"Ai qua Nam Định chớ quên. Bánh gai đôi cặp hương quê làm quà. Sông bồi đất nở phù sa. Trái thơm quả ngọt bãi hoa tươi màu. Thủ công mĩ nghệ thiếu đâu. Biển cho muối mặn dân giàu cần lao. Bồi hồi tức cảnh ước ao. Câu thơ để ngỏ, đi nào,về thôi. Thiên Trường-sân bóng sáng ngời. Đậu lại bến cuối cái tôi Tự Hào" Đây là bài thơ ngẫu hứng của cô Lê Băng Tâm viết về mảnh đất Nam Định thân yêu. Cũng như tinh thần của bài thơ, mình luôn thấy tự hào về quê hương mình - Nam Định và cũng rất tự hào khi đã được làm học trò của cô Tâm. Nhưng gác lại cảm xúc này, mình muốn giới thiệu với mọi người những làng nghề nổi tiếng trên mảnh đất Thành Nam yêu dấu.
Làng nghề mây tre đan Thạch Cầu
Đến thăm làng hoặc mua sản phẩm bạn đi dọc theo tỉnh lộ 490 khoảng 10 km từ thành phố Nam Định rồi hỏi thăm đến Thạch Cầu.


Làng nghề làm đèn ông sao Báo Đáp
Dù nghề chỉ làm trong vỏn vẹn hai tháng trong năm nhưng sự rực rỡ lung linh của những chiếc đèn là minh chứng cho sức sống của làng nghề truyến thống này. Nếu bạn muốn ghé thăm làng hãy đi dọc đường tỉnh lộ khoảng 10 km từ thành phố Nam Định, hỏi thăm là sẽ đến.

Làng nghề làm miến, bánh đa thôn Phượng
Ở đây làm 2 loại miến: miến gạo và miến dong. Làm ra 1 tấn miến gạo cần 1,2 đến 1,3 tấn gạo, làm ra 1 tấn miến dong cần 1,6 đến 1,8 tấn bột dong. Bột sau khi sơ chế, tráng thành bánh, đem hấp chín rồi phơi ra ánh nắng mặt trời sau đó đem về dùng máy cán thành sợi. Sau khi cán sợi miến được phơi một nắng nữa để khi ăn sợi miến vừa mềm lại có độ giòn tự nhiên, sợi đẹp, mùi thơm.
Ngoài nghề làm miến, thôn Phượng nổi tiếng với nghề làm bánh đa. Đây là bánh đa theo chiếc chứ không phải miến bánh đa để nấu. Người làng chọn loại gạo tẻ ngon đem ngâm từ 12 đến 13 tiếng sau đó đem xay 2 lần bằng máy xay bột để được một thứ bột nhuyễn mịn, lọc hết bụi bẩn, sờ vào mát da tay. Sau đó cho bột nở vào với lượng phù hợp, luyện cho nhuyễn rồi đem đi tráng bánh. Khâu tráng bánh thường dành cho những người khéo tay vì tráng bánh phải nhẹ tay, đều phụ gia (vừng), bánh phẳng, có đường kính tầm 40 cm. Bánh sau đó được đem phơi hai nắng cho khô kiệt. Khâu cuối cùng là đem quạt trên than hoa để tạo hình dáng cho bánh. Những chiếc bánh ra lò đều đặn, không méo mó lại rất giòn, vị béo bùi của vừng rang lại thơm phức, hấp dẫn.
Thị trường tiêu thụ miến, bánh đa của làng đã lan rộng từ Hà Nội, Thái Bình, Hải Phòng, Sơn La,... cho tới một số tỉnh phía Nam. Bạn đi dọc tỉnh lộ từ phía thành phố Nam Định khoảng gần 20 km hỏi về thôn Phượng, xã Nam Dương, người dân sẽ chỉ đường cho bạn.

Làng nghề cây cảnh Vị Khê
Ở Vị Khê, quất rất nhiều, thế cây lại đẹp, cứ mỗi độ xuân về quất ở đây được đưa đi đến mọi miền đất nước. Ngoài ra làng còn có nhiều loại hoa như phong lan, hồng trà, hải đường, đỗ quyên, thược dược, lay ơn,... Các loại cây cảnh nổi tiếng ở đây là : Vạn Tuế, Sanh , Si, Tùng La Hán, cau Vua,... Cây được uốn thành nhiều dạng, các tác phẩm tiêu biểu như tháp Effel, tháp Phổ Minh, chim Phượng Hoàng, chim Công,... luôn làm các du khách thích thú, ngỡ ngàng trước những sáng tạo, sự tài hoa của các nghệ nhân.

