Xuân Trường là một huyện thuộc tỉnh Nam Định. Xuân Trường không chỉ nổi tiếng là vùng đất học với những con người thân thiện, vui vẻ mà còn nổi tiếng bởi nhiều địa danh đi vào lịch sử. Du khách đến tham quan vùng đất Xuân Trường không thể không đến những địa danh như nhà lưu niệm cố Tổng bí thư Trường Chinh, chùa Keo Khánh Thiện... Hãy cùng Toplist tìm hiểu về những địa danh nổi tiếng nhất Xuân Trường bạn nhé!
Nhà lưu niệm cố Tổng Bí Thư Trường Chinh
Di tích nhà lưu niệm cố Tổng bí thư Trường Chinh ở thôn Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường. Tổng bí thư Trường Chinh là người học trò suất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, người con ưu tú của quê hương Nam Định. Tổng bí thư Trường Chinh tên thật là Đặng Xuân Khu sinh ngày 09/2/1907 trong một gia đình giàu truyền thống hiếu học. Ông nội là Tiến sĩ Đặng Xuân Bảng, một sĩ phu yêu nước, thân phụ là Đặng Xuân Viện một người có trình độ học vấn cao và luôn say mê nghiên cứu.
Nhà lưu niệm cố Tổng bí thư Trường Chinh trước đây là ngôi nhà được ông nội xây dựng năm Nhâm Dần niên hiệu Thành Thái thứ 4 (1902), cho người con trai của cụ là ông Đặng Xuân Viện (Bốn Đễ). Tổng bí thư Trường Chinh là con trai cả của ông Đặng Xuân Viện được sinh ra và lớn lên rồi xây dựng gia đình cũng chính tại ngôi nhà này. Ngôi nhà lưu niệm là nơi lưu giữ nhiều sự kiện lịch sử quan trọng của địa phương, cũng như cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí Trường Chinh suốt từ năm 1928 đến thời kỳ chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954). Nơi đây có thời kỳ đã từng là cơ sở in tài liệu, sách báo, tuyên truyền phục vụ cách mạng. Đồng thời còn là nơi nuôi giấu đồng chí Trường Chinh trong những lần về hoạt động và chỉ đạo phong trào cách mạng tại quê nhà.
Nhà được làm bằng gỗ lim quay về hướng nam trên một khu đất rộng 531m², có 5 gian, bộ vì kèo làm kiểu thượng chồng rường hạ bẩy kẻ, mái lợp ngói nam và hệ thống tường hồi, tường hậu được xây gạch thất. Trong số 5 gian nhà, 2 gian buồng phía Đông và phía Tây có bức vách thuận ngăn cách với 3 gian phòng khách ở giữa. Trước đây bức thuận có ngưỡng cao, lắp cánh cửa ô, từ năm 1944 được thay thế bằng cánh cửa quân bài và hệ thống ngưỡng cũng được hạ thấp tạo nên không gian rộng rãi. Phía trước có tường hoa, sân gạch và một ao nhỏ nằm sát ở phía ngoài đường giong. Bờ ao có một số cây lưu niên, giáp đường là hàng dậu bằng tre được xén ngay ngắn, lối vào là cổng gạch được xây dựng khá cổ kính.
Đặc biệt sau những năm đồng chí Trường Chinh, nhà lãnh đạo cao cấp của Đảng, nhà cách mạng, nhà tư tưởng lớn của Việt Nam, người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, Đảng bộ và nhân dân Nam Định phát huy truyền thống cách mạng, truyền thống uống nước nhớ nguồn, bằng những việc làm thiết thực đã ra sức tôn tạo, giữ gìn khu nhà lưu niệm ngày một khang trang hơn. Hiện nay, khu nhà lưu niệm cố Tổng Bí thư Trường Chinh có các hạng mục sau: Nhà lưu niệm (nhà thờ), nhà khách, nhà lợp bổi được phân bổ theo tòa ngang dãy dọc có sân vườn, cây lưu niên, ao nước nhỏ được bao bọc trong tường xây dậu trúc khép kín mang đậm phong cách truyền thống.
