Những loài mèo dưới đây là những chú mèo hiếm nhất thế giới và cũng là những chú mèo mà chúng ta đang cần bảo tồn. Vì lí do môi trường sống suy giảm, nạn săn bắt,... những loài mèo này đã bị suy giảm nhanh chóng. Những người yêu quý mèo có lẽ sẽ không thể bỏ qua cơ hội khám phá về giống loài này. Đây là những loài mèo quý hiếm mà nhiều người trong số chúng ta khó có cơ hội gặp được chúng. Hãy cùng toplist tìm hiểu qua bài viết dưới đây nhé.
Mèo cát
Mèo cát hay được gọi là mèo đụn cát là một loài thuộc chi Mèo sinh sống ở vùng sa mạc của Châu Phi và Châu Á. Mèo cát sống trong những vùng đất khô hạn, thậm chí khô hạn tới mức mèo rừng Châu Phi Cũng không chịu nổi. Mèo cát có kích thước khá nhỏ, trông bè bè với chân ngắn, đuôi dài và đôi tai rất lớn và nhộn. Mèo cát có bộ lông vàng nhạt như màu của cát điểm xuyết những vằn vàng xanh khó nhìn thấy, phần cằm và bụng có màu trắng. Mèo cát có lông mọc ra ở giữa các ngón chân, điều này tạo ra một lớp lông cách nhiệt giúp chúng không bị bỏng khi đi trên sa mạc và dễ dàng dọc theo núi đá. Mèo cát thích nghi với nơi sống ở vùng khô hạn nên việc nuôi nhốt mèo cát rất dễ bị tổn thương và nhiễm trùng bởi các bệnh đường hô hấp. Mèo cát đang có nguy cơ tuyệt chủng bởi nạn săn bắn trái phép và môi trường sống thu hẹp.
Theo ước tính năm 2007, loài này chỉ còn gần 5.000 con. Chiều dài đầu và thân của chúng dao động trong khoảng 39 - 57 cm, cộng thêm cái đuôi dài chừng 23 - 31 cm. Cân nặng mèo cát nằm trong tầm 1,4 - 3,4 kg. Móng của chi sau khá nhỏ và cùn, cộng với lớp lông dày phủ trên lớp đệm chân khiến dấu chân của mèo cát rất khó bị kẻ thù nhận diện. Mèo cát Ả Rập là động vật sống về đêm và thường ở trong hang vào ban ngày để tránh ánh nắng gay gắt của mặt trời. Bộ lông của chúng cũng có màu giống như môi trường cát mà chúng sinh sống xung quanh khiến cho giống mèo này trở nên tàng hình và rất khó phát hiện. Chúng có vẻ ngoài trông khá giống mèo nhà nhưng được phân biệt bởi bộ lông dày xung quanh tai cũng như dưới bàn chân, điều này cho phép chúng tự do đi lại mà không để lại bất kì dấu vết nào trên cát. Một điều hết sức thú vị là loài mèo này không cần uống nước vì nó được hydrat hóa hoàn toàn từ các thức ăn của chúng như những loài chim nhỏ, bò sát và động vật có vú cỡ nhỏ. Loài mèo bí ẩn này được phân loại vào nhóm động vật bị đe dọa trong danh sách đỏ của Liên minh quốc tế về bảo tồn thiên nhiên, và cũng là loài có nguy cơ tuyệt chủng ở các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất.
Mèo báo
Mèo báo là một loài mèo nhỏ trong họ mèo phân bố ở Nam Á và Đông Á. Nhìn chúng, các bạn sẽ nghĩ ngay đến những chú báo nhỏ nhưng chúng lại có phân hệ xa so với báo. Chúng có kích thước tương tự như mèo nhà nhưng sở hữu bộ da với hoa văn đẹp như báo đốm. Cũng vì sở hữu bộ da đẹp mà chúng bị loài người săn đuổi, số lượng càng ít trên thế giới chỉ còn hơn 1000 con nên mèo báo đang được vào diện cần bảo vệ. Cùng với mèo lửa xứ Borneo Pardofelis badia hợp thành chi Pardofelis, mèo báo xuất hiện nhiều tại Nam Mỹ (Từ phía Bắc Mexico tới gần điểm cực Nam quần đảo Nam Thule). Là một trong những giống mèo có giá trị thương mại cao, bộ lông của mèo báo chính là điều mà các nhà săn thú luôn khao khát có được để mua bán, tuy nhiên ngày nay tính pháp lý đã ngăn chặn bất kỳ hành vi nào làm tiêu giảm số lượng mèo báo trong suốt hơn 1 thập kỷ qua.
