Vùng đất Cao Bằng luôn chứa đựng những bất ngờ thú vị mà chúng ta mong muốn được tìm kiếm, khám phá. Bên cạnh phong cảnh non xanh nước biếc, thiên nhiên hùng vĩ, ẩm thực độc đáo của Cao Bằng sẽ khiến bạn phải nhớ mãi. Vùng đất này chính là điểm dừng chân thú vị cho bất cứ ai muốn thưởng thức ẩm thực độc đáo của núi rừng Đông Bắc. Cùng Toplist tìm hiểu những đặc sản nổi tiếng nhất ở Cao Bằng ngay sau đây nhé!
Bánh khảo
Bánh khảo là một trong những đặc sản Cao Bằng nổi tiếng được nhiều người ưa chuộng. Bánh khảo Cao Bằng được làm nhiều nhất vào dịp tết và được xem như một thứ kẹo tết của người dân tộc Tày. Cứ độ 20 tháng chạp, các nhà trong bản lại rục rịch làm bánh khảo đón Tết Nguyên đán. Với người Tày, tết mà không có bánh khảo thì chẳng là tết nữa. loại bánh này để lâu mà vẫn giữ được hương vị thơm ngon, không bị mốc, thiu nên bánh khảo tựa như một thứ lương khô ngọt ngào của người Tày. Họ làm bánh khảo thay kẹo, để ăn tết, mời khách tới thăm nhà. Để có được những phong bánh khảo thơm phức phải trải qua thật nhiều công đoạn. Nào là chọn gạo nếp, rang gạo, xay nhỏ bằng cối đá, đổ bột vào cái mẹt lót giấy đem hạ thổ.
Nguyên liệu làm bánh khảo chủ yếu là gạo nếp. Chọn loại gạo nếp ngon, thơm, hạt tròn mẩy rồi đãi sạch. Tiếp đó là rang gạo. Rang gạo phải cẩn thận vì nếu rang chưa đủ độ chín thì bánh sẽ không đủ độ thơm. Còn nếu rang gạo cháy vàng quá thì bột xay màu sẽ bị sẫm lại, bánh mất mùi thơm. Đổ gạo nếp đã chín vào cối đá xay mịn. Bột càng mịn bánh càng ngon.Ai đã từng thưởng thức bánh khảo chắc chắn không thể quên vị ngọt ngào của loại bánh này. Đường dùng làm bánh thường là đường kính hoặc đường phèn. Nếu là đường phèn thì phải chọn những miếng đường vàng rộm, giã thật mịn. Đường có mịn khi trộn với bột mới tạo độ kết dính cao. Công đoạn hạ thổ bột, những người làm bánh có kinh nghiệm thường không ủ cùng đường vì sẽ làm bánh bở, không ngon.
Bánh khảo từ lâu đã trở thành món ăn truyền thống của người Cao Bằng để lên bàn thờ cúng ông bà tổ tiên và đãi khách đầu năm mới, ngày lễ, tết. Đôi vợ chồng mới cưới ngày đầu năm về thăm bên ngoại, ngoài đồ lễ chẳng thể thiếu gói bánh khảo.
Bánh trứng kiến
Bánh trứng kiến là một trong những món bánh độc đáo của người Tày vùng núi Đông Bắc nước ta, mạn Bắc Kạn, Cao Bằng. Nguyên liệu chính để làm nên món bánh này chính là trứng kiến. Loại bánh này thường chỉ được làm vào khoảng thời gian nhất định cuối tháng 4 và tháng 5 hằng năm bởi đây là thời gian sinh trưởng mạnh nhất của loài kiến đen rừng. Đúng như tên gọi, nguyên liệu chính để làm bánh trứng kiến chính là trứng non của kiến làm nhân bánh, bột nếp nương và lá non của cây vả bọc bên ngoài (một loại cây quen thuộc ở vùng núi cao phía bắc). Nguyên liệu và công đoạn tuy không quá cầu kỳ nhưng muốn bánh được ngon thì yêu cầu người làm bánh cũng cần phải có sự khéo léo.
Để có được trứng kiến non, người ta phải lên rừng tìm ổ những loại kiến lành như kiến đen thân nhỏ, đuôi nhọn, thường làm tổ trên các loại cây như vầu, nứa hay găng. Trứng kiến thường to bằng hạt gạo, có màu trắng sữa, thân mẩy và tròn. Trứng kiến sau khi rửa sạch sẽ được bắc lên chảo phi với hành khô. Muốn nhân ngon hơn người ta còn cho thêm một ít thịt lợn băm, lạc rang rã nhỏ và một ít lá kiệu thái nhỏ trộn thêm. Phần củ kiệu cũng thái nhỏ, phi chảo thơm rồi cho trứng kiến vào đảo cùng cho đến khi chín thì bắc xuống.
Phần bánh được làm từ gạo nếp nương, hạt to và dẻo, đãi sạch rồi ngâm với nước lạnh qua đêm, sau đó để ráo nước, xay thành bột và nhào nặn với nước. Sau khi nhào nặn cho bột thật dẻo và mịn, bột nếp sẽ được cán mỏng cỡ nửa phân, to hình vuông cỡ bằng bàn tay, rồi ốp miếng bột nếp đó vào một chiếc lá vả, rắc nhân lên mặt bột bánh, cuối cùng là ốp miếng lá vả tiếp theo lên bề mặt nhân bánh đó, gói lá sao cho phần bánh và nhân được bọc trọn vẹn không bị hở ra bên ngoài. Bánh được hấp cách thủy khoảng 45 đến 50 phút là chín. Để miếng bánh đẹp hơn, khi chín người ta thường cắt từng miếng nhỏ vuông vức bày ra đĩa. Lá vả được chọn để bọc bánh nên lấy lá non, khi ăn sẽ ăn luôn lá vả đó, cảm giác man mát, có lợi trong việc thanh nhiệt cho con người.