Đền Xuân Hy
Đền Xuân Hy hay còn gọi là Đền Hạ nằm ở cuối làng Xuân Hy thuộc Xã Xuân Thủy, huyện Xuân Trường. Đền Xuân Hy được xây dựng để thờ Đại Đức- Ngô Miễn - người đã có công tổ chức khai hoang lấn biển, xây dựng thôn ấp. Ngô Miễn Tên hiệu là Đại Đức, sinh năm Tân hợi đời vua Trần Nghệ Tông (1371), quê ở thôn Mai, xã Xuân Phương, huyện Kim Hoa, xứ Kinh Bắc nay là phường Phúc Thắng, thị xã Phúc Yên. Ngay từ nhỏ Ngô Miễn đã là người thông minh, tuấn tú, tính cách khoan hòa. Tuy xuất thân từ một gia đình giàu có và quyền thế nhưng đối với mọi người, ông rất khiêm nhường, hòa nhã. Năm 20 tuổi, ông đỗ Thái học sinh dưới triều vua Trần Thuận Tông (1388 - 1398) nhưng ông không ra làm quan vì chính sự nhà Trần đang ở vào thời kỳ suy thoái. Ông về quê (Kinh Bắc) mở trường dạy học và dành thời gian đi tới nhiều nơi. Đi tới vùng biển Sơn Nam thuộc phủ Thiên Trường. Ông thấy có nhiều bãi bồi màu mỡ mà chưa có người khai phá nên Ông đã tâu xin với triều đình đưa 10 dòng họ: Ngô, Đỗ, Trần, Hoàng, Nguyễn, Phạm, Vũ, Đinh, Đào, Tạ, từ quê hương Xuân Mai xuống lập Ấp mới tại phủ Thiên Trường. Mười dòng họ dưới sự chỉ đạo của Ngô Miễn đã vật lộn với sóng biển, lau lách, sinh lầy, đắp đê ngăn nước mặn, lấy nước ngọt cho đồng ruộng. Chỉ trong một thời gian ngắn từ 1392 đến 1396 ông đã cùng nhân dân khai khẩn được trên 200 mẫu ruộng lập ra “Tân ấp”- xã Nhật Thi (lấy tên quê gốc); tới năm 1721 xã được đổi thành Nhật Hy.
Đền Xuân Hy được tọa lạc trên một khu đất rộng, nằm ở cuối làng, xung quanh là cánh đồng lúa bao bọc. Trước Đền là một hồ rộng, hình chữ nhật, xung quanh hồ là hàng nhãn cổ thụ xum xuê, trước đền là sân đền rộng để làm nghi lễ. Phần chính của khu đền hiện nay gồm: Bốn gian tiền đường, ba gian trung đường và một gian hậu cung. Trải qua thời gian dân làng tu sủa để bảo tồn nhưng vẫn giữ nét cổ kính và mang nhiều dấu ấn của kiến trúc Nguyễn. Dân làng Thi lấy ngày 21/8 Âm lịch - ngày Ngô Tướng Công di dân lập Ấp là ngày hội làng.
Lễ hội được tổ chức vào 3 ngày 20, 21 và 22 tháng 8 âm lịch. Trong lễ hội có các trò “kéo mót lấy lửa thổi cơm thi, bơi trải nam, nữ quanh làng” các trò chơi rất hấp dẫn thu hút các xã lân cận cùng đến tham gia lễ hội.
Đền An Cư
Đền An Cư xã Xuân Vinh, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định là di tích được nhân dân địa phương xây dựng để ghi dấu công lao khai hoang lấn biển do vị thủy tổ Phúc Diễn khởi xướng vào những năm cuối thế kỷ XIV. Theo cuốn thần phả hiện lưu giữ tại di tích thì vị thủy tổ Phúc Diễn thuộc dòng dõi Vũ Hồn quê gốc ở Mộ Trạch, tỉnh Hải Dương. Ông là con trai cụ Phúc Điền, người có công khai sáng ra mảnh đất Bình Cư nay là xã Xuân Ngọc huyện Xuân Trường. Thủy tổ Phúc Diễn là người thuộc dòng dõi trâm anh được học hành lại có trí thông minh hơn người. Ông nhận thấy mảnh đất Bình Cư khó có thể làm ăn khá giả nên cần phải khai phá xuống vùng biển phía nam. Trong nhiều năm liền, dưới sự chỉ đạo của thủy tổ Phúc Diễn cùng với sự cố gắng của nhân dân nên đã khai khẩn được một vùng đất rộng lớn. Dân làng đặt tên cho vùng đất mới là An Cư với hàm ý ăn ở ổn định. Công lao của thủy tổ Phúc Diễn đối với nhân dân nơi đây vô cùng to lớn, bởi vậy sau khi mất ông được suy tôn là "Khai cơ tổ" (ông tổ mở mang miền đất mới). Nhân dân thờ phụng ông như một vị thần ở trong đền. Hiện nay, tại đền còn lưu giữ được đôi câu đối ghi lại công trạng của ông: "Linh địa khởi lâu đài, lễ nhạc y quan kim cổ thịnh. An Cư hưng miếu vũ thanh danh phong vật địa nhân long ". (Dựng lâu đài ở đất linh thiêng, lễ nhạc áo mũ xưa nay đều hưng thịnh. Chấn hưng miếu vũ tại An Cư, thanh danh phong vật, đất người đều phồn thịnh).
