Isaac Newton là thầy giáo của mọi nhà vật lí, Khổng Tử được hàng ngàn tín đồ Nho giáo tôn làm sư, Bill Gates được coi là người thầy giáo vĩ đại của công nghệ,…Lịch sử thế giới này tồn tại rất nhiều thầy giáo vĩ đại, lỗi lạc. Song, khi mà ngày Nhà giáo Việt Nam đến gần, người ta không thể không nhắc đến những người thầy vĩ đại của lịch sử Việt Nam. Đó là những nhà giáo nào, hãy cùng toplist khám phá ngay bài viết dưới đây nhé.
Văn Như Cương (1937 – 2017)
Văn Như Cương (01/07/1937 – 09/10/2017) là một nhà giáo Việt Nam, nhà biên soạn sách giáo khoa phổ thông và giáo trình đại học bộ môn hình học, Ủy viên Hội đồng giáo dục quốc gia Việt Nam. Ông là một Tiến sĩ toán học (bảo vệ thành công luận án tiến sĩ năm 1971 tại Liên bang Xô Viết) được phong hàm Phó giáo sư.
Ông là người thành lập và hiệu trưởng (1989 – 2014) trường dân lập đầu tiên tại Việt Nam- là trường trung học phổ thông Lương Thế Vinh, Hà Nội.
Thầy Văn Như Cương là người thầy lớn, người anh cả, người ông, người cha, người bạn của nhiều thế hệ giáo viên và học sinh. Trọn vẹn cuộc đời thầy cống hiến cho sự nghiệp giáo dục, ươm mầm những thế hệ tương lai của đất nước vừa hồng vừa chuyên, vừa có kiến thức tốt vừa có nhân cách tốt. Thầy đã để lại cho thế hệ sau nhiều di sản trong chuyên môn, tư tưởng, phương pháp giáo dục. Trong ký ức của hàng chục thế hệ học sinh, hình ảnh thầy Văn Như Cương hiện lên như một ông tiên giữa đời thực, cương nghị, thẳng thắn, nghiêm khắc nhưng đầy bao dung, nhân hậu và đầy lòng vị tha.
Năm 1989, thầy Văn Như Cương là người đặt những viên gạch đầu tiên cho giáo dục ngoài công lập Việt Nam, là người tiên phong mở đường xây dựng hệ thống giáo dục tư thục – nơi đề cao giáo dục dân chủ với tinh thần độc lập và tư duy phản biện, nơi đề cao nhân cách con người hơn kiến thức sách vở, nơi mà học sinh được học làm người tử tế trước khi học để thành công trên đường đời.
Chu Văn An (1292 - 1370)
Chu Văn An (1292 - 1370) còn được gọi là Chu An, Chu Văn Trinh, tự là Linh Triệt, hiệu là Tiều Ẩn, người thôn Văn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm (nay là Thanh Trì), Hà Nội. Nguyên là quan lớn trong triều đình, có lần ông dâng “Thất trảm sớ”, yêu cầu vua Trần Dụ Tông chém đầu bảy tên gian thần song bị vua từ chối, Chu Văn An về ở ẩn gần núi Phượng Hoàng, Chí Linh, Hải Dương, làm một thầy giáo truyền thụ kiến thức cho đến khi mất.
Ông được coi là người thầy "chuẩn mực" muôn đời của người Việt, sinh thời, Chu Văn An luôn được người đời thán phục vì phẩm chất thanh cao cũng như tài năng lỗi lạc của mình. Ông nổi tiếng là một người thầy nghiêm nghị và gương mẫu, học trò của ông dù đã đỗ đạt, có chức tước cao, có địa vị nhưng vẫn phải kính nể, nghiêng mình trước ông, với ông đạo thầy trò là vô cùng quan trọng.
Phan Bội Châu (1867–1940)
Phan Bội Châu vốn tên là Phan Văn San. Vì San trùng với tên húy vua Duy Tân (Vĩnh San) nên phải đổi thành Phan Bội Châu. Từ nhỏ ông đã có lòng yêu nước, sớm ông mộng khoa cử để làm quan giúp nước nhà. Khoa thi năm Đinh Dậu (1897) ông đã lọt vào trường nhì nhưng bạn ông là Trần Văn Lương đã cho vào tráp mấy cuốn sách nhưng ông không hề biết nên ông bị khép tội hoài hiệp văn tự (mang văn tự trong áo) nên bị kết án chung thân bất đắc ứng thí (suốt đời không được dự thi).