Mèo báo là một loài mèo nhỏ thuộc chi Prionailurus trong họ Mèo. Loài này được mô tả bởi Kerr vào năm 1792. Từ năm 2002, nó được xếp vào nhóm loài ít quan tâm bởi IUCN do nó phân bố rộng khắp nhưng bị đe dọa bởi mất môi trường sống và bị săn bắt ở một số khu vực. Có 12 phân loài khác nhau về bề ngoài. Nó được gọi là mèo báo do lông có đốm như báo ở tất cả các phân loài, nhưng về quan hệ thì xa so với báo. Mèo báo Tsushima sống trên đảo Tsushima, ban đầu được xem là một phân loài của Mèo báo Trung Quốc, nhưng hiện nay nó thuộc Mèo báo Amur. Loài Iriomote từng được đề xuất là một loài vào năm 1967, nhưng theo dữ liệu mtDNA và thập niên 1990 thì nó được xếp vào phân loài của Mèo báo. Phân loài này được Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế xếp vào mục nguy cấp Endangered năm 1986 và cực kỳ nguy cấp Critically Endangered năm 2001.
Mèo núi Trung hoa
Mèo núi Trung Hoa là loài mèo hoang thuộc chi mèo, là loài ít phổ biến nhất của chi mèo. Chúng sống chủ yếu Tây trung quốc, khu vực phía Bắc tây nguyên Tây Tạng. Chúng tương đối giống mèo nhà nhưng có bộ lông dày, lông đuôi xù. Mèo núi Trung Hoa không có giá trị kinh tế cao nhưng môi trường sống của chúng đang bị đe dọa. Chúng đang bị sụt giảm nghiêm trọng, nguyên nhân chính là do loài chuột núi Pikas - thức ăn chủ yếu của chúng đang bị đầu độc vì quá phá phách. Do bị gián tiếp đầu độc nên số lượng mèo núi chỉ còn hơn 4200 con.
Mèo núi Trung Hoa, còn gọi là mèo rừng Trung Hoa hay mèo xá lị là một loài mèo đặc hữu miền tây Trung Quốc. Mèo núi Trung Hoa có lông màu cát. Có những sọc tối màu trên mặt và chân. Chóp tai màu đen. Sọ mèo núi Trung Hoa khá rộng, và giữa những ngón chân có lông mọc dài. Lông bụng nhạt màu. Trên đuôi có vòng lông đen. Chóp đuôi cũng màu đen. Chiều dài đầu-mình là 69–84 cm (27–33 in), cộng với cái đuôi dài 29–41 cm (11–16 in). Mèo trưởng thành nặng từ 6,5 đến 9 kilôgam (14 đến 20 lb). Nó sống trên vùng đồng cỏ cao nguyên, lãnh nguyên núi cao, rừng cây bụi núi cao và rừng cây hạt trần có độ cao 2.500 và 5.000 m (8.200 và 16.400 ft). Chúng vắng mặt ở môi trường hoang mạc hay rừng cây rậm rạp. Mèo núi Trung Hoa hoạt động chủ yếu về đêm, săn pika, động vật gặm nhấm và chim. Mùa giao phối là từ tháng 1 đến tháng 3. Mèo cái đẻ ra hai đến bốn mèo con, thường trong một cái hang khuất tầm nhìn. Cho tới năm 2007, loài này chỉ được biết đến từ 6 cá thể, đều sống trong vườn thú. Sau đó, những bức ảnh mèo núi Trung Hoa hoang dã đầu tiên được công bố.