Đền An Cư hiện nay được làm quay về hướng đông nam gồm nhiều hạng mục xây dựng đăng đối. Trước đền là hệ thống nghi môn tạo thành ba cổng ra vào. Cổng giữa tạo dáng bởi hai đồng trụ cao trên 7 mét, hai cổng bên xây đối xứng kiểu chồng diêm tám mái lợp giả ngói ống. Công trình chính của đền xây thành ba lớp tạo thành mặt bằng hình chữ tam bao gồm: Tiền đường, trung đường và hậu cung. Tòa tiền đường có 5 gian cao rộng, tất cả các cấu kiện gồm: Xà, vì kèo, câu đầu đều làm bằng gỗ lim. Nâng đỡ bộ mái là tường xây và hệ thống cột xây gạch chắc chắn. Tại gian chính giữa tiền đường đắp nổi bức cuốn thư trên viết ba chữ Hán "Khai cơ tổ" (ông tổ mở mang miền đất mới). Tiếp đến là 5 gian trung đường được xây liền với tiền đường. Bộ mái trung đường làm kiểu cuốn vòm gắn ngói nam.
Gian giữa trung đường treo bức cửa võng sơn son thếp vàng chạm đề tài long, ly, quy, phượng cùng hoa lá mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn. Hội làng An Cư ngoài các nghi thức tế lễ, rước kiệu, làng còn tổ chức nhiều trò chơi như đấu vật, bơi chải, cờ tướng, tổ tôm điếm... Đặc biệt trong hội làng An Cư trò chơi đấu vật và bơi chải thì không năm nào thiếu. Đây là hình thức để dân làng rèn luyện sức khỏe, hăng say lao động sản xuất. Từ xa xưa sới vật An Cư đã rất nổi tiếng, vào ngày hội làng có nhiều đô vật từ nhiều địa phương về đăng ký tham gia thi đấu như: Bắc Ninh, Thanh Hóa, Hà Tây, Hải Phòng... Do đó, hội làng An Cư luôn luôn náo nhiệt mang tinh thần thượng võ của một làng quê ven biển. Đến với xới vật An Cư, các đô vật ở mọi miền đất nước đều biết đến miếng "đánh gồng". Đó là miếng võ hiểm duy chỉ có An Cư mới áp dụng thành công.
Trước đó vào thời Nguyễn, An Cư có đô vật Kình đã dùng miếng đánh gồng để thi đấu ở Thanh Hóa và hạ đo ván nhiều đối thủ, giành được chức quán quân khiến cho các đô vật khác phải nể phục. Hiện nay, tinh thần thượng võ trong dân làng vẫn luôn được địa phương duy trì và phát triển. Toàn thôn An Cư hiện có trên 30 đô vật, trong đó xới vật xóm 4, xóm 16 là nổi tiếng nhất, hàng năm đóng góp cho thể thao tỉnh Nam Định nhiều vận động viên tiêu biểu. Lễ hội truyền thống tại đền An Cư là một nét sinh hoạt văn hóa rất thiết thực, có ý nghĩa giáo dục truyền thống, động viên quần chúng nhân dân hăng say lao động sản xuất. Chắc chắn lễ hội truyền thống tại đền An Cư sẽ lôi cuốn được sự quan tâm của đông đảo nhân dân xa gần góp phần phát huy tốt giá trị của một di tích đã được Nhà nước công nhận.
Đền và chùa Thọ Vực
Đền và chùa Thọ Vực thuộc xã Xuân Phong, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định, là công trình tín ngưỡng đã được xếp hạng di tích lịch sử kiến trúc cấp quốc gia theo quyết định số 65-VH/QĐ ngày 16/01/1995. Đền và chùa Thọ Vực không chỉ là quần thể di tích có giá trị về mặt văn hóa tín ngưỡng, kiến trúc nghệ thuật, mà còn có ý nghĩa về mặt lịch sử. Trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc thời kỳ tiền khởi nghĩa, di tích đền và chùa Thọ Vực là nơi hội họp, nơi hoạt động và trú ẩn của các tổ chức Cộng sản trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Trải qua thời gian, đền và chùa Thọ Vực vẫn là quần thể công trình tín ngưỡng linh thiêng được nhân dân địa phương tôn tạo gìn giữ.
Đền Thọ Vực được xây dựng từ lâu đời, để làm nơi phụng thờ 5 vị thánh - thần, gồm: Hai vị Thần Hoàng làng và các vị Nam Hải Đại Vương (Thục Phán An Dương Vương thứ 18), thánh Trân Thái Chưỡng phu nhân (đệ tam cung phi), tướng công Đông Hải. Trong tín ngưỡng dân gian ở địa phương, đây là những người có công ngăn trừ tai họa, khai thiên lập địa, tiếng thiêng hiển hách và luôn phù trợ cho cuộc sống muôn người yên ấm. Đền Thọ Vực đã trải qua nhiều lần trùng tu, lần tôn tạo quy mô nhất là vào năm Tự Đức 1848, đền được xây dựng hoàn chỉnh bằng gỗ lim, lợp ngói nam. Đến năm 1924, đền Thọ Vực một lần nữa được xây dựng lại to cao như ngày nay, chất liệu gạch ngói bê tông, công trình do cụ Hàn Hiệt thiết kế và thi công.