Sau cái án này, Phan Bội Châu vào Huế dạy học, do mến tài ông nên các quan đã xin vua Thành Thái xóa án. Nhờ vậy, ngay khoa thi hương tiếp theo, năm Canh Tý (1900), ông đã đậu đầu (Giải nguyên) ở trường thi Nghệ An. Khi đất nước bị Pháp xâm lược ông đã đề ra nhiều kế hoạch cứu nước như phong trào Đông Du nhưng thất bại.
Lê Quý Đôn (1726 – 1784)
Từng đỗ đầu ba kỳ thi, Lê Quý Đôn phê phán lối học phục vụ thi cử, đề cao việc "học là để hành". Lê Quý Đôn, nguyên là Lê Danh Phương, sinh năm 1726 trong một gia đình khoa bảng tại làng Diên Hà, huyện Diên Hà, trấn Sơn Nam, nay thuộc xã Độc Lập, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Ông là con cả của tiến sĩ Lê Phú Thứ (sau đổi thành Lê Trọng Thứ) - người từng làm đến chức Hình bộ Thượng thư. Mẹ ông là con gái một tiến sĩ từng trải qua nhiều chức quan.
Từ nhỏ, Lê Quý Đôn nổi tiếng là thần đồng ham học, thông minh, có trí nhớ siêu đẳng. Người đương thời khuyên nhau "Thiên hạ vô tri vấn Bảng Đôn", tức là thiên hạ có điều gì không biết thì cứ đến hỏi Lê Quý Đôn. Họ thường gọi ông là "túi khôn của thời đại", nhà bác học lớn của Việt Nam trong thời phong kiến.
Nhà giáo Lê Quý Đôn có kiến thức uyên thâm, tài trí hơn người. Lê Quý Đôn đã để lại nhiều bộ sách có giá trị ở nhiều thể loại khác nhau như lịch sử, địa lý, thơ văn, lý số…
Lê Quý Đôn còn là một nhà nho, nhà giáo nổi tiếng Việt Nam về tài năng và đức độ. Qua bàn tay dạy dỗ với những bài học về kiến thức, đạo đức làm người, học trò của ông có rất nhiều người đã thành tài và giữ chức vụ quan lớn trong triều đình như Bùi Huy Bích, Bùi Bích Tựu…
Nguyễn Đình Chiểu (1822 – 1888)
Nguyễn Đình Chiểu, tục gọi là Đồ Chiểu (khi dạy học), tự Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai (sau khi bị mù). là nhà thơ lớn nhất của miền Nam Việt Nam trong nửa cuối thế kỷ 19.
Vốn xuất thân từ một gia đình nhà nho, với bản tính hiếu học ông quyết tâm theo nghiệp khoa cử, tuy nhiên trong một lần lên kinh ứng thí ông nghe tin mẹ mất liền bỏ thi, về chịu tang mẹ, trên đường đi vì quá tiếc thương ông đã khóc rất nhiều đến nỗi lâm bệnh nặng và vướng vào cảnh mù lòa. Từ đây cuộc sống của ông gặp nhiều tai ương, mộng khoa cử không thành, lâm âm cảnh đui mù, hôn thê bội ước, cửa nhà sa sút... Nguyễn Đình Chiểu đóng cửa chịu tang mẹ cho đến năm 1851, thì mở trường dạy học và làm thuốc ở Bình Vi (Gia Định).
Nhà giáo Nguyễn Ngọc Ký
Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói: "Thầy giáo Nguyễn Ngọc Ký là đại diện cho sự phấn đấu phi thường và kỳ diệu, là tấm gương sáng cho các bạn trẻ hôm nay, nhất là những người khuyết tật noi theo".
Trải qua nhiều khó khăn, vất vả thời đi học rồi đi dạy, ngày 20.11.1992, Nhà giáo Nguyễn Ngọc Ký là nhà giáo viết bằng chân đầu tiên được nhận danh hiệu Nhà giáo ưu tú. Cuộc đời của ông tưởng chừng như êm xuôi, nhưng bệnh tật vẫn luôn thách thức. Năm 1993, sau khi đến TP HCM chữa bệnh viêm cầu thận, sức khoẻ của ông suy giảm trầm trọng. Từ năm 1994 - 2005, ông được phân công nhiệm vụ dự giờ bài giảng của giáo viên, chép lại, tổng hợp, rút kinh nghiệm, rồi đóng góp ý kiến.
Công việc hàng ngày của ông là đến các trường cấp 2 nghe giáo viên giảng bài, rồi ngồi cuối lớp chép lại những ý tưởng. Về nhà, ông ngồi bệt ra giữa nhà viết lại, nhiều ngày phải viết thâu đêm. Chuyên đề góp ý của ông trở thành những bài lý luận từ thực tiễn rất xuất sắc.