Bánh trứng kiến có thể ăn nóng hay nguội tùy ý, với loại bánh này thì ăn bất cứ lúc nào cũng có vị ngon riêng. Người ăn luôn cảm nhận được độ dẻo của gạo nếp, vị mềm của lá vả, và đặc biệt là vị béo béo ngậy ngậy của nhân bánh được làm từ trứng kiến. Là một món ăn dân tộc đặc trưng nên nguyên liệu cũng rất dân dã. Nếu có dịp đến với Bắc Kạn hay Cao Bằng vào khoảng thời gian tháng 4 và tháng 5, đừng quên thử một lần thưởng thức món bánh kỳ lạ mà rất thú vị này.
Bánh cuốn canh
Bánh cuốn Cao Bằng mang hương vị riêng mà không nơi nào có được. Nếu đã từng một lần thưởng thức, hẳn du khách sẽ không quên miếng bánh dẻo, dai và còn thơm nguyên mùi hạt gạo Cao Bằng. Yếu tố đầu tiên quyết định đến chất lượng bánh là hạt gạo ngon. Muốn bánh ngon, người ta phải lựa gạo kĩ. Không phải loại gạo nào cũng có thể làm bánh mà nhất định phải là gạo tẻ trên đất Cao Bằng mới tạo nên bột bánh hảo hạng, làm ra tấm bánh vừa trắng vừa mỏng, dai, mịn, lại còn có mùi thơm đặc trưng. Gạo dẻo hoặc khô đều không tạo ra được bột bánh ưng ý.
Gạo được ngâm và vo sạch rồi nghiền thành bột loãng để tráng bánh. Bột ngon là bột đáp ứng được độ sánh, dẻo. Mỗi chủ quán lại có bí quyết pha bột riêng. Đặc biệt, họ không tráng bánh trước. Khách vào quán, người chủ mới nhanh tay tráng bột, cuốn bánh. Nhân bánh có thể được xào sẵn cùng thịt hoặc trứng. Nhưng dù thế nào, chiếc bánh cuốn nóng hôi hổi cũng là phần thưởng xứng đáng cho sự chờ đợi đó.
Điểm đặc biệt và mang lại hương vị riêng cho bánh cuốn Cao Bằng là nước dùng. Đó là nước canh xương ninh nhừ thơm lựng, không có váng mỡ mà ngọt lịm, thoảng hương tủy xương. Thêm chút hành hoa, rau mùi, nấm hương, mộc nhĩ và vài thìa thịt băm nhuyễn là đã có bát nước canh hấp dẫn ăn kèm bánh cuốn, khiến những con mắt đang thèm thuồng càng háo hức mong chờ. Theo cách thưởng thức bánh cuốn của người Cao Bằng, bánh sẽ nhúng ngập trong bát canh được hòa thêm chút tương ớt, măng chua, dùng thìa và đũa vớt lên như khi ăn bún, phở. Sự hòa quyện giữa vị thanh mát của miếng bánh cuốn cùng nước xương hầm thơm, ngọt, béo ngậy của trứng, giò và vị thơm dịu riêng có của quả mắc mật khiến thực khách muốn ăn thêm mãi.
Chỉ một bát bánh cuốn canh cũng đủ gợi nỗi nhớ của những người xa quê, hoặc nỗi si mê khắc khoải của kẻ ngao du từng đặt chân “đi trẩy nước non Cao Bằng”. Là một thức quà giản dị của vùng cao, bánh cuốn canh Cao Bằng cũng là món ăn trứ danh khiến bất kỳ ai đã thưởng thức đều lưu luyến nhớ về.
Bánh trôi (coóng phù)
Bánh trôi hay còn gọi là coóng phù là một món quà vặt mỗi khi đông về ở Cao Bằng. Những viên bánh nặn tròn xoe hay thuôn dài nhân lạc và vừng giã nhỏ, chan nước đường nấu gừng thơm nồng luôn thu hút các thực khách. Ở Thành phố Cao Bằng, có rất nhiều quán bánh trôi ngon, trong chợ Xanh hay các con phố, món ẩm thực quen thuộc này được bán ở bất cứ đâu nhất là khi trời chuyển lạnh. Nhưng đối với người sành ăn, họ đều tìm đến những quán lâu đời, hương vị thơm ngon khác biệt, đó là quán bà Hợp ở đường Hoàng Văn Thụ phố Vườn Cam 2, phường Hợp Giang (gần cổng Sân vận động), ở đây còn có thêm món thạch trắng trong veo vô cùng hấp dẫn; quán cô Diệp góc phố Lý Tự Trọng (gần Nhà hàng Thu Tường),…Ban ngày thì có quán cô Nồ, cô Như ở chợ Xanh và nhiều địa chỉ khác nữa. Đây là những quán bán lâu năm, địa chỉ quen thuộc của nhiều người mỗi khi thèm ăn bánh trôi.
Nguyên liệu để làm bánh trôi đơn giản và dễ chuẩn bị, gồm: gạo nếp, đường, lạc, vừng, gừng. Gạo nếp ngon đem ngâm, pha thêm một ít gạo tẻ, sau đó mang xát thành bột nước, cho vào túi vải treo để ráo nước rồi nhào bột khi có độ dẻo vừa đủ. Nhân bánh là lạc rang giã nhỏ, có thể trộn thêm đường và hạt vừng. Bát bánh trôi thường có 2 viên, viên tròn không nhân và viên dài hình bầu dục nhân lạc vừng. Nhiều quán trộn bột với gấc hoặc ngâm gạo với lá cẩm tím, lá sau sau... để tạo thêm màu sắc và hương vị khác cho bánh trôi. Nước chan bánh trôi cũng có hai loại: nước đường gừng và nước đường cốt dừa.