Báo gấm
Báo gấm còn được gọi là báo mây, là loại thú họ Mèo. Lông báo màu nâu hay hung, điểm "hoa" elip lớn, hình dạng không đều, gờ màu sẫm trông giống như đám mây. Báo gấm có thân hình săn chắc và cân đối, có răng nanh thuộc loại nanh dài nhất trong số các loài mèo hiện còn tồn tại. Vì nguồn thức ăn chủ yếu là các động vật sống trên cây, báo gấm giỏi leo trèo. Với bốn chân ngắn và khỏe, lòng bàn chân rộng với đủ móng vuốt sắc đều nhau, tài leo cây của báo mây khó ai bì. Để giữ thăng bằng khi trên tàn cây cao, báo mây có cái đuôi với chiều dài xấp xỉ bằng cả thân. Đáng ngạc nhiên là chúng có thể di chuyển khi treo mình lộn ngược đầu xuống, phía dưới các cành cây và các thân cây nghiêng. Chúng sống ở các khu vực miền nam Trung Quốc, phía đông dãy Himalaya cho đến tận khu vực Đông Nam Á, cũng như quần đảo Indonesia. Vì rất khó xác định nơi cư trú của báo gấm, các ước tính tin cậy về số lượng báo gấm là không có. Nơi cư trú bị thu hẹp chủ yếu là do sự tàn phá rừng nặng nề cũng như việc săn bắn để làm thuốc theo y học cổ truyền. Điều này làm suy giảm số lượng báo gấm, hiện trên thế giới chỉ còn khoảng 3300 con báo gấm.
Là một trong những giống mèo có giá trị thương mại cao, bộ lông của mèo Gấm chính là điều mà các nhà săn thú luôn khao khát có được để mua bán, tuy nhiên ngày nay tính pháp lý đã ngăn chặn bất kỳ hành vi nào làm tiêu giảm số lượng mèo Gấm trong suốt hơn 1 thập kỷ qua. Theo thống kê, tình trạng phân bổ mèo giống trên toàn thế giới khá đa dạng, các khu vực cụ thể được người ta liệt kê có thể kể tới như: Assam (tây bắc Ấn Độ), Nepal, Thái Lan, Lào, Việt Nam, Campuchia, Malaysia và 1 số nước thuộc khu vực Đông Nam Á khác.
So với những giống mèo nhà đơn thuần, mèo Gấm có vẻ ngoài bắt mắt hơn ở đặc điểm dưới cằm cùng dưới môi điểm một màu trắng hoặc vàng nhạt làm nét ấn tượng. Đa số sau tai hầu hết các chú mèo đều có 1 vài đốm trắng như đặc trưng riêng, khác biệt. Chính vì vậy mèo Gấm rất sợ con người, chúng thường hoạt động săn mồi khi hoàng hôn đã buông xuống, mỗi động tác di chuyển cũng đều rất nhẹ nhàng, tránh sự chú ý.
Mèo manul
Mèo manul còn có tên gọi khác là mèo Pallas là loài mèo hoang nhỏ thuộc họ Mèo. Mèo manul có kích thước tương tự như mèo nhà, lông màu nâu sẫm với những sọc dọc sẫm màu trên thân và hai chân trước, có các vòng màu đen rõ ràng trên đuôi và có đốm sẫm màu trên trán. Bộ lông mùa đông xám hơn và ít hoa văn hơn bộ lông mùa hè. Chúng có các chân ngắn cân xứng theo tỉ lệ so với những con mèo khác, tai nằm rất thấp và xòe rộng và móng vuốt của chúng cũng ngắn bất thường. Mèo manul phân bố rộng khắp nhưng đứt đoạn ở các vùng đồng cỏ và thảo nguyên miền núi Trung Á. Chúng chịu ảnh hưởng tiêu cực từ suy thoái môi trường sống, sự suy giảm con mồi và bị săn bắn, số lượng còn hơn 9000 con, do đó đã được IUCN phân loại là sắp bị đe dọa năm 2002.
Theo thống kê thì giống mèo này thường xuất hiện phổ biến nhất tính từ phía tây biển Caspi, băng qua Pakistan, Kazakhstan tới Trung Quốc và Mông Cổ. Nói chung là những khu vực khô cằn, lạnh lẽo và không phải là những khu rừng ẩm ướt.. Hiện nay, loài mèo này đang bị đe dọa suy giảm số lượng. Bởi môi trường sống bị tàn phá và lượng thức ăn hạn hẹp. Với bộ lông siêu dày và một vài đặc điểm khác mà mèo Manul (Pallas) phải đối mặt với nạn săn bắn rất gắt gao của con người. Người ta săn những chú mèo này nhằm mục đích lấy lông để bán (rất có giá trị trên thị trường vì độ ấm của nó) hoặc lấy xương của chúng để nấu cao hoặc thậm chí là một số bộ phận khác để chế biến thành thuốc.