Hoàng Xuân Hãn (1908-1996)
Thầy là người làng Yên Hồ, huyện La Sơn (nay là huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh). Thầy Hoàng Xuân Hãn là một trường hợp đặc biệt, là một nhà khoa học giáo dục xuất sắc.
Ông là một nhà khoa học có trình độ cổ văn xuất sắc, ông nắm vững chữ Hán, chữ Nôm và đầu tư nghiên cứu văn học, sử học. Hoàng Xuân Hãn là người đầu tiên sưu tập và gìn giữ được bút tích của vua Quang Trung. Vì thế, người ta mới biết rằng Chinh phụ ngâm có 7 bản dịch.
Công lao của Hoàng Xuân Hãn là đã sưu tầm được đầy đủ hồ sơ về cuộc kháng chiến chống Tống của Lý Thường Kiệt với rất nhiều số liệu, sự kiện. Đặc biệt, thầy còn nghiên cứu nhiều về Hồ Xuân Hương, về truyện Song Tinh, về Nguyễn Biểu, về cố Điện... được giới khoa học đánh giá cao.
Những đối tượng nghiên cứu của ông được nhìn nhận bằng con mắt khoa học chứ không phải bằng cái nhìn của quan điểm chủ quan. Trong cuốn “Thầy giáo Việt Nam mười thế kỷ” học giả Vũ Ngọc Khánh đã nhận xét: “... Hôm nay, ngày mai, dù ta có chỗ đứng như thế nào thì đọc Hoàng Xuân Hãn đều có thể yên tâm được”.
Nguyễn Tất Thành (1890-1969)
Nguyễn Tất Thành là tên gọi khi còn trẻ của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Trước khi sang Pháp tìm đường cứu nước và sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, người dạy chữ Hán và chữ Quốc ngữ cho học sinh lớp ba và tư tại trường Dục Thanh của Hội Liên Thành.
Nguyễn Tất Thành thường gặp gỡ một số nhà nho yêu nước đương thời, tham gia công tác bí mật, nhận công việc liên lạc. Nguyễn Tất Thành đã có chí đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào.
Nguyễn Tất Thành là một trong những người đặt nền móng và lãnh đạo công cuộc đấu tranh giành độc lập, toàn vẹn lãnh thổ cho Việt Nam trong thế kỷ 20, một chiến sĩ cộng sản quốc tế. Người còn là người Thầy tận tình chỉ bảo, đào tạo nên những chiến sĩ cộng sản xuất sắc và có nhiều tác phẩm văn học xuất sắc.
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585)
Nhà giáo Nguyễn Bỉnh Khiêm tự là Hạnh Phủ, hiệu là Bạch Vân cư sĩ hay còn được biết đến với cái tên quen thuộc là Trạng Trình. Sinh thời, ông nổi tiếng là người cương trực, học rộng hiểu sâu, có tài dự báo, hoạch định chiến lược. Sau này, dưới thời vua Mạc Đăng Doanh, ông đỗ Trạng nguyên và quyết định phò vua giúp nước.
Song vì không chịu được những điều thị phi, ông dâng sớ hạch tội 18 tên gian thần nhưng bị từ chối. Sau đó, ông cũng từ quan về ở ẩn, trở thành một nhà giáo lỗi lạc, được học trò suy tôn là Phu tử, đó là Tuyết Giang Phu tử. Học trò của ông trong thời điểm này có những người rất nổi tiếng như Nguyễn Dữ, Phùng Khắc Khoan…
Đào Văn Tiến (1920-1995)
Giáo sư, Nhà giáo nhân dân Đào Văn Tiến (23 tháng 8 năm 1920 - 3 tháng 5 năm 1995) là nhà sinh học Việt Nam, đặc biệt có nhiều công trình trong lĩnh vực động vật học. Ông được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học công nghệ đợt I (1996).
Giáo sư Đào Văn Tiến sinh ra trong một gia đình nhà Nho tại thành phố Nam Định. Sau khi học xong tiểu học ở Nam Định, ông ra học Trung học ở Hà Nội rồi thi đậu vào trường Đại học khoa học Đông Dương.