Chùa Thọ Vực được xây dựng và hoàn thành vào tháng 3 năm 1724 niên hiệu Bảo Thái. Cũng sang đầu thế kỷ 20, Hòa thượng Thích Tâm Tín đã đứng ra quyên góp tài vật xây dựng chùa khang trang như ngày nay. Riêng tam quan chùa đã bị đổ trong trận bão ngày 24/6/1929, Hòa thượng đã cho xây dựng lại, cao lên 3 tầng. Đền và chùa Tho Vực là một quần thể di tích có quy mô thiết kế theo kiến trúc cổ truyền. Các họa tiết, văn bia, câu đối và phù điêu cổ kính. Đặc biệt nơi đây còn gìn giữ được nhiều đồ thờ tự, tượng pháp có giá trị nghệ thuật cao, được làm bằng gỗ, đồng, gang… đây là những di vật quý mà ít nơi nào bảo lưu được.
Nhà thờ Phú Nhai (Tiểu Vương cung Thánh đường Phú Nhai)
Nhà thờ Phú Nhai nằm ở trung tâm của xã Xuân Phương, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định, cách thị trấn Xuân Trường hơn 1 km. Đây là một trong những ngôi nhà thờ có diện tích rộng lớn nhất Việt Nam. Nhà thờ Phú Nhai nguyên thủy được tạo dựng bằng gỗ, lợp bồi do linh mục Chính xứ Emmanuel Rianô Hòa cho xây dựng vào năm 1866, ngay sau khi vua Tự Đức ký sắc lệnh tha đạo, chấm dứt gần 3 thế kỷ Kitô giáo bị bách đạo tại Việt Nam.
Năm 1881, Giám mục Hòa cùng với linh mục Barquerô Ninh xây nhà thờ thứ hai theo kiến trúc Á Đông và hai tháp chuông. Năm 1916, Giám mục Phêrô Munagôri Trung và linh mục Morênô xây nhà thờ thứ ba theo Kiến trúc Gothic. Khánh thành năm 1922 nhưng bị cơn bão lớn tàn phá nặng nề vào ngày 24 tháng 6 năm 1929. Năm 1930, để có kinh phí xây dựng nhà thờ, bề trên giáo phận đã mở cuộc xổ số trên toàn quốc. Sau nhiều biến cố lịch sử, nhà thờ này được xây dựng lại, hoàn thành và xức dầu cung hiến thánh đường vào ngày lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội 8 tháng 12 năm 1933. Tháng 11/1949, một bộ phận quân viễn chinh Pháp chiếm đóng Phú Nhai, lấy nhà thờ có ngọn tháp cao làm điểm uy hiếp các vùng, lấy hai dãy hành lang làm trụ sở làm việc và dãy hướng Nam là nơi giam giữ, tra tấn cán bộ cách mạng, nhanh chóng xây dựng công sự đào hầm hào, đắp đường ức từ Phú Nhai ra Bùi Chu để tiện việc hành quân, linh mục Lương Huy Hân làm tổng tuyên úy. Sau thời gian chiến tranh bị hư hại, Nhà thờ được trùng tu tôn tạo bởi Giám mục Đa Minh Nguyễn Chu Trinh khởi công từ ngày 17 tháng 3 năm 2003 cho đến 26 tháng 9 năm 2004 thì hoàn thành như diện mạo hiện nay.
Nhà thờ gốc có phong cách kiến trúc Gothic đậm dấu ấn Tây Ban Nha, sau được xây lại theo phong cách kiến trúc Gothic nước Pháp. Nhà thờ có kích thước: Dài 80 mét, rộng 27 mét, cao 30 mét. Hai tháp chuông cao 44 mét đặt 4 quả chuông được đúc từ Pháp chuyển sang với trọng lượng lần lượt là 2.000 kg - 1.200 kg - 600 kg và 100 kg. Mặt tiền nhà thờ từ ngoài vào, bên phải có tượng đài Thánh Đaminh cao 17m, riêng phần tượng cao 2,3m. Bên trái có Lăng lưu trữ hài cốt của 83 người tử đạo thuộc họ đạo xứ Phú Nhai cao 15m. Xung quanh nhà thờ có các phù điêu thể hiện 14 Đàng Thánh Giá. Khi khách tham quan đứng trên ngọn tháp cao của nhà thờ Phú Nhai sẽ được chiêm ngưỡng được toàn cảnh của Huyện Xuân Trường. Năm 2008 Đền thánh Phú Nhai được nâng lên hàng thành Tiểu Vương cung Thánh đường (Minor Basilica).
