bóng chuyền, bi sắt, kéo co, thả diều, nhảy bao...
Hội Đua ghe Ngo
Ghe Ngo là hình tượng của rắn thần Nagar mà theo truyền thuyết đã từng đưa Đức Phật Thích Ca qua sông. Ghe ngo thường dài từ 20- 30m, đầu ghe có hình đầu rắn, hai bên lườn ghe được vẽ những hoa văn rực rỡ.
Trước ngày hội, các chùa phải chuẩn bị cách đó rất lâu để tuyển chọn các tay bơi là những chàng trai khỏe mạnh trong các phum sóc. Một đội ghe từ khoảng vài chục đến hơn trăm người nên phải quy tụ người khắp phum sóc mới thành đội. Và muốn bơi ghe nhanh để chiến thắng đòi hỏi cả đội phải phối hợp hết sức nhịp nhàng, ăn ý. Do đó, đua ghe Ngo đòi hỏi phải có tính đoàn kết rất cao. Đây được xem là một nét đáng kính trọng của môn thể thao này.
Đua ghe Ngo không chỉ là một phong tục mà còn thể hiện ý chí đua tranh và khát vọng chiến thắng. Vì vậy, không khí tại lễ hội hết sức tưng bừng, náo nhiệt. Hội Đua ghe Ngo được diễn ra trên sông Maspero của Sóc Trăng với sự tham gia của nhiều đội thuyền trong và ngoài tỉnh. Ước tính Lễ hội thu hút lượng người xem lên đến 30 ngàn người.
Lễ Ooc-om-boc
Lễ vật dâng cúng là những nông sản thu hoạch được trong mùa vụ và không thể thiếu cốm dẹp (được làm từ nếp non giã dẹp, mỏng, khi ăn thì trộn thêm đường và dừa, nghe đơn giản nhưng để thành phẩm phải qua nhiều giai đoạn công phu). Mâm cúng được bày biện vào chiều tối. Khi trăng lên, một vị Achar (người tu học nhiều năm trong chùa, am hiểu Phật học) được các gia đình mời đến hoặc một trưởng lão trong gia đình sẽ tiến hành nghi lễ cúng trăng. Sau lời khấn cầu, những đứa trẻ trong gia đình sẽ được gọi lên để đút cốm dẹp và hỏi chúng ước muốn gì. Câu trả lời của đứa trẻ là ước muốn của mọi người gửi tới mặt trăng, là niềm tin của người lớn vào năm tới. Sau nghi lễ, mọi người cùng quây quần ăn bánh, ăn cốm dẹp và trò chuyện vui vẻ, đợi đến sớm mai đi xem đua ghe Ngo trên sông Maspero.
Bên cạnh đó, trong dịp Lễ hội, người ta sẽ tiến hành các hoạt động văn hóa như: thả đèn gió, đèn nước, đặc biệt, Lễ này luôn gắn liền với Hội Đua ghe Ngo.
Ngày hội Sông nước Miệt vườn
Tại Lễ hội, người dân sẽ trưng bày các trái cây đặc sản ngon nổi tiếng gắn liền với các địa danh nơi đây như: Cam sành Ba Trinh, mít nghệ An Mỹ, bưởi da xanh Kế An, bưởi năm roi Kế Thành, chôm chôm Phong Nẫm, măng cụt An Lạc Tây... Bên cạnh đó, Lễ hội còn có còn có nhiều hoạt động để chào đón các nhà khoa học, thương nhân và du khách tham quan đến để giao lưu, học hỏi, tìm cơ hội hợp tác, kinh doanh hoặc chỉ đơn thuần là có những phút giây vui chơi, giải trí như: Hội thi ẩm thực sông nước miệt vườn, đua thuyền rồng, liên hoan đờn ca tài tử, triển lãm thành tựu kinh tế - văn hoá - xã hội và các trò chơi dân gian: Bịt mắt đập nồi, đi cầu vọt...
Đến với Lễ hội, du khách có dịp thưởng thức nhiều đặc sản, chiêm ngưỡng vườn cây trái sum xuê, tận hưởng không khí trong lành của địa điểm du lịch sinh thái này và gặp gỡ những người cố cựu nơi đây, chân chất, thiệt tình kể về những ngày đầu đến khai phá đất cồn.
Tết Chôl-Chnăm-Thmây
Tết Chôl-Chnăm-Thmây diễn ra vào ngày 13, 14, 15 tháng 4 dương lịch. Vào ngày thứ nhất, người ta làm lễ rước Đại lịch. Mọi người tắm gội, mặc quần áo đẹp, mang theo lễ vật nhang đèn, hoa quả đến chùa làm lễ rước Đại lịch. Lễ mang ý nghĩa chào mừng năm mới và xem điềm báo năm mới tốt hay xấu. Ngày thứ hai, làm lễ dâng cơm và đắp núi cát. Mỗi gia đình sẽ làm cơm dâng cho các vị sư sãi ở chùa vào buổi sớm và trưa. Buổi chiều, họ tổ chức lễ đắp núi cát để tìm phúc duyên. Tục này nhằm biểu lộ ước vọng cầu mưa, cầu phúc của con người.
Ngày thứ ba làm lễ tắm tượng Phật và tắm sư. Lễ mang ý nghĩa biết ơn đức Phật, đồng thời, gột rửa mọi điều không may của năm cũ để bước sang năm mới.
Sau khi thực hiện các nghi lễ, thời gian còn lại trong các ngày này mọi người đi thăm hỏi lẫn nhau, chúc nhau những điều tốt đẹp và cùng nhau vui chơi. Mặc dù theo lịch, Lễ sẽ diễn ra trong ba ngày, tuy nhiên, thời gian vui chơi Lễ của người dân có khi kéo dài cả tuần hoặc hơn sau đó họ mới trở lại cuộc sống như ngày thường.
Lễ Dâng Bông
Thông thường, vào ngày thứ nhất, người dân đem nhang đèn, tiền bạc, trái cây, bông hoa, áo cà sa đến chùa cầu nguyện dâng lên cúng phật. Sau đó, họ dâng áo cà sa cùng đồ lễ này cho các vị sư sãi ở chùa và nghe các sư thuyết pháp, hồi hướng công đức cho mình cùng gia đình. Vào tối hôm đó, họ sẽ tổ chức vui chơi, văn nghệ, múa lâm thol, ròm vong… Ngày thứ hai, người dân tập trung lại để tiến hành lễ dâng bông, dâng y cà sa trên đường hoặc xung quanh chùa, sau đó, họ quay lại chùa để nghe các sư trì tụng kinh và chứng minh công đức tấm lòng của họ.