Bên cạnh nạn săn bắn thì sự suy thoái, biến đôi môi trường sống cũng là lý do khiến số lượng của mèo Manul ngày càng giảm. Việc con người mở rộng phạm vi sinh sống, chăn nuôi gia súc, làm nông nghiệp đã vô tình làm giảm lượng con mồi tự nhiên của chúng. Không những vậy những chú chó chăn gia súc con người nuôi để bảo vệ đàn cừu, đàn gà của họ cũng là mối nguy hiểm với mèo Pallas. Người ta ước tính có tới hơn 56% số ca mèo Manul bị mất ở miền trung Mông Cổ xuất phát từ những chú chó này. Hoặc chỉ đơn giản là chúng bị nhìn nhầm với chuột Marmot nên bị thợ săn bắn nhầm thôi.
Mèo cây Châu Mỹ
Mèo cây Châu Mỹ hay còn được gọi là mèo rừng Châu Mỹ là loài mèo hoang có kích thước nhỏ. Chúng có quan hệ họ hàng gần loài báo sư tử to lớn nhưng kích thước nhỏ hơn nhiều. Chúng có thân ngắn, thân và đuôi dài, cùng một bộ lông xám đen. Sở dĩ, chúng có tên mèo cây bởi vì môi trường sống thoải mái nhất của chúng là tên các thân cây cao. Loài này ăn tạp, chúng ăn tất cả những gì chúng bắt được, hầu hết là các động vật chân đốt và lá cây. Loài mèo này đang có nguy cơ bị đe dọa vì sự suy giảm môi trường và nạn săn bắn, theo thống kê năm 2007 của Liên minh bảo tồn thiên nhiên Quốc tế mèo cây chỉ còn khoảng 6000 con. Mèo cây châu Mỹ hay mèo rừng châu Mỹ có họ hàng với báo và sư tử nhưng kích thước nhỏ hơn rất nhiều. Mèo cây châu Mỹ trưởng thành chỉ nặng khoảng 3,5kg - 9,1kg, dài chưa đến 1m. Loài mèo này không chỉ ăn tạp mà còn có tập tính kỳ lạ: thích sống trên cây.
Mèo cây châu Mỹ có chân ngắn, thân và đuôi dài, cùng một bộ lông xám đen. Theo nghiên cứu năm 2006 về bộ gen của họ Felidae thì tổ tiên của các loài thuộc các chi Leopardus, Lynx, Puma, Prionailurus và Felis đã di cư qua cầu đất liền Bering vào châu Mỹ khoảng 8-8,5 triệu năm trước. Sau đó các dòng dõi này dần dần tách ra theo trật tự như đã liệt kê. Các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng báo sư tử và mèo cây châu Mỹ là các họ hàng gần gũi nhất của báo săn (Acinonyx jubatus) ngày nay ở châu Phi và miền tây châu Á, nhưng mối quan hệ cụ thể thì vẫn chưa dung giải được. Người ta từng cho rằng tổ tiên của báo săn đã rẽ nhánh ra từ dòng dõi Puma ở châu Mỹ và di cư ngược trở lại châu Á và châu Phi, trong khi các nghiên cứu khác lại đề xuất rằng báo săn đã tự nó rẽ nhánh ra khỏi tổ tiên chung tại Cựu thế giới. Mèo cây châu Mỹ loài được xếp vào diện cần được bảo vệ do số lượng của chúng liên tục sụt giảm trong nhiều năm.
Mèo núi Andes
Mèo núi Andes phân bố ở các dãy núi Andes ở các quốc gia Peru, Bolivia, chile và argentina. Môi trường sống và bề ngoài của nó làm cho nó tương tự là loài mèo nhỏ giống báo tuyết. Nó sống ở độ cao 3500 m - 4800 m. Kích thước của mèo núi giống một mèo nhà nhưng nó có đuôi dài và bộ lông dày. Cũng giống như báo tuyết chúng có bộ lông màu xám bạc, dưới phía dưới màu trắng, nhiều chấm đen và có sọc. Chúng cực hiếm và hung dữ, hiện tại chúng chỉ còn lại gần 2000 con. Mèo núi Andes có nguồn gốc từ khu vực miền núi phía Bắc Chile, được coi là một trong những giống mèo quý hiếm nhất và ít được nghiên cứu trên thế giới.