Năm 1946, sau khi Toàn quốc kháng chiến bùng nổ, ông lên chiến khu Việt Bắc, phục vụ trong Cục quân y và tham gia giảng dạy ở Trường quân y sĩ. Năm 1951, ông giảng dạy tại Trường Khoa học cơ bản và Sư phạm Cao cấp Trung ương ở Tuyên Quang, về sau di chuyển lên Nam Ninh, Trung Quốc. Năm 1954, sau khi miền Bắc giải phóng, Trường Đại học Sư phạm Khoa học được thành lập tại Hà Nội. Ông trở về giảng dạy tại Khoa khoa học tự nhiên. Năm 1956 Trường Đại học Sư phạm Khoa học tách thành 2 trường: Trường Đại học Sư phạm Hà Nội và Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, ông tiếp tục giảng dạy, trở thành chủ nhiệm Khoa sinh học của Trường Đại học Tổng hợp (nay là Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội)). Ông còn giảng dạy tại Đại học Y Hà Nội.
Ông là Chủ tịch danh dự Hội Sinh học Việt Nam, Uỷ viên ban nghiên cứu nghề cá miền Tây Thái Bình Dương (1956-1966), Ủy viên Ủy ban Quốc tế nghiên cứu động vật có vú, uỷ viên Hội đồng nghiên cứu thú quốc tế (ITG), hội viên danh dự Hội nghiên cứu thú Liên Xô.
Lê Thước (1891 -1975)
Thầy Lê Thước sinh ra ở làng Trung Lễ, xã Ngu Lâm, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Gia đình ông có truyền thống nổi tiếng về văn học lẫn võ nghiệp như Lê Văn Huân, Lê Minh, Lê Nghệ, Lê Võ, Lê Trực... Xuất thân ở cái nôi văn hoá, cái nôi cách mạng, cậu bé Lê Thước sớm được tạo điều kiện để học hành và có được tài năng xuất sắc khi ngồi ghế nhà trường.
Năm 27 tuổi ông đỗ đầu kỳ thi Hương và được mời làm quan. Tuy nhiên Lê Thước đã từ chối quan trường để tiếp tục dấn thân vào sự học. Năm 30 tuổi ông tốt nghiệp ban văn học trường Cao đẳng Sư phạm với bản luận văn “Việc học chữ Hán ở Việt Nam”.
Nhà giáo Lê Thước còn là một nhà văn hoá, một nhà nghiên cứu, nhà hoạt động xã hội tích cực. Ông có các tác phẩm như “Truyện cụ Nguyễn Du” (viết chung với Phan Sỹ Bàng), “Sự nghiệp và thơ văn của Uy Viễn tướng công Nguyễn Công Trứ”. Cuộc đời của thầy Lê Thước đã để lại cho đời nhiều thành tựu là niềm cảm hứng của thế hệ học trò tiếp tục phát huy tư tưởng của thầy để làm rạng danh sự nghiệp giáo dục Việt Nam.
Cao Bá Quát (1809-1854)
Cao Bá Quát tự là Chu Thần, hiệu là Cúc Đường, biệt hiệu là Mẫn Hiên. Từ nhỏ ông đã nổi tiếng thông minh, tài giỏi, hiếu học dù hoàn cảnh sống vô cùng khốn khó. Tuy vậy, nghiệp khoa cử của ông thiếu may mắn, mấy lần khăn gói vào Huế thi đều bị hỏng, nên mộng khoa cử đã tan. Năm 32 tuổi, lần đầu ông được bổ làm một chức quan nhỏ (Hành tẩu Bộ Lễ). Ở đây, ông bắt đầu cảm thấy nhụt chí và bế tắc khi nhìn thấy cảnh thối nát, bất công và hèn yếu của nhà Nguyễn. Đến khi bị tù, bị tra tấn vì chữa những quyển thi, ông càng đau khổ, uất ức và căm thù cái triều đình ấy.
Với tư cách thầy giáo, Cao Bá Quát cũng là người khá nổi tiếng. Cả trong thời gian làm giáo thụ ở Quốc Oai cũng như trong những thời gian khác ông đều rất quan tâm đến việc đào tạo nhân tài. Trong việc giảng dạy, ông chú trọng việc đưa học trò đi thăm thú non sông, dân tình, ông cũng hay dùng những tư liệu trong ngôn ngữ nước nhà, trong các mối quan hệ xã hội để truyền thụ cho học sinh.
Đặng Thai Mai (1902-1984)
Xuất thân từ một gia đình nho học, cách mạng, ông là con cụ phó bảng Đặng Nguyên Cẩn, huyện Thanh Chương (Nghệ An) nên tiếp thu được nền học vấn sâu rộng. Ông đã tham gia Đảng Tân Việt, rồi Đảng Cộng sản Đông Dương, hoạt động báo chí công khai rất sôi nổi, sớm được giới trí thức công nhận và tôn vinh, ông đã từng là Chủ tịch uỷ ban kháng chiến tỉnh Thanh Hoá, đại biểu Quốc hội.