Chùa Keo Hành Thiện
Chùa Keo Hành Thiện là một ngôi chùa ở làng Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Đây là một trong những ngôi chùa cổ ở Việt Nam được bảo tồn hầu như còn nguyên vẹn kiến trúc 400 năm tuổi. Được khởi công xây dựng trước, kiến trúc chùa Keo Hành Thiện có ảnh hưởng rất lớn đến chùa Keo ở Thái Bình. Phía trước chùa có hồ bán nguyệt, nước trong xanh. Không gian chùa là cả một khối kiến trúc cổ đồ sộ, trầm mặc với 13 tòa rộng gồm 121 gian nối tiếp nhau, là một sự kết hợp hài hòa của kiến trúc tam quan nội năm gian, làm theo kiểu chồng diêm, cao 7,50 m với dáng thanh thoát, bờ cánh kẻ bảy uốn lượn. Ngoài vẻ đẹp kiến trúc, trong chùa còn lưu giữ, bảo tồn những di vật cổ từ thế kỷ 17 thời Hậu Lê rất giá trị. Đó là những án thư, sập thờ, tượng pháp, nhiều chuông, khánh, văn bia cổ, hoành phi, câu đối và sách chữ Hán nói về chùa Keo. Hàng năm, nơi đây đã đón nhiều đoàn khách và nhân dân khắp nơi về thăm quan, vãn cảnh.
Phía trước Tam quan có hồ bán nguyệt và hòn non bộ theo thế tam sơn, long chầu hổ phục, trên bờ có đôi voi đá khổng lồ, quanh chùa là hàng cây cổ thụ có tuổi đời hàng trăm năm. Gác chuông trước cửa chùa là kiến trúc tam quan nội 5 gian, làm theo kiểu chồng diêm cao 7,5 m gồm có 8 cột đại trụ và 16 cột quân được đặt trên đá tảng chạm khắc hoa văn, cảnh hoa sen mang đậm phong cách nghệ thuật thời Hậu Lê. Sau gác chuông là cụm kiến trúc trung tâm gồm tiền đường 5 gian, tòa đệ nhị 3 gian, tòa đệ nhất 3 gian thờ Phật và Thiền sư Không Lộ.
Hàng năm, tại chùa có hai lần mở hội. Đó là Hội xuân vào dịp Tết Nguyên Đán và hội tháng 9 mở vào ngày 13,14,15 để kỷ niệm ngày sinh của thánh tổ Không Lộ. Hội xuân gồm các trò chơi bắt vịt, thi ném pháo, thi nấu cơm và các hình thức văn nghệ dân gian khác. Hội tháng chín được tổ chức trọng thể, ngoài những nghi thức lễ tiết mang tính tôn giáo, hội tháng chín còn là nơi hội tụ của những sinh hoạt văn hoá tinh thần của cư dân nông nghiệp. Chính vì vậy, vào ngày hội nhân dân không những trong vùng mà cả trong Nam ngoài Bắc đều nô nức kéo nhau về tụ hội: "Dù cho cha đánh mẹ treo. Em không bỏ hội chùa keo hôm rằm".
Độc đáo nhất trong lễ hội là môn đua thuyền trải, có 15 xóm trong làng tham gia đua thuyền hay gọi là bơi trải, có tất cả mười người trên thuyền trong đó có một người lái thuyền. Bơi trải ở Chùa Keo Hành Thiện Nam Định khác với các nơi khác, họ không ngồi bơi mà mười người đểu đứng để chèo. Bắt đầu xuất ở trong sông con là sông làng khoảng 5 - 6 km rồi bắt đầu ra đến sông Ninh Cơ nhánh của sông Hồng, bơi 3 đến 5 vòng sông rồi quay về bắt Têu trong sông con nếu đội nào về đầu thì sẽ dành giải nhất. Trung bình mỗi cuộc thi bơi trải diễn ra từ 3,5 h - 4 h đồng hồ). Đây là môn thi đấu cổ truyền rất tuyệt vời đáng được ghi nhớ cũng như lưu trong sử sách của Dân tộc ta. Nơi đây hàng năm đã đón nhiều đoàn khách và nhân dân khắp nơi về thăm quan, vãn cảnh, đồng thời thăm nhà lưu niệm đồng chí Trường Chinh, nhà cách mạng suất sắc, người con ưu tú của quê hương Hành Thiện.
Đền Xuân Bảng
Đền Xuân Bảng thuộc thị trấn Xuân Trường là di tích thờ tướng quân Ngô Miễn, người có công tập hợp nhân dân và các dòng họ về đây khai hoang mở đất. Tướng quân Ngô Miễn sinh ra trong một gia đình hào phú ở thôn Mai, xã Xuân Phưong, huyện Kim Hoa, trấn Kinh Bắc vào năm thứ 2 đời vua Trần Nghệ Tông (1371).