Buổi tối mùa đông ở Cao Bằng, cái lạnh miền núi vô cùng buốt giá, nhiều người lười biếng cuộn tròn trong chăn không muốn ra khỏi nhà, nhưng quán bánh trôi nhỏ ở các góc phố luôn đông đảo khách ghé thăm cho đến muộn. Một chiếc bàn nhỏ với một chiếc mâm xếp đầy các viên bánh tròn và dài đã nặn; mùi nước đường gừng tỏa ra thơm lừng cả góc phố. Khi có khách, người bán thả các viên bánh xinh xinh vào nồi nước sôi, bánh chín sẽ nổi lên, vớt ra chan nước đường gừng vào. Cầm bát bánh trôi, thực khách hít hà, áp vào má xua tan cái lạnh, múc một thìa nước đường gừng thưởng thức đầu tiên để vị ngọt vị cay lan tỏa ra đầu lưỡi, rồi tiếp tục thưởng thức từng viên bánh trôi thơm ngon. Một bát bánh trôi có giá từ 10 – 15 nghìn đồng, ăn xong xua tan lạnh giá, còn đọng lại hương vị thơm ngon, tinh tế, khiến người ăn lưu luyến và nhớ mãi về mùa đông Cao Bằng.
Vịt quay 7 vị
Nhắc tới những đặc sản của Cao Bằng, không thể không nói về vịt quay 7 vị. Có tên gọi như vậy là bởi vì món vịt ở đây được người dân sử dụng đầy đủ 7 loại gia vị trong quá trình tẩm ướp như: Gừng, tỏi, hành khô, hạt tiêu, mật ong, đậu hũ, quả mắc mật khô. Món vịt quay 7 vị không khó làm, nhưng để làm đến độ thơm ngon, hấp dẫn mọi thực khách lại không phải điều dễ dàng.
Đầu tiên, chủ hàng sẽ chọn những con vịt chắc thịt, sáng lông, được chủ đồng cho ăn cám, ăn ngô và thả đồng. Khi vịt được khoảng 80, 90 ngày và nặng chừng 1,8kg-2kg sẽ được mua về làm sạch lông, nhúng qua nước sôi cho lớp da căng bóng. Tiếp đó, công đoạn quan trọng nhất chính là tẩm ướp gia vị. Các loại gia vị nêu trên được băm nhuyễn, xào với dầu cho dậy mùi rồi cho mắm muối và nước vào đảo đều. Hỗn hợp này sẽ được nhồi vào bụng vịt, buộc chặt 2 đầu để gia vị ngấm sâu vào từng thớ thịt.
Xong công đoạn tẩm ướp, chủ hàng sẽ lăn cả con vịt qua nước mật ong rồi cho vào lò sấy trong 15 phút. Khi vịt đã khô, liền đem chiên trong dầu khoảng 50, 60 phút. Khi vịt chín sẽ có lớp da vàng bóng, mùi thơm đặc trưng của các loại gia vị kích thích vị giác của tất cả thực khách. Nước dùng trong bụng vịt được đổ riêng ra bát, dùng luôn làm nước chấm hoặc tưới lên đĩa thịt. Được thưởng thức món vịt 7 vị của vùng đất này bạn phải nhai thật chậm để cảm nhận hết vị ngon của miếng thịt vịt mềm, vị ngọt của mật ong rừng hòa cùng vị cay cay, thơm nồng của các loại gia vị.
Phở chua
Đặc sản nổi tiếng nhất ở Cao Bằng tiếp theo phải kể đến đó là món phở chua. Phở chua là một món ăn độc đáo, góp phần làm giàu có và phong phú hơn nền văn hóa ẩm thực tại nơi đây. Đúng như tên gọi của nó, phở chua Cao Bằng có vị chua mát lành, đặc biệt phù hợp để thưởng thức vào mùa thu, mùa hè. Phở chua là một món ăn được chế biến khá cầu kỳ. Nguyên liệu chính là bánh phở, nhưng phải là bánh tráng xong để nguội, vừa dẻo vừa dai, không nát. Thịt lợn phải là thịt ba chỉ, sau khi tẩm ướp, rán giòn, có màu vàng sậm. Riêng vịt quay, phải chọn những con vịt béo tròn, cho các gia vị như lá hoặc quả mác mật, hạt dổi... vào trong bụng khâu lại, sau đó xoa mật ong lên lớp da, quay trên than hồng cho thật vàng.
Tiếp đến là miến dong, miến làm phở chua là miến có màu hơi sậm (chưa tẩy trắng) chao qua mỡ cho giòn. Một nguyên liệu không thể thiếu là khoai tàu, người Tày ở Cao Bằng gọi là “phước hom” (củ to, bở và ngọt, chỉ có ở Cao Bằng, Bắc Kạn) thái chỉ, chao qua mỡ cho thật vàng và giòn. Gan lợn thái mỏng, rán sém mặt; dạ dày lợn làm sạch, luộc qua rồi đem rán. Ngoài các nguyên liệu chính nói trên, món phở chua còn có các gia vị khác như lạc rang, các loại rau thơm như húng, mùi; hành, dưa chuột thái mỏng...
Khi đã chế biến các nguyên liệu và gia vị đầy đủ, người nội trợ mới tiến hành pha trộn nước phở. Công đoạn này phải làm thật khéo và cẩn thận vì đây là khâu quan trọng, nó quyết định món phở chua có ngon hay không. Nước để trộn phở gồm nước hầm pha giấm, đường, mì chính đun lên, cho thêm chút bột đao (hoặc bột dong riềng). Nước trộn phở đạt có màu vàng, sánh, nếm có vị chua ngọt.