Đây là loài mèo rất bí ẩn. Thực tế, các nhà khoa học chỉ ghi lại được một số ít hình ảnh về loài mèo này trong tự nhiên kể từ khi phát hiện ra chúng nên có rất ít manh mối để nghiên cứu. Mèo núi Andes thường sống ở độ cao khoảng 3.500-4.800 m, có kích thước tương tự như một mèo nhà nhưng trông có vẻ lớn hơn vì có chiếc đuôi dài và bộ lông dày. Môi trường sống khiến mèo núi Andes có cơ thể tương tự như một con báo tuyết nhỏ với bộ lông màu xám bạc, phía dưới bụng màu trắng và có nhiều chấm đen, sọc. Trung bình, một con mèo núi dài từ 57-64 cm, trong đó chiều dài đuôi khoảng 41-48 cm, và trọng lượng cơ thể khoảng 5,5 kg. Nó sống ở độ cao khoảng 3.500-4.800 m, cao hơn nhiều trên tuyến cây và chỉ nơi có nước để hỗ trợ nó. Hiện nay, dân số của loài mèo xinh đẹp này ước tính chỉ còn khoảng 2.500 cá thể và là một trong 5 loài mèo nguy cấp nhất thế giới.
Mèo chân đen
Mèo chân đen là loại động vật ăn thịt ít được nghiên cứu ở Châu Phi và được liệt vào danh sách loài dễ tổn thương bởi Liên minh bảo tồn thiên nhiên Quốc tế năm 2002, chúng chỉ còn hơn 8300 con. Mèo chân đen là loài mèo nhỏ nhất thế giới, phía dưới chân và phần bàn chân của mèo có màu đen. Màu sắc của bộ lông của chúng khác nhau tùy theo cá thể, trên màu lông thường hay điểm xuyết những đốm nâu hay đen trộn lẫn với nhau thành các vòng ở chân, cổ và đuôi. Tuy nhiên da cổ của mèo chân đen có màu hồng và không đốm, mắt của chúng rất lớn. Mèo chân đen thường sống ở Nam Phi, môi trường sống thích hợp của chúng là các xavan khô và mở các đồng cỏ và các bán hoang mạc có bụi cây lớn.
Mèo chân đen là loài vật sống đơn độc và là động vật ăn đêm, chính vì vậy rất hiếm khi bắt gặp được chúng. Vào ban ngày chúng trú ẩn trong những bụi cây rậm rạp, các hang hốc bỏ hoang của springhare, nhím, thú ăn kiến, hay trong các gò mối. Sau khi mặt trời lặn thì chúng mới mò ra tìm thức ăn. Mèo chân đen thường được tìm thấy ở các khu vực khô và mở với mức độ che phủ vừa phải của cây cối. Chính vì vậy phần lớn lượng nước cần thiết của chúng được lấy ngay từ thịt của con mồi, tuy nhiên chúng cũng không từ chối uống nước nếu bắt gặp một vũng nước nào đó. Trái với các loài mèo khác, khả năng leo trèo của mèo chân đen khá là kém - và chúng cũng không để ý mấy tới các cành cây. Thực vậy, cơ thể bè bè và chiếc đuôi ngắn hoàn toàn không thích hợp cho việc leo trèo trên các cây cối. Thay vào đó, chúng dành nhiều thời gian vào việc đào và mở rộng các hang hốc của chúng trên nền đất cát.
Mèo chân đen ít tiếp xúc và thường sinh sống ở những nơi rất yên tĩnh để không ai quấy rầy. Tuy nhiên khi gặp nguy hiểm, chúng chống trả lại kẻ thù hết sức quyết liệt và dũng cảm. Mặc dù chúng ít khi dùng các gò mối để trú ẩn hay sinh con. Một truyền thuyết của người bộ tộc San nói rằng một con mèo chân đen có thể giết chết một con hươu cao cổ bằng cách cắn đứt động mạch cổ của chúng. Chúng dùng mùi cơ thể để đánh dấu lãnh thổ của mình - một con đực có thể "đánh dấu lãnh thổ" đến 12 lần trong vòng một giờ bằng nước tiểu. Ngoài mùi nước tiểu, một số cách đánh dấu khác được áp dụng có thể là cọ xát lên vật thể, để lại vết cào hoặc các chất cặn bã, bài tiết khác của cơ thể.