Đền Xuân Bảng còn là di tích thờ hai anh em Đỗ Thận Đoan và Đỗ Nhân Tăng. Cả hai anh em vốn là cháu xa của tướng quân Ngô Miễn và làm quan dưới hai triều vua Lê Hy Tông và Lê Dụ Tông. Đền Xuân Bảng được xây dựng vào đời vua Tự Đức năm thứ 22 (1869) trên một khu đất rộng, cách xa khu vực dân cư. Khuôn viên di tích bao gồm đền chính với quy mô lớn nhất nằm ở giữa, xung quanh là các công trình phụ trợ nhỏ hơn như nhà tuần thước, nhà tịnh cờ, nhà bia, cô nhi viện, nhà văn chỉ... tất cả được bao quanh bởi một hệ thống tường bao và sân vườn được quy hoạch hợp lý thoáng đãng. Ngăn cách giữa các tòa nhà là hệ thống máng nước được gánh đỡ bởi các xà dọc và 8 cột đá cạnh vuông cao 2,2 m; rộng 0,5 m chia làm hai hàng. Trên mỗi cột, xà, đấu bằng đá, các nghệ nhân xưa chạm khắc các đề tài khác nhau như tứ linh, tứ quý, cúc, mai hóa long. Đan xen còn có hình ảnh lũy tre làng, phong cảnh cùng hình tượng con vật mang đậm tính dân gian như vịt, sóc, hươu nai, hoa lá... tất cả đều được chạm chìm sâu, nét chạm tinh tế sống động và sắc nét. Nối tiếp tiền đường là tòa trung đường ba gian xây thấp nhỏ hơn so với tiền đường. Cũng giống như tiền đường, phần chịu lực chính của trung đường hoàn toàn bằng đá bao gồm 6 cây cột và 6 cây xà dọc, hồi xây bít đốc, mái lợp ngói nam. Tuy nhiên kích thước của các cấu kiện bằng đá tại trung đường được rút bớt lại so với tiền đường.
Tòa chính tẩm gồm ba gian được xây chồng lâu hai tầng tám mái cao 10m. Cổ lâu có tạo ba cửa xây cuốn hình bán nguyệt; bờ nóc đắp họa tiết hoa chanh thông phong, đầu đao uốn cong mềm mại tạo sự cân đối nhẹ nhàng, trang nghiêm cho nơi thờ tự chính. Trong chính tẩm có đặt nhang án, bài vị và ngai thờ của vợ chồng tướng quân Ngô Miễn. Ngoài ra còn có bài vị thờ Đỗ Thận Đoan, Đỗ Nhân Tăng, những người đã kế tục công cuộc khẩn hoang của tướng quân xây dựng nên quê hương. Đền Xuân Bảng là biểu tượng cội nguồn, là hình ảnh của tinh thần đoàn kết, tinh thần bất khuất chống giặc ngoại xâm của người dân Xuân Bảng xưa và nay. Với những giá trị lịch sử và kiến trúc độc đáo ở một vùng quê ven biển, di tích đền Xuân Bảng ngày càng thu hút du khách về dự lễ hội hàng năm cũng như tìm hiểu, nghiên cứu về mảnh đất con người Xuân Bảng, huyện Xuân Trường.
Chùa Nghĩa Xá
Chùa Nghĩa Xá (Chùa Viên Quang) là một di tích có quy mô rộng lớn, bề thế. nội công ngoại quốc, trên khu đất rộng khoảng 500 m2. Chùa đã được di chuyển và sửa chữa nhiều lần nhưng dấu ấn thời kiến trúc thời Hậu Lê còn in khá đậm nét trong phong cách xây dựng và phong cách trạm khắc như 2 bộ cánh cửa nhà Tiền Bái, hàng chục chân tảng đá hoa sen khu mộ tháp bằng đá... Ở đây còn tấm bia thời Lý khắc năm 1122 là một trong những tấm bia quý hiếm ở địa phương. Ngoài ra, ở chùa còn ba cỗ kiệu Bát cống, nhiều nhang án và sấu gỗ trạm khắc thời Hậu Lê có giá trị về mặt nghệ thuật. Chùa Nghĩa Xá còn có một thắng cảnh nhiều người biết đến.