Bánh phở sau khi xóc nước sôi, tãi ra cho thật nguội, đựng trong vào bát to, cho các gia vị lên trên, rắc lạc rang giã nhỏ và tưới nước trộn. Phở được trộn đều, nhanh tay và tránh bị nát. Tuỳ theo khẩu vị của từng người mà có thể thêm gia vị như ớt, hạt tiêu... Phở chua là món ăn nguội, thành phần có nhiều chất béo, nhưng ăn không có cảm giác ngấy. Nếu có dịp lên Cao Bằng, bạn hãy thưởng thức món phở chua đặc sản, giàu dinh dưỡng nơi đây. Bạn sẽ cảm nhận được vị ngon, đậm đà của món ăn dân dã này. Hương vị thơm ngon của các loại gia vị, của bánh phở, của nước trộn sẽ làm bạn lưu luyến mãi. Trước đây, món này chỉ được dùng khi có đám cỗ, giờ được nhiều người chọn thành món điểm tâm. Vượt qua phạm vi tỉnh Cao Bằng, nó trở thành một trong những lựa chọn của người Hà thành như là món khai vị trong các buổi tiệc.
Bánh áp chao
Bánh áp chao là một món ăn đặc sản của vùng đất Cao Bằng. Người dân nơi đây còn gọi loại bánh này là bánh áp chao hay còn gọi là bánh vịt chao. Chiếc bánh hấp dẫn bởi vị thơm giòn của vỏ bánh và đậm đà ngọt bùi của nhân thịt vịt bên trong kết hợp với nước mắm chua cay là những dư vị vô cùng đặc biệt của ẩm thực vùng Đông Bắc. Nguyên liệu để làm nên bánh không quá cầu kì, gồm bột gạo nếp, bột gạo tẻ và nhân thịt. Thế nhưng, vị độc đáo ở đây chính là nhân bánh được làm bằng thịt vịt. Vỏ bánh cũng khá lạ, là hỗn hợp của gạo nếp, gạo tẻ và đỗ tương. Gạo mới dẻo thơm, cùng với đỗ tương đổ vào ngâm khoảng 8 tiếng cho gạo và đỗ mềm, vớt ra, để ráo nước rồi đem xay thành bột. Cùng với gạo tẻ mới gặt, đỗ tương phải là đỗ Quảng Uyên lòng vàng mới cho ra thứ bột hỗn hợp bột đặc sánh, đảm bảo độ mềm dẻo và thơm ngon. Hỗn hợp bột sau khi trộn ủ khoảng 3, 4 giờ để khi rán bánh phồng đều.
Để có nhân bánh ngon thì thịt vịt lọc bỏ xương, tẩm ướp gia vị gần giống vịt quay rồi cắt thành miếng nhỏ. Xắt bột ra thành từng miếng, đặt miếng thịt vịt vào giữa làm nhân rồi ép bánh lại, thả từ từ vào chảo dầu sôi, chao qua lại tới khi bánh chín vàng ruộm hai mặt thì vớt ra để ráo mỡ là có thể đem ra ăn nóng. Bánh áp chao ăn kèm với nước mắm chua ngọt, rau thơm và đu đủ bào sợi mỏng mới cảm nhận được hết vị ngon của nó.
Chiếc bánh vàng ruộm, thơm lừng không chỉ được nhiều người Cao Bằng yêu thích mà còn làm cho những vị khách lên với Cao Bằng cũng phải xuýt xoa. Chả thế mà lên thành phố này mùa lạnh, vào bất kỳ quán ven đường nào bạn cũng có thể thưởng thức những chiếc bánh áp chao nóng hổi với giá chỉ vài nghìn đồng một chiếc. Người dân Cao Bằng còn gọi những tháng từ 11 đến tháng 2 hằng năm là mùa bánh áp chao bởi, độ này, bếp than luôn đỏ rực, những mẻ bánh xèo xèo tỏa hương thơm lừng, vô cùng hấp dẫn.
Nức tiếng xa gần nên với người dân nơi đây, khi hỏi về đặc sản vùng miền, họ luôn tự hào giới thiệu món bánh áp chao – thứ quà quê bình dị nhưng vô cùng thơm ngon. Và có lên đây, có thưởng thức những chiếc bánh này mới hiểu vì sao nhắc đến Cao Bằng là phải nhắc đến bánh áp chao và ngược lại, nói đến bánh áp chao là người ta lại nhớ tới Cao Bằng.
Xôi trám Cao Bằng
Đây là món ăn đặc trưng của người Cao Bằng đã được Hội Kỷ lục gia Việt Nam - Tổ chức Kỷ lục Việt Nam công bố trong danh sách top 100 món ăn, ẩm thực đặc sản tiêu biểu của Việt Nam. Với người dân Cao Bằng, xôi trám là một món ăn dân dã, truyền thống. Để chế biến được món xôi trám khá kỳ công. Trước tiên, trám cần rửa thật sạch bằng nước ấm để ra hết chất nhựa. Sau đó, ta đổ nước ngập trám, bắc nồi lên bếp đảo đến khi nước nóng già khoảng 70 độ C thì tắt bếp và ngâm từ 30 phút đến một tiếng đồng hồ. Trám sau khi om mềm, chín, ta dùng dao khoanh tròn rồi tách đôi quả trám, lấy phần cùi và bỏ hạt.
