Trong cuộc chiến sinh tồn, các loài động vật phải cố gắng thích nghi với thế giới tự nhiên nếu không muốn bị đào thải. Trong cuộc đua khốc liệt này, nhiều loài động vật đã tiến hóa theo hướng gia tăng tốc độ của mình để săn mồi hoặc chạy trốn kẻ thù. Trong thế giới tự nhiên có muôn vàn những loài động vật nhưng loài động vật nào mới thực sự là "vua tốc độ" của muôn loài, và là loài động vật nhanh nhất. Hãy cùng Toplist tìm hiểu những loài động vật nhanh nhất thế giới qua bài viết dưới đây bạn nhé.
Pronghorn
Pronghorn là loài có họ hàng với dê, nhưng lại có hình dáng dễ gây nhầm lẫn với linh dương. Đôi chân khỏe giúp chúng chạy và duy trì tốc độ ổn định. Pronghorn được coi là một trong những loài động vật nhanh nhất ở Bắc Mỹ với tốc độ trung bình 88,5 km/h, khi chạy nước rút đạt 98 km/h và có thể duy trì tốc độ từ 59 - 65 km/h. Con đực trưởng thành dài 1,3 - 1,5m từ mũi đến đuôi, chiều cao 81 - 104 cm và cân nặng 36 - 70 kg. Con cái cùng chiều cao như con đực nhưng cân nặng 41 - 50 kg. Chân có hai móng, không có móng huyền.
Hiện nay, loài Pronghorn không có kẻ thù thực sự. Chúng là những động vật có vú nhanh nhất ở Bắc Mỹ và có thể nhảy cao từ 3 đến 6 mét. Kết quả là, con trưởng thành hiếm khi trở thành con mồi của các loài động vật săn mồi khác. Chó sói, chó sói Bắc Mỹ, sư tử núi và đại bàng vàng có thể giết chết con non sau khi sinh một vài ngày, nhưng ngay cả điều này là không phổ biến, do khi linh dương nhỏ có thể bỏ ra hàng giờ cúi thấp giữa các thảm thực vật và không thực hiện bất kỳ chuyển động có thể khiến con mồi phát hiện. Một vài tuần sau khi sinh và tiếp tục dừng chân ẩn của mẹ mình, con non nhanh hơn so với các con thú săn.
Ngựa
Ngựa là một loài động vật có vú trong họ Equidae, bộ Perissodactyla (bộ móng guốc). Loài này được Linnaeus mô tả năm 1758 và là một trong số 8 phân loài còn sinh tồn cho tới ngày nay của họ Equidae. Ngựa đã trải qua quá trình tiến hóa từ 45 đến 55 triệu năm để từ một dạng sinh vật nhỏ với chân nhiều ngón trở thành dạng động vật lớn với chân một ngón như ngày nay.,Ngựa cái mang thai kéo dài khoảng 335 - 340 ngày. Ngựa thường sinh một, ngựa con có khả năng đứng và chạy một thời gian ngắn sau sinh. Ngựa bốn tuổi được coi là ngựa trưởng thành, mặc dù chúng tiếp tục phát triển bình thường cho đến khi sáu tuổi, thời gian hoàn thành sự phát triển của ngựa cũng phụ thuộc vào kích cỡ của ngựa, giống, giới tính và chất lượng chăm sóc.
Ngựa là một trong những loài động vật nhanh nhất thế giới có khả năng chạy vượt chó và hươu nai, có khoảng 350 giống ngựa trên thế giới và tất cả chúng đều có khả năng chạy nhanh như những vận động viên điền kinh trong thế giới động vật. Loài ngựa còn được biết đến với độ bền, sức mạnh dẻo dai và khả năng phối hợp ăn ý. Tùy theo từng giống ngựa, vận tốc của chúng có thể dao động từ 56 - 70 km/h, tốc độ tối đa đạt 88 km/h khi chạy hết sức. Quả thật đây là một tốc độ đáng kinh ngạc phải không nào?