Mèo đồng cỏ Châu Phi
Mèo đồng cỏ Châu Phi hay còn gọi là linh miêu đồng cỏ, là loài mèo hoang dã sống ở Châu Phi. Chúng có thân hình mảnh dẻ, kích thước trung bình, chúng có đầu nhỏ, đôi tai lớn lớp lông ngoài có màu vàng kim đến màu vàng sẫm với đốm và sọc đen. Linh miêu đồng cỏ có cái đuôi ngắn và chân dài nhất so với các loài mèo tương đồng kích thước cơ thể. Môi trường sống chủ yếu ở thảo nguyên, chúng cần nguồn nước trong phạm vi lãnh thổ của mình. Cũng giống như trong danh sách, số lượng loài mèo đồng cỏ Châu Phi đang bị sụt giảm do mất đi môi trường sống và bị săn bắn. Ngoài ra, chúng còn chúng còn chịu sự săn đuổi của các loài thú ăn thịt lớn hơn như sư tử, báo,...Mèo đồng cỏ Châu Phi hiện nay còn gần 5000 con.
Mèo đồng cỏ châu Phi, là một loài mèo hoang dã phân bố tại châu Phi. Đây là thành viên độc nhất thuộc chi Leptailurus và được nhà tự nhiên học người Đức Johann Christian Daniel von Schreber mô tả lần đầu năm 1776. Linh miêu đồng cỏ có thân hình mảnh dẻ, kích thước trung bình, khi đứng bờ vai cao 54–62 cm (21–24 in) và cân nặng 9–18 kg (20–40 lb). Đặc điểm được mô tả là đầu nhỏ, đôi tai lớn, lớp lông ngoài có màu từ vàng kim đến vàng sẫm với đốm và sọc đen, chiếc đuôi ngắn có ngọn đen. Linh miêu đồng cỏ có chân dài nhất so với bất kỳ loài mèo tương đồng kích thước cơ thể. Linh miêu đồng cỏ châu Phi phân bố ở châu Phi, chúng không sống trong bán sa mạc hay thảo nguyên khô. Chúng cũng tránh các khu rừng rậm xích đạo, mặc dù có thể thấy chúng dọc theo ven rừng. Chúng hiếm khi leo trèo và bơi lội, mặc dù chúng có thể.
Mèo rừng Iberian
Mèo rừng Iberian là một trong những loài mèo quý hiếm nhất trên hành tinh và đang có nguy cơ tuyệt chủng. Đã từng có thời gian loài mèo này bị săn bắt trên khắp lãnh thổ nước Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Tuy nhiên, ngày nay, ta chỉ có thể nhìn thấy chúng tải Vườn Quốc gia Donana, Tây Ban Nha. Linh miêu Iberia (danh pháp hai phần: Lynx pardinus) là một loài mèo thuộc Linh miêu (Lynx) trong họ Mèo. Linh miêu Iberia là loài nguy cấp. Loài này được mô tả bởi Coenraad Jacob Temminck | Temminck vào năm 1827. Loài này là loài bản địa bán đảo Iberia ở Nam Âu. Nó là một trong các loài mèo bị đe dọa nhiều nhất trên thế giới. Theo một nhóm bảo tồn SOS Lynx, nếu loài này biến mất, nó sẽ là một trong vài vụ tuyệt chủng của feline kể từ Smilodon 10.000 năm về trước. Loài này từng được phân loại là một phân loài của Linh miêu Á-Âu (Lynx lynx), nhưng ngày nay được xem là một loài riêng biệt. Cả hai loài đều đã hiện diện ở trung bộ châu Âu trong thời kỳ Pleistocene, có lựa chọn môi trường sống khác nhau.
Linh miêu Iberia được tin là đã tiến hóa từ Lynx issiodorensis. Loài mèo lớn cuối cùng của châu Âu, linh miêu Iberian, đang phải chiến đấu để giành giật sự sống, khi môi trường sinh thái của chúng bị đe dọa và loài thỏ - nguồn thức ăn chính của chúng - giảm đi nghiêm trọng. IUCN, Liên đoàn bảo tồn thiên nhiên thế giới, cho biết việc mất đi môi trường sống là nguy cơ lớn nhất đối với linh miêu Iberian (linh miêu tai nhọn), trong đó bao gồm việc phá hoại rừng sồi ở khu vực Địa Trung Hải. Ngoài ra, lượng thỏ cũng đang bị giảm đi nhanh chóng do virus sốt xuất huyết. Nếu loài linh miêu này tuyệt chủng, đó sẽ là loài mèo đầu tiên biến mất từ khi hổ răng kiếm bị chết sạch vào khoảng 10.000 năm trước đây.