Về phần gạo nếp để đồ xôi, “Gạo nếp ở tỉnh nào cũng có nhưng ở Cao Bằng thì gạo ngon nhất là ở Bảo Lạc, một loại gạo đặc trưng của Cao Bằng. Còn trám thì ở Cao Bằng là món ăn rất là ngon và nếu như khách của các tỉnh bạn đến đến Cao Bằng thì đó cũng là một món ăn trong thực đơn để tiếp khách trong và ngoài tỉnh”. Gạp nếp hương sau khi vo sạch và ngâm từ 8-10 tiếng, người ta cho vào chõ, trộn với cùng với trám, nấu trong khoảng 30 phút là chín tới. Mở nắp vung chõ xôi nóng hổi, mùi xôi thơm phảng phất mùi hương nhựa trám bùi và ngậy.
Xôi trám dẻo, thơm, không dính tay, đơm ra đĩa có màu tím hồng khá đẹp. Món xôi trám ngon nhất khi ăn cùng muối vừng đen hoặc lạp xưởng Cao Bằng. Mùi thơm của hạt nếp dẻo hòa lẫn cùng vị bùi, béo ngậy, giàu chất dinh dưỡng của trám rừng, ăn nhiều không thấy ngán. Trám đen còn có thể làm các món ăn khác như trám nhồi thịt hay trám rim với tóp mỡ hoặc thịt ba chỉ. Vị cay cay của tiêu, gừng, thơm bùi của trám và sự béo ngậy của thịt hòa quyện tạo thành món ăn đặc sản, mang hương vị riêng biệt, ngon khó cưỡng. Dừng chân ở Cao Bằng, du khách hãy một lần nếm thử vị ngon của xôi trám và các món ăn từ trám để cảm nhận hương vị độc đáo của ẩm thực Cao Bằng.
Bánh chưng đen
Ở huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng có một loại bánh chưng hết sức đặc biệt, đó là bánh chưng đen. Ai đã từng thưởng thức món bánh chưng đen ở Bảo Lạc hẳn sẽ không quên được vị thơm của gạo nếp, vị ngọt, béo của thịt lợn vùng cao, vị ngậy bùi của nhân đỗ xanh, vị thơm đặc biệt của cây rừng.
Bánh chưng đen là món đặc sản của đồng bào dân tộc Tày, là món ăn thể hiện lòng biết ơn của con cháu đối với cha ông và đất trời. Món bánh đặc sản này không thể thiếu trên mâm cỗ cúng tổ tiên, trời đất mỗi khi xuân về. Giờ đây, bánh chưng đen không còn là món ăn riêng của ngày Tết, mà đã trở thành món quà quê, sẵn có quanh năm ở Bảo Lạc.
Miến dong Phia Đén
Từ lâu, Cao Bằng nổi tiếng có sản phẩm miến dong đen được làm từ bột dong riềng nguyên chất, ngon. Với sự khéo léo và kinh nghiệm của những người dân nơi đây đã tạo nên những sợi miến bóng, đẹp, giòn, dai và có hương thơm đặc trưng của bột dong mà không sử dụng bất kì loại hoá chất nào. Trong mâm cỗ ngày Tết, người dân Cao bằng với bát miến được nấu với thịt gà ăn kèm với nấm hương, mộc nhĩ đã là món ẩm thực truyền thống, đậm đà và ấm lòng của người dân vùng nùi nơi đây.
Để tạo ra những sợi miến thành phẩm, đầu tiên, người làm hòa bột dong với nước lạnh trong xô hoặc thùng đã được vệ sinh sạch sẽ, rồi từ từ thêm nước đun sôi. Công đoạn này cần thực hiện liên tục, nhanh và đều tay để bột chín đều, không vón cục, tùy theo lượng bột mà nước được thêm vào vừa đủ. Bột dong chín tiếp tục được đưa vào máy ép để ép thành sợi miến.
Ngoài nguyên liệu, điểm tạo nên sự khác biệt của miến dong Phia Đén là cách làm. "Ở Phia Đén, người dân chỉ sử dụng bột dong riềng nên sợi miến trong và dai hơn những nơi có pha thêm bột sắn. Miến này có thể nấu đi nấu lại mà sợi không hề nát. Về màu sắc, sợi miến Phia Đén có màu hơi đen hoặc trắng ngà. Đây là màu sắc tự nhiên của bột khi làm chín mà không qua bất cứ công đoạn tẩy trắng hay sử dụng phẩm màu nào".
Miến dong Phia Đén là một món đặc sản nổi tiếng thơm ngon mà bạn không nên bỏ qua khi đến với Cao Bằng. Miến dong Phia Đén làm từ bột dong riềng nguyên chất, khi ăn sẽ cảm nhận được độ dai và vị thơm ngon khó cưỡng. Món đặc sản Cao Bằng này thường được du khách lựa chọn để mua về làm quà về miền xuôi.
Rau dạ hiến
Dạ hiến trở thành một thứ rau đặc sản ở Cao Bằng. Vào dịp xuân hè, ở vùng thị xã cũng như ở các thị trấn, thị tứ, hầu như không có bữa tiệc, bữa cỗ nào là không có đĩa rau dạ hiến xào lẫn thịt bò tươi hoặc lòng lợn, lòng gà... Trong vài ba năm lại đây, nhiều vị khách quen từ miền xuôi lên Cao Bằng vào dịp từ tháng 2 đến tháng 6, tháng 7 âm lịch đều không quên tìm ăn món phở xào rau Dạ hiến.
Rau dạ hiến ngon nhất khi xào với tỏi. Chỉ nhai vài miếng ta đã thấy ngay cái vị hấp dẫn của thứ rau này, vì nó vừa có vị béo ngậy của mỡ, vị thơm của tỏi phi. Cái hương vị đồng quê càng khiến người ăn nhớ nhà. Nhiều cụ lang cho rằng, dạ hiến không chỉ đơn thuần là đặc sản Cao Bằng bởi có vị ngon hấp dẫn một cách kỳ lạ mà còn là một vị thuốc bổ thận, mạnh gân cốt. Ðặc biệt, rễ cây rau dạ hiến đỏ còn là một trong nhiều vị thuốc chữa chứng vô sinh.
