Thế giới các loài động vật, từ các loài bọ tới những sinh vật to lớn như voi đều đã tiến hoá, phát triển những đôi tai lớn để tích nghi với môi trườnng nóng hoặc dựa vào chúng để tìm kiếm thức ăn. Một số loài như voi châu Phi có kích thước đôi tai lớn nhất so với bất kỳ loài động vật sống nào. Ngoài nhiệm vụ nghe ngóng tình hình thì chúng còn dùng để hạ nhiệt nhanh chóng cho cơ thể qua nhiều mạch máu. Cùng Toplist tìm hiểu về những loài động vật thú vị này nhé!
Dơi
Có lẽ chúng ta chẳng còn xa lạ gì với đám dơi, chẳng hạn như Dơi đốm, chúng có đôi tai khổng lồ, có thể nghe thấy những âm thanh nhỏ nhất như tiếng bước chân của côn trùng. Từ đó, phát hiện và tiêu diệt con mồi dễ dàng hơn. Nếu bạn đang lầm tưởng thì đôi tai lớn lại chẳng liên quan gì tới việc định vị tiếng vang. Sóng Sonar tích hợp của dơi phát ra âm thanh và chúng dội lại khi gặp con mồi. Đó là âm thanh ở tần số cao, trong khi đôi tai chỉ nghe thấy những âm thanh ở tần số thấp (tiếng động của con mồi).Loài dơi tai to của vùng Townsend đang là loài sở hữu đôi tai lớn nhất thế giới.
Dơi là động vật có vú duy nhất có thể bay được. Một số loài thú khác như chồn bay, sóc bay... trông có vẻ như có thể bay nhưng thực ra chúng chỉ có thể lượn - trong một khoảng cách có giới hạn. Khoảng 70% số loài dơi ăn sâu bọ, số còn lại chủ yếu ăn hoa quả và chỉ có vài loài ăn thịt. Dơi cần thiết cho sinh thái bởi chúng đóng vai trò thụ phấn hoa hay phát tán hạt cây, sự phân tán của nhiều loài cây lệ thuộc hoàn toàn vào dơi. Loài dơi nhỏ nhất là dơi mũi lợn Kitti chỉ dài 29–33 mm, nặng khoảng 2 gam. Loài lớn nhất là dơi quả đầu vàng lớn với sải cánh dài 1,5 m và cân nặng khoảng 1,2 kg.
Voi châu Phi
Voi châu Phi là một trong những loài động vật đất lớn nhất trên Trái Đất. Chúng lớn hơn một chút so với người anh em cùng họ ở Châu Á, và được phân biệt nhờ đôi tai lớn hơn (Ở châu Á, voi có tai nhỏ và tròn hơn)
Voi là động vật hằng nhiệt vì vậy chúng sẽ tìm cách thoát nhiệt ra bên ngoài bằng cách tắm, chúng sẽ hút nước và phun lên người để bảo vệ mình khỏi bụi, cát. Ngoài ra tai voi là bộ phận giữ cho toàn bộ cơ thể được mát mẻ, đó là tập tính tự nhiên của các loài voi đặc biệt là voi Châu Phi nơi có khí hậu khắc nghiệt bậc nhất thế giới.
Mũi (Vòi) của chúng có nhiệm vụ thở, ngửi mùi, thu nước và để lấy các vật. Cơ thể voi có tới hơn 100 ngàn loại cơ khác nhau giúp chúng có sức mạnh siêu khủng trong giới tự nhiên. Một đặc điểm dễ nhận thấy khác là với Châu Phi là chúng có thể sử dụng ngón chân để lấy các vật nhỏ, trong khi với Châu Á thì không thể. Đôi ngà voi được dùng để đánh nhau, tự vệ trong các trường hợp cần thiết, bình thường Voi Châu Phi sẽ dùng ngà để đào bới thức ăn, nước và cạo vỏ cây.
Chó Spaniel
Chó Spaniel là một nhóm các giống chó tai dài, lông rậm có xuất xứ từ Tây Ban Nha và thường thuộc nhóm chó săn theo thể loại chó tha mồi.
Ở nước Anh, chúng được dùng để đi săn trong những lãnh địa bạt ngàn của giới quý tộc và sau đó được phát triển theo những phân loài khác nhau cho các mục đích riêng. Ở thời điểm đó, gần như không có đặc điểm phân biệt các giống chó Tây Ban Nha với nhau mà người ta chỉ xếp chúng vào cùng một loại là chó Tây Ban Nha. Tại Tây Ban Nha, người ta đã thấy chúng xuất hiện từ thế kỷ thứ 14 và thường được dùng để đi săn.
Chuột nhảy Jerboa
Chuột nhảy Jerboa có nguồn gốc từ các Sa mạc ở miền Nam Mông Cổ và Tây Bắc Trung Quốc. Một số loài khác trong Họ Dipodidae, bộ Gặm nhấm là Chuột nhảy Jerboa 4 ngón thì lại xuất phát từ Libya hoặc Ai Cập. Nhưng đặc điểm chung của chúng là có đôi tai khá to so với kích thước cơ thể. Chúng thường xuyên ở dưới lòng đất, đào các hang và trú ẩn tại đó vào ban ngày. Ban đêm chúng mò lên và tìm kiếm thức ăn (các loài côn trùng, hạt giống, rễ cây, cây chứa nước) và uống sương đêm.