Chùa Nghĩa Xá hiện nay thờ Phật và các vị Thánh Tổ. Nguyên trước chùa thờ cả Thiền Sư Tuệ Tĩnh. Theo các cụ ở địa phương, trước năm 1949 chùa rất nhiều tượng phật, sau bị giặc Pháp huỷ hoại. Hiện nay, gian tiền bái thờ tượng Phổ Hiền và Quan Công gian đọ nhị có toà Cửu Long gian Thượng Điện thờ bốn pho tượng Quan Âm, một pho tượng A Di Đà ngồi tư thế toạ thiền. Phía trên cùng của thượng điện thờ 3 tượng tam thế. Nếu nhìn từ ngoài vào thượng điện thì gian bên cạnh (phía phải). Có bài vị thờ vua Lý Thần Tông, gian tiếp cạnh có bài vị thờ Lục Thượng Thái Sư. Cạnh tượng điện về phía trái có bài vị thờ Giác Hải thiền sư và một gian giáp cạnh có bài vị thờ Nguyễn Minh Không. Phía sau toà thượng điện này có 4 gian (lợi dụng mái thượng điện) có 4 pho tượng tương ứng những người được thờ bài vị ở phía ngoài. Trong thời kỳ chống thực dân Pháp xâm lược, ở di tích đã diễn ra nhiều sự kiện lịch sử đáng ghi nhớ. Năm 1946, thực dân Pháp quay lại xâm chiếm nước ta một lần nữa, chùa Nghĩa Xá là nơi dân quân nằm nghỉ, tập luyện hàng năm trời. Cũng trong thời gian này nhà sư Nguyễn Thanh Tác trụ trì tại chùa đã cởi áo Cà Sa tham gia vệ quốc đoàn để chống lại thực dân Pháp.
Thời kỳ năm 1947 - 1948, chùa Nghĩa Xá là nơi tỉnh bộ Việt Minh tỉnh Nam Định liên tục đi về để tổ chức cuộc mít tinh quần chúng. Có những cuộc mít tinh lớn như cuộc mít tinh lực lượng 3 huyện miền nam tỉnh là Xuân Trường, Giao Thuỷ và Hải Hậu. Nhân kỷ niệm ngày quốc tế lao động mùng 1/5/1950 lá cờ Đảng đã tung bay trên gác chuông chùa mặc dù lúc này nơi đây vẫn còn vùng địch tạm chiếm. Chùa Nghĩa Xá (Viên Quang) là một trong những di tích có giá trị của tỉnh Nam Định.
Hàng năm, vào ngày 1/3 âm lịch chính quyền địa phương và nhân dân xã Xuân Ninh lại long trọng tổ chức lễ hội truyền thống nhằm tôn vinh ý nghĩa lịch sử văn hoá của khu di tích, đồng thời qua đó cũng khơi gợi ý thức tự hào của nhân dân địa phương và lòng hảo tâm của khách địa phương trong và ngoài xã để sửa sang và tôn tạo cho khu di tích ngày một khang trang hơn, sạch đẹp hơn.
Nhà thờ Bùi Chu
Nhà thờ chính tòa Bùi Chu là một nhà thờ chính tòa Công giáo Rôma, tọa lạc ở xã Xuân Ngọc, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Đây là nhà thờ chính tòa của giáo phận Bùi Chu, là nơi an nghỉ của năm vị giám mục đã từng cai quản giáo phận này. Nhà thờ chính tòa Bùi Chu là một trong những nhà thờ cổ kính nhất ở các tỉnh phía Bắc Việt Nam, có lịch sử tương đương Nhà thờ chính tòa Đức Bà Sài Gòn (ra đời năm 1880) và Nhà thờ Lớn Hà Nội (ra đời năm 1886). Đây là nơi lưu dấu ấn lịch sử truyền giáo, giao thoa văn hóa Đông - Tây ở vùng Đồng bằng Bắc Bộ, là công trình có giá trị đặc biệt về phương diện lịch sử, văn hóa, nghệ thuật kiến trúc.
Nhà thờ Bùi Chu được xây dựng theo phong cách kiến trúc Baroque dưới thời Pháp thuộc bởi giám mục Wenceslao Onate Thuận (1884) người Tây Ban Nha với chiều dài 78m, rộng 22m, cao 15m, hai tháp chuông cao 35m. Nhà thờ có chiếc đồng hồ cổ kính, sản xuất đơn chiếc theo đơn đặt hàng ở Pháp từ năm 1922. Máy đồng hồ có kích thước 1,2m x 0,7m, hoạt động theo nguyên tắc sử dụng thế năng. Ðồng hồ dùng ba quả tạ bằng kim loại, mỗi quả chừng 50 kg.
Trải qua hơn 100 năm, ngôi nhà thờ này vẫn đứng vững với những cột gỗ lim và những đường nét hoa văn mang dấu ấn kiến trúc phương Tây. Hàng năm vào ngày 8 tháng 8, ngày lễ quan thầy của giáo phận, có nhiều giáo dân tập trung về dâng lễ. Năm 2019, Giáo phận Bùi Chu thông báo sẽ hạ giải (tháo dỡ) nhà thờ này để tái thiết xây nhà thờ. Đến ngày 4 tháng 2 năm 2020, Giáo phận Bùi Chu cho tiến hành hạ giải để xây mới với kiển trúc tương tự nhà thờ cũ.