Linh dương đầu bò xanh (Wildebeest)
Linh dương đầu bò xanh (Wildebeest) là loài thuộc họ linh dương, có nguồn gốc từ châu Phi, có hình dáng giống bò và linh dương, sừng ngắn và sắc. Chúng thường di chuyển thành đàn lớn để gây khó khăn cho kẻ săn mồi. Hai giống cái và đực của loài Wildebeest đều có khả năng chạy nhanh với tốc độ khoảng 80,5 km/h. Loài này có thể sống đến 20 năm. Linh dương đầu bò xanh có 5 phân loài. Linh dương đầu bò có bờ vai rộng vạm vỡ, diện mạo nặng mặt tiền, cùng chiếc mõm đặc biệt chắc khỏe. Linh dương non khi sinh ra có màu vàng nâu, bắt đầu chuyển màu trưởng thành khi đạt 2 tháng tuổi. Độ biến thiên màu sắc lông thú trưởng thành khoảng từ màu đá sẫm hoặc xám xanh đến xám nhạt hoặc thậm chí nâu xám. Cả hai giới sở hữu cặp sừng rộng và cong.
Linh dương đầu bò xanh là loài ăn cỏ, kiếm ăn chủ yếu trên đồng cỏ ngắn. Đàn linh dương di chuyển theo kết cấu lỏng lẻo, chúng chạy nhanh và cực kỳ cảnh giác. Mùa giao phối bắt đầu vào cuối mùa mưa và một con non duy nhất được sinh ra sau thai kỳ khoảng 8 tháng rưỡi. Con non vẫn còn ở với mẹ trong 8 tháng, sau thời gian đó nó tham gia vào đàn linh dương non. Linh dương đầu bò xanh sinh sống trên đồng bằng cỏ ngắn giáp ranh xavan được che phủ bởi những bụi keo tại miền nam và miền đông châu Phi, phát triển mạnh tại khu vực không quá ẩm ướt hoặc không quá khô cằn. Mỗi năm, vài quần thể linh dương đầu bò xanh tại Đông Phi tham gia hành trình di cư đường dài, có vẻ thời gian trùng với lượng mưa và lượng cỏ mọc theo khuôn mẫu địa phương.
Springbok
Springbok là một loài dinh dương gazen ở Nam Phi. Đây là loài động vật khá gần gũi, có thể sống cùng đàn với linh dương đầu bò hay đà điểu. Chúng sống chủ yếu ở tây nam châu Phi. Springbok là một loài động vật nhanh nhẹn và có thể đạt tốc độ 88 km/h. Ngoài tốc độ nhanh, loài này còn có khả năng nhảy lên cao khoảng 4m. Tuy nhiên, khác với pronghorn, loài springbok không thể chạy quãng đường dài và vẫn bị những con báo cheetah hay báo đốm săn đuổi.
Springbok là một loài động vật có vú trong họ Bovidae, bộ Artiodactyla. Loài này được Zimmermann mô tả năm 1780. Loài này sinh sống ở Tây Nam châu Phi. Springbok có tốc độ rất nhanh, chúng có thân hình thanh mảnh, cổ dài, với tổng chiều dài 150 - 195 cm và sừng có ở cả con đực và con cái. Con trưởng thành cao từ 70 đến 90 cm đến vai, tùy thuộc vào trọng lượng và giới tính, chúng có cân nặng từ 30 đến 44 kg cho con cái và 33 và 48 kg cho con đực. Đuôi dài 15 - 30 cm.
Thỏ nâu rừng
Sự khác biệt của loài thỏ này với các con thỏ khác là đôi tai dài có đốm đen và đôi chân sau dài hơn cho phép chúng nhanh chóng đạt tốc độ cao khi chạy. Thỏ nâu sống chủ yếu ở Anh, phía tây châu Âu, Canada, Nam và Trung Mỹ. Các hoạt động nông nghiệp đã khiến số lượng loài thỏ này giảm dần từ năm 1960. Khi bị kẻ thù săn đuổi, một con thỏ nâu có thể chạy với vận tốc trung bình 75 km/h và đạt tối đa 77 km/h, thậm chí chúng cũng có thể quay ngược lại mà không cần giảm tốc độ và nhảy lên cao khoảng từ 5 - 7 m.