Chuột nhảy Jerboa trông giống như chú chuột túi, vì chúng có nhiều điểm tương đồng. Cả hai đều có chân sau dài, chân trước rất ngắn và đuôi dài. Jerboa di chuyển như cách một chú kangaroo đó là nhảy cà tưng. Đuôi của Jerboa có thể dài hơn đầu và thân thể của nó. Jerboa sử dụng đuôi của nó để giữ thăng bằng khi nhảy, lông chúng thường mang màu cát. Màu này thường phù hợp với môi trường sống. Một số loài trong họ Jerboa có tai dài như thỏ, và một số khác có tai ngắn như chuột hoặc chuột chù. Tuổi thọ điển hình của một con Jerboa là khoảng sáu năm.
Thỏ tai to
Thỏ tai to có tới 6 loài ở Mỹ, một số loài có đôi tai dài 18cm (khoảng 1/3 kích thước cơ thể của chúng). Andrew Smith, giáo sư danh dự về Bảo tồn sinh học tại Đại học bang Arizona nói rằng:”Đây là đôi tai phi lý nhất từng được gắn trên bất kỳ sinh vật nào.”
Một số loài thỏ tai to sống ở vùng khí hậu lạnh chúng còn không di cư. Chỉ ngủ đông để rồi sau đó lại thức dậy và lao đi tìm thức ăn là những cây cỏ, thảo mộc và cây bụi. Đám thỏ này thường mang theo nhiều loài động vật chứa mầm bệnh như bọ chét, ve, chấy rận nên thường ít người muốn bắt chúng.
Thỏ tai to không di cư hoặc ngủ đông trong suốt mùa đông và sống tại môi trường sống tương tự nhau khoảng 0.4 to 1.2 dặm vuông (1–3 km²) quanh năm. Chế độ ăn đa dạng bao gồm cây bụi, cây nhỏ, cỏ và thảo mộc. Cây bụi thường chiếm phần lớn chế độ ăn trong mùa thu và mùa đông, trong khi cỏ và thảo mộc được ăn trong mùa xuân và đầu mùa hè, nhưng các loài khuôn mẫu và thực vật biến đổi theo khí hậu. Thỏ tai to đuôi đen là con mồi chủ yếu của chim ăn thịt và thú săn mồi, như đại bàng, diều hâu, cú, sói đồng cỏ, cáo, và mèo hoang. Thỏ lưu chứa nhiều ký sinh trùng bao gồm bọ chét, bọ ve, chấy rận, và ve bét; vì lý do này, thợ săn thường tránh săn chúng.
Chó săn thỏ
Chó săn thỏ (beagle) là một giống chó nhỏ trong các chó săn và chuyên dùng để săn thỏ, chúng dễ nhận biết bởi bộ lông tam thể mềm mượt đặc trưng. Chúng rất dễ nuôi, thân thiện và đáng yêu với con người, có thể vừa trông nhà, vừa chơi đùa cùng trẻ con trong nhà. Khi được nuôi thả tự do, chúng thích đi khám phá mọi thứ nhờ vào chiếc mũi thính của mình. Hai tai dài, rộng và nhô ra bên đầu.
Chó săn thỏ là một giống chó nhỏ chỉ từ 10 đến 11kg. Tuy chỉ cao 33 – 38cm chúng là một trong các chó săn và chuyên dùng để săn thỏ, chúng dễ nhận biết bởi bộ lông tam thể mềm mượt và đôi tai dài đặc trưng.
Caracal
Carcal là một loài mèo rừng chân dài, chúng sống trong vùng từ châu Phi tới Ấn Độ, nổi tiếng với đôi tai lớn và sở hữu khả năng nghe rất khủng khiếp. Chúng có thể định vị con mồi kể cả trong vùng cỏ cao. Trong khi săn mồi, đôi tai cũng di chuyển các góc giống như một chiếc ăng-ten. Chúng giống như một chiếc phễu thu thập thông tin. Thậm chí, một số loài mèo hoang nhỏ khác ở châu Phi còn có khả năng phát hiện ra loài gặm nhấm đang bò dưới lòng đất.
Caracal là một chi thú ăn thịt trong họ Felidae. Trước đây, chúng được xem như một chi đơn loài với loài duy nhất Caracal caracal. Tuy nhiên, những phân tích di truyền học gần đây đã cho thấy sự liên quan chặt chẽ về mặt gen di truyền giữa loài linh miêu tai đen với loài beo vàng châu Phi và chúng có cùng một tổ tiên khoảng 5,4 triệu năm trước. Vì vậy, 2 loài này hiện đã được xếp chung vào chi Caracal.
Cáo Fennec
Cáo Fennec còn có cái tên mà người bản địa ưu ái gọi là Cáo “tai dơi” chúng sống ở miền đông và nam châu Phi. Đặc biệt, chúng có sở thích là ăn côn trùng. Mối chiếm 75% khẩu phần ăn của Cáo Fennec. Vì vậy, không có gì đáng ngạc nhiên nếu chúng ta bỗng thấy chúng chạy đi và bắt đầu nghe những đàn mối đang di chuyển dưới lòng đất. Bên cạnh đó, đôi tai khổng lồ còn giúp Cáo Fennec xua tan đi cái nóng của mùa hè và phát hiện những loài côn trùng đang trốn chạy dưới cát.
Cáo fennec là loài nhỏ nhất trong họ chó. Bộ lông, đôi tai và chức năng thận thích nghi với nhiệt độ cao, lượng nước thấp, môi trường sa mạc. Ngoài ra, thính giác đủ nhạy cảm để nghe con mồi di chuyển dưới lòng đất. Chúng chủ yếu ăn côn trùng, động vật có vú nhỏ và các loài chim.
Loài này thường được đưa vào chi Cáo; Tuy nhiên, điều này được tranh luận do sự khác biệt giữa cáo fennec và các loài cáo khác. Lông của fennec được đánh giá cao bởi những người dân bản địa của Bắc Phi, và ở một số nơi trên thế giới, loài cáo này được coi là một vật nuôi kỳ lạ.