Chùa Xuân Trung
Chùa Xuân Trung tên chữ là Linh Quang tự (chùa Linh Quang) thuộc xã Xuân Bắc, huyện Xuân Trường. Căn cứ theo tư liệu "Trà Lũ xã chí" do Cử nhân Lê Văn Nhưng biên soạn vào đời vua Khải Định năm thứ nhất (1916) thì chùa Xuân Trung được khởi dựng vào năm 1720 thời vua Lê Dụ Tông. Người có công lao đầu tiên trong việc xây dựng chùa là ông Đào Công Canh, quê làng Nguyệt Giám xã Minh Tân huyện Kiến Xương tỉnh Thái Bình. Ngôi chùa ban đầu có quy mô kiến trúc nhỏ bé, mái lợp bổi, tường bao quanh đắp đất. Năm 1785, chùa Xuân Trung mới chính thức được xây dựng một cách khang trang. Đến đời vua Gia Long năm thứ 2 (1803), chùa đã có một quy mô bề thế, lớn trên 80 gian lớn nhỏ. Bài minh văn trên khánh đá soạn khắc vào đời vua Tự Đức năm thứ 33 (1880), hiện treo tại gác khánh đã ca ngợi cảnh đẹp của chùa như sau: "Chùa Linh Quang nằm ở thôn Trung, xã Trà Lũ, huyện Giao Thủy, phủ Xuân Trường là một thắng cảnh đẹp trong vùng, là nơi muôn màu tụ hội".
Qua bao thời gian hình thành và phát triển, chùa Xuân Trung luôn được các cấp ủy Đảng, chính quyền cùng thế hệ nhà sư và nhân dân địa phương quan tâm bảo tồn, tôn tạo. Chùa Xuân Trung hiện nay, ngoài thờ Phật còn thờ Thiền sư thời Lý là Nguyễn Minh Không (1076-1141). Thiền sư quê ở Đàm Xá (Điềm Xá) thuộc đất Tràng An, tên thật là Nguyễn Chí Thành. Thuở nhỏ làm nghề đơm đó, sau ngài xuất gia đi tu ở chùa Quốc Thanh, lấy hiệu là Minh Không. Nguyễn Minh Không là người có trình độ học vấn uyên thâm nổi tiếng về pháp thuật, có xu hướng tu mật giáo: "Có phép lạ bay trên không, đi trên mặt nước, hàng long phục hổ".
Truyền thuyết kể lại rằng, Vua Lý Thần Tông mắc bệnh lạ, tâm thần rối loạn, mình mẩy loang lổ, miệng luôn gầm rú như một mãnh hổ. Các vị danh y đều bó tay, Quốc mẫu, Hoàng hậu đều lo sợ. Nghe tiếng tăm của Thiền sư Không Lộ, Quốc mẫu đích thân mời ngài về cung chữa bệnh. Thiền sư dùng pháp thuật chữa khỏi bệnh cho vua. Vua phong ngài làm Quốc sư và ban nhiều bổng lộc. Công trình kiến trúc chùa Xuân Trung hiện nay được xây dựng theo kiểu "nội chữ đinh ngoại chữ quốc", mặt quay về hướng tây trên một diện tích 6125 m2.
Tổng thể công trình gồm nhiều hạng mục, quy mô đồ sộ, bề thế còn bảo lưu được nhiều nét kiến trúc nghệ thuật thời hậu Lê thế kỷ XVII - XVIII. Nằm về phía trước chùa là hệ thống tam quan xây kiểu chồng diêm hai tầng bốn mái, lợp ngói nam. Hai bên tam quan còn có gác chuông và gác khánh, được xây theo kiểu "cổng làng" với các đao góc uốn cong mềm mại. Sau tam quan, qua một sân rộng lát gạch đỏ sạch sẽ là đến chùa chính. Công trình làm kiểu chữ đinh gồm bái đường 5 gian dài 13 m, rộng 8,70 m, tam bảo 5 gian dài 12 m, rộng 5,30 m. Bộ khung của công trình được làm bằng gỗ lim theo kiểu "giá chiêng" với các cấu kiện: Câu đầu, quá giang, xà nách, bẩy tiền, bẩy hậu đều gia công theo dạng tròn.
Đây là một nét đặc biệt trong kiến trúc của thời Hậu Lê thế kỷ XVII - XVIII còn bảo lưu được tại di tích. Bên cạnh chùa chính còn có đền thờ Thiền sư Nguyễn Minh Không, phủ thờ thánh Mẫu Liễu Hạnh, phía sau là nhà tổ và bao quanh là hệ thống nhà khách, tăng phòng... Tất cả đã tạo thành một tổng thể khép kín hoàn chỉnh đã làm tăng thêm giá trị kiến trúc nghệ thuật cho khu di tích. Từ những giá trị tiêu biểu về lịch sử và kiến trúc nghệ thuật, chùa Xuân Trung xã Xuân Bắc đã được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng là Di tích lịch sử kiến trúc nghệ thuật.