Đặng Thai Mai (1902-1984), còn được biết đến dưới tên gọi Đặng Thái Mai và những bút danh Thanh Tuyền, Thanh Bình. Đặng Thai Mai là giáo sư, nhà giáo, nhà văn, nhà phê bình văn học Việt Nam; và nguyên là Bộ trưởng Bộ Giáo dục, Viện trưởng đầu tiên của Viện Văn học Việt Nam.
Đặng Thai Mai có vốn nho học uyên thâm và am hiểu văn học cổ điển Pháp, văn học hiện đại Trung Quốc, văn học cận đại Việt Nam. Năm 1982, ông được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh. Năm 1996, ông lại được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh (đợt I) về các công trình nghiên cứu văn học Việt Nam và văn học thế giới.
Lê Văn Thiêm (1918-1991)
Thầy giáo Lê Văn Thiêm quê ở huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, nổi tiếng là một học trò rất thông minh. Ông từng đỗ tú tài toàn phần và được nhận vào học tại trường Đại học Đông Dương.
Giáo sư Lê Văn Thiêm nổi tiếng vì ông gắn liền với rất nhiều cái “đầu tiên”. Là người Việt Nam đầu tiên thi đỗ vào trường Ecole Normale Superieure de Paris - trường hàng đầu trong việc đào tạo các nhà khoa học ở Pháp. Là nhà khoa học Việt Nam đầu tiên đạt được học vị Tiến sỹ quốc gia (học vị cao nhất ở Pháp). Là người Việt Nam đầu tiên trở thành giáo sư toán học tại một trường Đại học Châu Âu.
Là người đầu tiên trở thành Chủ tịch Hội toán học Việt Nam, Viện trưởng đầu tiên của Viện Toán học Việt Nam. Là Tổng biên tập đầu tiên của hai tờ báo Toán học Việt Nam là Vietnam Jaurnal of Mathematies và Acta Mathematica Vietnamica...
Giải thưởng Hồ Chí Minh, Huân chương độc lập hạng nhất cùng với các giải thưởng dành cho ông là minh chứng xứng đáng cho điều đó.
“La Sơn Phu Tử’ Nguyễn Thiếp (1723 – 1804)
Nguyễn Thiếp sinh ngày 25 tháng 8 năm Quý Mão, niên hiệu Bảo Thái thứ 4 (1723), đời vua Lê Dụ Tông (1705-1729), tại Mật thôn, ông vốn có tên húy là Minh, tự là Quang Thiếp, sau vì kiêng húy vua chúa nên đổi là Thiếp. Cùng với Nguyễn Bình Khiêm, Nguyễn Thiếp được học trò tôn là "Phu tử". Với tư chất thông minh, được dạy dỗ từ nhỏ, những điều kiện đủ để Nguyễn Thiếp trở nên một người hay chữ và hiển đạt về sau
Nhưng Nguyễn Thiếp không thích lối sống khuôn sáo, bó buộc thường tình, mà ngoặt sang lối rẽ khác, thực hiện chí của riêng mình theo lẽ xuất, xử của nhà Nho. Năm 21 tuổi, Nguyễn Thiếp đỗ Hương giải, con đường công danh trước mắt rộng thênh thang, vậy mà không hiểu vì sao ông lại dứt con đường cử nghiệp, chuyển sang ẩn dật. Sau này, Nguyễn Thiếp bất đắc dĩ phải ra làm quan để "để nuôi mẹ già báo đáp đạo hiếu" nhưng cũng từ đó ông tham gia vào việc chấn hưng việc học bị đình đốn sau nhiều năm loạn lạc, ông đưa ra nhiều chủ trương mới nhưng không được chấp nhận. Sau 13 năm làm quan, vì quá chán nản, ông lui về ở ẩn.
La Sơn phu tử, bậc trượng phu, tuy đã mất cách ngày nay đã hơn 200 năm, nhưng danh tiếng của Phu tử vẫn mãi mãi được kính trọng. Bởi Phu tử luôn giữ được khí chất thanh cao của một nhà Nho - một người thầy, xuất xử không những hợp với thời mà còn hợp lẽ đời, luôn hướng đến ích Quốc, lợi dân. Phu tử còn là tấm gương hiếu học - học không biết mỏi và dạy không biết chán. Trong những năm tháng sống ẩn dật trên núi Bùi Phong, Phu tử đã dạy được nhiều lớp học trò thành đạt, đem lại sự giáo hóa và muốn thay đổi học phong cho cả một thời Tây Sơn.