Thịt bò gác bếp
Cao Bằng là nơi nuôi nhiều bò, nhất là các huyện Hà Quảng, Bảo Lạc, Bảo Lâm. Có dịp đến vùng đất cao xa vời vợi, thưởng thức đặc sản nơi này, bạn đừng bỏ qua món thịt bò gác bếp. Thịt bò dùng để sấy khô loại nào cũng ngon, không kén chọn. Nhưng ngon nhất vẫn là loại thịt mông, thịt bắp, vừa nạc vừa mềm. Thịt được xẻ ra thành từng miếng to nhỏ tùy ý. Nhưng thường to chừng hai ba ngón tay, dài chừng gang tay là vừa nhất. Thịt được tẩm ướp bằng muối, nước cốt gừng và đặc biệt không thể thiếu rượu trắng. Trước khi ướp, khía vài đường trên miếng thịt cho gia vị ngấm đều. Ướp xong dùng lạt tre tươi xâu thịt thành từng xâu rồi treo trên gác bếp.
Bếp của người Tày, Nùng suốt ngày đêm lúc nào cũng ấm lửa. Hơi lửa, hơi khói hong cho thịt khô dần, săn cứng lại. Chừng mươi bữa nửa tháng là đem xuống dùng được. Miếng thịt bò khô ám khói lửa có màu nâu sậm, rắn đanh. Khi ăn phải ngâm trong nước nóng cho thịt nở ra, rửa sạch rồi thái từng lát mỏng. Đợi chảo nóng già, bỏ chút dầu ăn, phi tỏi cho thơm rồi cho thịt vào đảo qua. Khi những lát thịt đã se se, cho ít nước vào om cho thịt mềm lại. Tỏi bằm nhuyễn, gừng tươi thái chỉ đổ vào xào chung. Nêm thêm chút muối, bột ngọt cho vừa miệng. Thế là có đĩa bò gác bếp thơm phức. Lát thịt bò có màu nâu đỏ, khô nhưng mềm, dai mà không xác, không bở, càng nhai càng thấy ngọt. Vị ngọt đặc trưng của thịt bò, vị cay cay, thơm thơm của gừng, tỏi hòa quyện thật ngon miệng. Thêm một ly rượu nhỏ nữa thì thật tuyệt.
Còn có cách ăn khác: Cùi thỏi thịt khô vào tro bếp nóng hoặc hong qua than củi. Khi thấy thịt chín thơm, lấy ra, dùng sống dao dần qua cho mềm rồi xé sợi giống như khô mực, chấm với nước mắm gừng. Thịt bò sau khi được chọn lựa sẽ được tẩm ướp kĩ với nhiều loại gia vị như muối, nước gừng và rượu trắng. Sau đó, người ta dùng lạt tre tươi xâu từng miếng thịt bò lại rồi treo lên gác bếp. Món thịt bò gác bếp ở Cao Bằng có hương vị rất độc đáo và vô cùng thơm ngon, là món đặc sản nổi tiếng chủ yếu được dùng trong những dịp đón tiếp khách quý. Nếu có dịp ghé thăm vùng đất Cao Bằng, bạn nhớ đừng bỏ qua món thịt bò gác bếp này nhé.
Hạt dẻ Trùng Khánh
Trùng Khánh của Cao Bằng nổi tiếng cả nước với món hạt dẻ. Cũng chỉ có vùng đất này của Cao Bằng mới có hạt dẻ ngon. Hạt dẻ ở đây trở thành một sản vật quý được yêu thích của Việt Nam. Đến với Cao Bằng, đặc biệt hơn là đến Trùng Khánh mà không thưởng thức hạt dẻ, không mua dăm ba cân về miền xuôi làm quà thì thật sự thiếu sót. Hạt dẻ hay còn được biết đến với tên gọi khác là hạt sơn hạnh đào. Mặc dù hạt dẻ thường được trồng ở nhiều mảnh đất khác nhau thế nhưng có thể nói hạt dẻ ở Trùng Khánh Cao Bằng luôn là một đặc sản hấp dẫn bất kì ai khi đã được thưởng thức dù chỉ là một lần.
Hạt dẻ ở Trùng Khánh khá có một vị rất đặc biệt mà không phải ở bất kì đâu cũng có được. Bởi vậy mà giống hạt dẻ Cao Bằng nếu mang đi nơi khác trồng, sẽ cho mùi vị hoàn toàn khác lạ, do đất ở Trùng Khánh thường màu mỡ và rất phù hợp để gieo trồng hạt dẻ. Nơi trồng hạt dẻ Trùng Khánh Cao Bằng nhiều nhất có lẽ chính là ở vùng sát biên giới Quảng Tây Trung Quốc. So với những nơi khác thì hạt dẻ ở Trùng Khánh Cao Bằng thường có một lớp vỏ cứng, dày và nhiều gai bên ngoài giống như quả chôm chôm. Khi tách phần vỏ bên ngoài ra bạn sẽ thấy mỗi quả chứa khoảng 3-4 hạt. Lưu ý nhỏ là phần gai bên ngoài này rất sắc, chính vì vậy mà khi muốn tách vỏ bạn nên dùng que tre nhé!