Làng nghề nón lá Nghĩa Châu

Làng nghề nấu rượu Kiên Lao

Làng tơ Cổ Chất
Đi 21 km theo đường Quốc lộ 21 từ thành phố Nam Định khoảng hơn 20 km là bạn đã có thể tìm đến làng tơ Cổ Chất, tản bộ bên bãi dâu ven bờ sông Ninh Cơ, nghe tiếng gió vi vu, và ngắm nhìn làng tơ hầu như chỉ có hai màu vàng trắng óng ả.


Làng nghề đúc đồng Tống Xá

Làng nghề nước mắm Sa Châu
Cá nhỏ và tép moi tươi ngon được lựa chọn kĩ để làm nguyên liệu. Mùa xuân sẽ dùng cá cá nục, mùa đông thì cá cơm vì trong khoảng thời gian này chúng béo nhất, mắm sẽ không bị đắng. Muối dùng để ướp cá là muối cũ để muối đã hết vị chát, mười tám cân muối đủ để ướp cho một tấn cá. Để cá chín ngấu tự nhiên, sau sáu tháng sẽ đưa ra lọc bằng vải xô đặt trên rổ tre để lọc ra nước mắm nguyên chất. Mắm được "nấu sương, nắng, gió" chứ không nấu lửa. Mắm sau khi lọc ra để phơi ngoài trời nắng cũng như sương đêm sáu tháng nữa những nhất quyết phải tránh mưa cho mắm. Sau sáu tháng này, mắm được rót vào chum đen, chôn ủ trong lòng đất ít nhất một năm mới đem ra dùng.
Mắm làng Gòi sánh như mật ong, trong tựa hổ phách, hương thơm, vị mặn ngọt dù ăn với cơm trắng cũng thấy ấm lòng.

Làng nghề sơn mài Cát Đằng
Làng nằm giữa hai tuyến đường sắt và đường bộ xuyên Việt nên bạn đi dọc tuyến đường này về đến đoạn Nam Định hỏi thăm làng sơn mài Cát Đằng là tới.

Làng nghề làm phở
Không chỉ ở Nam Định, ngay tại Hà Nội cũng có thể dễ dàng tìm thấy quán phở đề biển "Phở gia truyền Nam Định". Tại sao phở Nam Định lại có sức hút đến thế, cùng tìm hiểu nào.
Tại xã Đồng Sơn, huyện Nam Trực có đến tận 3 làng nghề làm phở, đó là: làng Vân Cù, làng Tây Lạc và làng Giao Cù. Đến đây bạn hỏi họ Cồ, họ Vũ làm phở ai cũng biết. Ở đây làm phở là lâu đời nhất, nhiều nhất và món phở bò cũng là độc nhất vô nhị. Người ta chọn loại gạo đã hết nhựa từ mùa trước sau đó đem nghiền được thứ bột vừa trắng vừa dai, đem tráng mỏng trên nồi hơi nước đun bằng than củi để được bánh phở. Thịt bò phải lấy từ con bò đã trưởng thành, to khỏe, trọng lượng trong khoảng 3 đến 4 tạ một con thì nước dùng mới ngọt. Độ ngon của phở phụ thuộc lớn vào độ ngọt của nước dùng. Muối được dùng rất ít vì nó khiến phở có vị mặn chát, người ta thay thế muối bằng nước mắm. Nước mắm được lựa chọn kỹ vì nếu nước mắm không ngon thì nước phở sẽ vẩn đục cũng như bớt ngon đi một chút. Nồi xương hầm nhừ để lấy nước dùng phải thêm một ít gừng và hành khô. Thịt bò tươi sống được rửa thật sạch rồi đem đi luộc. Nếu nước luộc nổi bọt thì vớt ngay bọt đi. Sau khi thịt chín thì để thịt trong nồi một giờ đồng hồ mới vớt ra cho ráo nước. Thịt được thái và ướp gia vị dùng chung với bánh phở và nước dùng,...
Phở Cồ tức phở của dòng họ Cồ là nổi tiếng nhất nhưng ở Đồng Sơn các họ khác nấu phở cũng rất khéo, góp phần xây dựng và gìn giữ thương hiệu phở gia truyền Nam Định.