Thỏ nâu rừng còn được gọi là Thỏ nâu, Thỏ rừng phương Đông và Thỏ đồng cỏ phương Đông, là một loài thỏ bản địa miền bắc, trung, và tây Âu và Tây Á. Nó là một loài động vật có vú thích nghi với khí hậu ôn đới, xứ mở. Nó có liên quan đến loài thỏ trông bề ngoài tương tự cùng họ nhưng khác chi. Nó sinh sản trên mặt đất thay vì sinh trong một cái hang và dựa vào tốc độ chạy để thoát khỏi kẻ thù. Bình thường nó là một loài nhút nhát, thỏ rừng thay đổi hành vi của chúng vào mùa xuân, ban ngày có thể nhìn thấy chúng rượt đuổi nhau quanh đồng cỏ. Trong thời kỳ điên cuồng vào mùa xuân, chúng có thể "đấm bốc", dùng bàn chân tấn công thỏ khác.
Dơi không đuôi
Dơi không đuôi được tìm thấy ở Brazil, Argentina, Bolivia, Chile, Mexico, Mỹ... là loài có tốc độ đáng kinh ngạc trong số các loài động vật trên cạn. Đôi cánh dài, hẹp và có các đầu nhọn giúp cho loài dơi này đạt tốc độ bay trên không khoảng 96,6 km/h, đồng thời giữ được tốc độ ổn định. Nhiều nhà khoa học cho rằng loài dơi này từng được lực lượng không quân Mỹ sử dụng để vận chuyển các quả bom nhỏ vào lãnh thổ Nhật Bản trong chiến tranh thế giới thứ 2.
Theo Fox news, loài dơi không đuôi Brazil có thể bay với vận tốc gần 160km/h, vượt xa tốc độ 96,6 km/h của dơi không đuôi Mexico - loài có tốc độ đáng kinh ngạc trong số các loài động vật trên cạn, hay so với báo cheetah được cho là loài nhanh nhất thế giới, với tốc độ chạy có thể đạt đến 112-120 km/h.
Linh dương Thomson
Linh dương Thomson sống ở châu Phi và là loài linh dương phổ biến nhất ở đông Phi, Kenya, Tanzania và Nam Sudan. Ngoài khả năng chạy ở tốc độ trung bình 80 km/h, loài linh dương này cũng có thể sử dụng các bước nhảy cao để trốn thoát khỏi kẻ thù. Linh dương Thomson có khả năng chạy vượt cả kẻ thù của chúng là những con báo cheetah và quay đầu chạy ngược lại rất nhanh chóng.
Linh dương Thomson cao từ 55 đến 82 cm, chiều dài cơ thể đạt từ 80 đến 120 cm và nặng khoảng 15 đến 25 kg (với con cái), 20 đến 35 kg (với con đực). Chúng có bộ lông màu nâu nhạt, phần bụng trắng với hai sọc đen nổi bật dọc hai bên sườn. Sừng dài và hơi cong ở cuối. Phần mông dưới đuôi có màu trắng, đây là đặc điểm nhận dạng của linh dương Thomson so với loài linh dương Grant. Mặc dù một số cá thể của loài Grant cũng có sọc đen dọc hai bên sườn nhưng phần màu trắng sau mông của chúng luôn kéo dài qua phần đuôi.
Blackbuck
Blackbuck là một loài linh dương có nguồn gốc từ Ấn Độ. Đặc trưng của loài này là đôi sừng xoắn dài có hình chữ V. Blackbuck hiện đã tuyệt chủng ở Nepal, Pakistan và Bangladesh, số lượng loài này trên thế giới chỉ còn khoảng 500 con. Blackbuck cũng được biết đến với tốc độ kinh ngạc trong thế giới động vật với vận tốc chạy đạt 80 km/h, loài này thuộc họ Bovidae, bộ Artiodactyla. Được IUCN phân là loài sắp bị đe dọa từ năm 2003, do phạm vi sinh sống giảm mạnh trong thế kỷ 20. Tên của chi bắt nguồn trong tiếng Latin từ antalopus, động vật có sừng.