Hạt dẻ Cao Bằng thường khá to, thậm chí hạt nhỏ nhất cũng sẽ to bằng đầu ngón chân cái. Phần vỏ nâu bên ngoài rất cứng nên khi luộc nhiều người thường cẩn thận khía vài đường trên vỏ hạt. Sau khi đem luộc chín, công đoạn quan trọng nhất có lẽ chính là đem rang cùng với cát để hạt chín đều và không bị cháy. Sau đó hạt dẻ có thể chế biến thành nhiều món ăn hấp dẫn khác nhau. Hạt dẻ ở Trùng Khánh thường chỉ xuất hiện vào mùa thu, cụ thể là khoảng tháng 8 và tháng 9 âm lịch hàng năm. Vào thời điểm này hạt dẻ xù lông và bắt đầu rụng xuống, lúc này người dân sẽ lập tức đem về và chế biến ngay bởi khi hạt dẻ đã chín mà để lâu thì sẽ bị thâm và có mùi rất khó ngửi. Nếu ghé tới Cao Bằng vào thời điểm này, bạn đừng quên thưởng thức món đặc sản dân dã này hay mua về làm quà cho người thân của mình nhé!
Bánh chè Lam
Bên cạnh món bánh trứng kiến béo ngậy, không thể không nói đến món bánh Chè Lam. Đây là món bánh cổ truyền của người dân Cao Bằng. Bánh làm bằng bột nếp rang, lạc rang, gừng và mạch nha. Khi thưởng thức mới cảm nhận được vị dẻo của bột nếp, vị ngọt ngoài của mật và chút cay của gừng, bùi bùi của lạc. Nhâm nhi tách trà nóng ăn cùng với bánh chè Lam và ngắm nhìn thiên nhiên Cao Bằng. Tất cả đem đến cho bạn cảm giác an nhiên, nhẹ nhàng, thoải mái hơn bao giờ hết. Có lẽ nhắc đến chè lam thì mọi người đã không còn xa lạ gì bởi ở nước ta có rất nhiều nơi có món bánh này như: Chè lam thạch xá, chè lam đường lâm, chè lam bắc giang, chè lam Thanh Hóa… Nhưng mỗi nơi đều đem đến cho người ăn những cảm nhận riêng trong hương vị.
Ở đây món chè lam Cao Bằng thường được dùng trong những ngày tết cổ truyền. Dần dần mọi thứ dễ hơn nên người ta có thể thưởng thức món bánh này ở tất cả các tháng. Cũng giống với các bánh chè lam khác thì chè lam nơi đây cũng được làm từ các nguyên liệu rất gần gũi như: Bột gạo nếp rang, lạc rang, mạch nha và gừng. Nguyên liệu để làm chè lam: Bột nếp rang, lạc rang, gừng và mạch nha. Thế nhưng để bánh ngon và dẻo, các nguyên liệu phải chọn lọc thật kỹ. Gạo nếp để làm chè lam phải là loại gạo nếp ngon có hạt to, chắc và đều, mật mía phải là thứ mật mía sánh, đặc (nếu thay bằng đường kính phải chọn loại đường kính trắng tinh).
Khâu chế biến là quá trình rất công phu, tỉ mỉ và người nấu chè phải kiên nhẫn. Gạo nếp sau khi chọn lọc kỹ lưỡng, sẽ được cho vào chảo rang, quá trình này đòi hỏi người rang gạo phải có kinh nghiệm trong việc “canh lửa”, lửa phải đều, không được to quá cũng không được nhỏ quá, tay luôn đảo đều để gạo nếp chín đều, không bị sượng. Sau khi rang gạo nếp xong, để nguội và dùng cối xay để tạo thành thứ bột mịn. Song song với việc đó, các nguyên liệu cũng phải chuẩn bị sẵn lạc được rang vàng và tách vỏ, gừng thái sợi. Gừng phải chọn loại gừng già ta củ nhỏ, loại gừng này mới đảm bảo chè lam có vị thơm. Gừng sau khi rửa sạch cạo vỏ được đem hấp chín rồi thái mỏng nhuyễn. Làm như vậy thì gừng mới bớt nồng và dẻo thơm hơn. Lạc cũng chọn những hạt to đều làm sạch rồi rang thơm giã dập vừa phải.
Bánh chè lam ngon là sự kết hợp hài hòa của các nguyên liệu; độ dính của mật, độ mịn của bột. Điều đó đòi hỏi sự kỹ lưỡng, tay nghề của người làm bánh, chè lam có đầy đủ các hương vị nên rất hấp dẫn: Đó là vị dẻo dai của bột nếp, vị ngọt ngào của mật, một chút cay của gừng, một chút bùi bùi của lạc. Tất cả đem đến cho chiếc bánh một hương vị nồng nàn đến ngất ngây. Bánh chè lam Cao Bằng vẫn luôn mang một hương vị của thiên nhiên vùng cao. Tất cả đều để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng du khách khi đến nơi đây vừa ăn bánh vừa thưởng ngoạn khung cảnh. Đặc sản chè lam nơi đây luôn là lựa chọn số một trong việc chọn lựa quà cho mọi người khi đến đây du lịch.
Bánh bò Cao Bằng
Hương vị của những món ăn, như: bánh rán, bánh gio, xôi ngũ sắc… cùng những bát phở, đĩa bánh cuốn nóng hổi tạo nên nét đặc sắc của ẩm thực chợ phiên Cao Bằng. Và đặc biệt, không thể không nhắc đến bánh bò - món bánh giản dị nhưng hấp dẫn thực khách gần xa. Trong tâm thức của những đứa trẻ con lẽo đẽo theo mẹ đến chợ phiên, bánh bò có lẽ là món bánh thân thuộc, ngọt ngào nhất. Những miếng bánh màu vàng mật ong tơi xốp, tan nhẹ khi đưa vào miệng, không ngấy mà chỉ ngòn ngọt nơi đầu lưỡi. Vị bánh bò thanh tao đặt cạnh hàng bánh rán, bánh gai ngọt lừ, bánh cuốn mỡ màng bỗng trở thành hương vị rất riêng, không thể thiếu ở ẩm thực góc chợ phiên.
Nguyên liệu chủ yếu để làm bánh bò, gồm: gạo tẻ, men và đường phên. Gạo được lựa chọn thường là gạo Đoàn kết, vo sạch rồi ngâm nước từ 6 - 8 tiếng, sau đó xay thành bột nhuyễn, đổ men vào ủ cho bột nở đến độ vừa phải rồi bỏ đường xuống, trộn đều và tiếp tục ủ lần 2. Đường phên được nấu chảy, lọc qua vải xô cho sánh mịn. Khi hỗn hợp bột, đường và men đã ủ xong thì đổ ra khay nhôm và đem hấp chín. Bánh bò dai, xốp, có vị ngọt thanh của đường phên và mùi thơm của men. Lượng men cho vào bánh rất ít nên kích thích tiêu hóa, tạo cảm giác ngon miệng.
Để có những mẻ bánh bò thơm ngon, người làm bánh đã phải tỉ mỉ, kỳ công chuẩn bị từ đêm hôm trước. Đến ngày chợ, bánh được hấp từ sáng sớm, phủ kín bằng vải, mở ra vẫn còn nóng hổi, thơm lừng. Bánh bò bình dị như chính những nguyên liệu làm bánh, song vẫn thu hút bao ánh mắt đến với chợ phiên. Bánh để trong tủ lạnh đến 3 ngày mà vẫn không hỏng, khi muốn ăn chỉ cần hấp lại mà vẫn giữ nguyên được mùi vị của bánh. Món bánh bò tuy mộc mạc, nhưng vẫn khiến ai từng thưởng thức một lần không bao giờ quên được hương vị của món ăn đặc trưng, lạ miệng này.
Lạp xưởng
Món đặc sản thơm ngon nổi tiếng của Cao Bằng cuối cùng mà Toplist muốn giới thiệu với bạn đó chính là lạp xưởng. Lạp sườn Cao Bằng được chế biến cầu kỳ. Nhân của lạp sườn được làm bằng thịt thăn, thịt vai, được tẩm ướp gia vị, mật ong và không thể thiếu ít rượu trắng, chút gừng và ít quả mắc mật khô xay nhỏ. Mất khoảng 2,3 ngày phơi khô nắng rồi treo lên bếp lửa, khói và hơi nóng của bếp lửa nhen từ mía cho miếng thịt săn và ngon hơn. Cắn những miếng đầu tiên, cảm nhận hương vị khó quên của Lạp sườn nơi vùng núi Tây Bắc sẽ khiến bạn nhớ hương vị này.
Để làm được lạp sườn ngon, khâu đầu tiên là sơ chế phần vỏ lạp sườn. Phần vỏ này dùng ruột non được làm sạch, bóp muối, dấm rồi ướp bằng rượu trắng. Ruột non được làm sạch là một trong những yếu tố quyết định đến chất lượng của lạp sườn sau này. Cùng với đó khâu chọn thịt cũng chiếm một phần quan trọng, phải làm sao chọn được loại thịt lợn vai nửa nạc nửa mỡ để lạp sườn được mềm và ngon. Thịt nạc bỏ lớp bì, thái miếng mỏng và dài, còn thịt mỡ được thái hạt lựu riêng, rồi sau đó được trộn, tẩm ướp cùng các loại gia vị, một chút rượu trắng và mật ong.
Sự hấp dẫn của món ăn phụ thuộc rất nhiều vào việc điều chế tỷ lệ nguyên liệu và đặc biệt là các loại gia vị. Một nét riêng biệt của lạp sườn Cao Bằng mà không nơi nào có được đó là các loại gia vị đều mang đậm hương vị của nhiều loại cây rừng như gừng núi, hạt tiêu rừng, mắc mật, quế, các loại thảo quả... Tất cả đều được xay nhỏ và được pha trộn với nhau theo tỷ lệ của từng mùa. Khi ướp thịt với những gia vị như vậy tạo nên mùi thơm đặc trưng cho lạp sườn của vùng núi Cao Bằng, thêm vào nữa lạp sườn có thể để được lâu mà không bị hỏng.
Một công đoạn cũng khá phức tạp đó là nhồi lạp sườn. Với phần lòng non đã được chuẩn bị kỹ, cứ nhồi thịt được khoảng hai ba mươi phân thì buộc lại thành khúc. Nhồi xong thì đem lạp sườn đi phơi nắng cho khô dần và đem hong trên gác bếp. Những cọc tre được dựng lên treo lạp sườn đón ánh nắng vùng cao làm đậm đà hơn cái hương vị đặc trưng của quê hương. Thông thường khi hun lạp sườn người ta thường dùng thêm bã mía để có được vị thơm đậm đà và màu sắc vàng óng như mật ong. Hơi ấm của bếp lửa lan tỏa, từng làn khói sẽ làm lạp sườn se lại và săn hơn, có thể để dành được rất lâu mà không sợ ôi thiu. Khói và hơi nóng của bếp lửa qua từng ngày làm cho lạp sườn ánh lên màu đỏ hồng của thịt nạc xen những đường vân trắng ngà của thịt mỡ trông thật hấp dẫn. Lạp xưởng Cao Bằng có hương vị đậm đà của thịt nạc vai, mùi thơm nức mũi của các loại gia vị, vị chua chua của quả mác mật, vị cay cay của gừng đá và vị dai của vỏ lòng non. Tất cả hoàn vào nhau rồi được sấy khô đến một mức độ phù hợp. Đến với vùng đất Cao Bằng mà không thưởng thức hay mua một ít lạp xưởng về thì quả thật rất đáng tiếc.