Blackbuck có sự tương đồng với linh dương gazelle, được tìm thấy trên bán đảo Ả Rập. Linh dương đen mảnh mai với chiều dài thân khoảng 120 cm, bờ vai cao khoảng 73,7 đến 83,8 cm, con đực lớn hơn con cái, con đực trưởng thành cân nặng trong khoảng 34 đến 45 kg, con cái nặng 31 đến 39 kg, đuôi ngắn và nén. Cả con đực và con cái đều có phần lông màu trắng dưới bụng, ngực, quanh mắt, cằm, vòm miệng, phần mông và ở mặt trong của 4 ống chân. Blackbuck đực gần như trở thành màu đen khi đạt độ tuổi nhất định, chỉ sau gáy vẫn còn màu đỏ hơi nâu và đường nhạt màu 2 bên sườn biến mất. Thông thường, khi không vào mùa giao phối, thường là cuối mùa mưa, giữa mùa đông, linh dương đực sẽ rụng lông. Từ màu đen chuyển thành vàng nâu, chỉ giữ lại lông sẫm màu trên mặt và chân. Đến đầu tháng 4 năm sau, lông Blackbuck đực trở lại màu đen pha chút nâu, khi thời tiết nóng lên.
Báo Cheetah (Báo săn)
Cheetah còn có nhiều tên gọi khác như báo bờm, báo đốm châu Phi, báo Gepard (ghê-pa) và báo săn. Môi trường sống tự nhiên của chúng là đồng cỏ, rừng thưa và bán sa mạc. Một con báo săn trưởng thành cân nặng trung bình vào khoảng 65 đến 70 kg, thậm chí lên đến 72 kg. Tổng chiều dài cơ thể từ 1,1 m đến 1,5 m, báo săn trưởng thành có thể dài từ 1,5m đến 2m. Chưa kể cái đuôi dài 60 đến 84 cm. Những số đo đều cho thấy loài này xứng đáng thuộc hàng siêu mẫu trong giới họ nhà mèo nói riêng và giới động vật nói chung với cái bụng thon và dáng dài. Đây là loài vật được biết đến với tốc độ siêu việt có thể đạt đến 120 km/h với cấu trúc cơ thể thon gọn, mảnh mai và cao nhỏng. Tốc độ chóng mặt này được chúng duy trì trong khoảng cách dưới 300m.
Do cấu trúc phần xương ống được thiết kế hoàn hảo, bộ khung xương của chúng nhẹ và đặc biệt là khoảng 60% khối lượng cơ bắp định vị trên xương sống. Xương sống kéo dài và chụm lại bổ sung lực giúp cho sải chân của chúng rộng thêm 0,7m, khiến Cheetah đạt gần 8m trong mỗi bước chạy. Loài báo Cheetah này chỉ cần 4 bước là đạt tốc độ tối đa trong điều kiện không có vật cản. Đây là bí quyết cho những sải chân thần tốc, giúp nó có thể thực hiện một cuộc tăng tốc ngoạn mục. Theo các nhà khoa học, khi rượt đuổi con mồi và có được đỉnh cao về thể lực, báo Cheetah chỉ cần vài giây để có thể đạt được tốc độ hơn 120km/h (tương đương 33 mét/giây). Ngoài hươu, nai, báo Cheetah có khả năng săn linh dương, ngựa nhờ khả năng chạy rất nhanh như một vận động viên đến đoạn nước rút và dùng hàm răng siết chặt họng con mồi.
Greyhound
Greyhound là một giống chó săn chủ yếu được nuôi để trình diễn và đua, và gần đây giống này cũng đã trở nên loài thú cưng được nuôi phổ biến ở các gia đình. Nó là một giống chó hiền lành và thông minh, một sự kết hợp của chân dài và mạnh mẽ, ngực nở, xương sống linh hoạt và thân hình mảnh mai cho phép nó đạt tốc độ đua trung bình vượt quá 18 mét mỗi giây hay 63 km/h. Chó Greyhound có thể đạt tốc độ 74 km/h trong 6 bước chạy và duy trì tốc độ này trong 11 km.
Tại tốc độ tăng tốc tối đa, greyhound đạt đến tốc độ chạy 80 km mỗi giờ trong vòng 30 mét, sáu bước tiến từ các hộp, chạy với tốc độ gần 20 mét mỗi giây cho 250 m đầu tiên của một cuộc đua. Loài động vật khác chỉ có thể tăng tốc nhanh hơn trên một khoảng cách ngắn là con báo, có thể đạt tốc độ 109 km mỗi giờ.