Từ thưở sơ khai, nghệ thuật đã là một phần không thể thiếu của đời sống tinh thần. Thế giới đã trải qua nhiều thời kì nghệ thuật với nhiều phong cách khác nhau và vô số các kiệt tác nghệ thuật đã ra đời. Cùng điểm qua các tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng nhất thế giới nhé!
Bức tranh Starry Night (Đêm Đầy Sao) – Vincent van Gogh
Trong một bức thư gửi Emile Bernard vào tháng 4 năm 1888, Van Gogh bộc lộ mong muốn vẽ bầu trời về đêm, và hỏi rằng liệu ông có thể đạt được điều đó bằng cách vẽ thiên nhiên như các họa sĩ Trường phái ấn tượng. Tháng 9 năm 1888, trước khi bị suy nhược và phải nhập viện ở Arles vào tháng 12, Van Gogh đã vẽ Đêm đầy sao trên sông Rhone vào ban đêm dưới ánh đèn gas.
Tháng 5 năm 1889, Van Gogh quyết định vào nhà thương điên Saint-Rémy, nơi ông sống trong suốt năm tiếp theo. Trong thời gian ở đây ông đã vẽ rất nhiều, cho dù bị gián đoạn bởi những lần lên cơn. Được gợi hứng từ cảnh vật xung quanh nhà thương điên, ông vẽ Đêm đầy sao vào tháng 6 năm 1889. Khác với Đêm đầy sao trên sông Rhone, bức tranh này được vẽ vào ban ngày qua trí nhớ. Giữa tháng 9 năm 1889, sau một cuộc khủng hoảng nặng nề bắt đầu từ giữa tháng 7 cho đến hết tháng 8, ông nghĩ là sẽ bao gồm Đêm đầy sao trong lô tác phẩm tiếp theo được gửi cho em trai ông, Theo ở Paris. Nhằm giảm chi phí vận chuyển, ông giữ lại ba tác phẩm, trong đó có Đêm đầy sao. Chúng được gửi tới Paris trong lần chuyển hàng tiếp theo. Khi Theo không báo tin ngay lập tức rằng bức tranh đã tới nơi, Vincent hỏi thăm một lần nữa và cuối cùng đã nhận được lời nhận xét của Theo về tác phẩm.
Đêm đầy sao (tiếng Hà Lan: De sterrennacht) là một bức tranh của họa sĩ hậu ấn tượng người Hà Lan Vincent van Gogh. Được vẽ vào tháng 6 năm 1889, bức tranh miêu tả khung cảnh bên ngoài cửa sổ phòng bệnh của ông ở Saint-Rémy-de-Provence, miền Nam nước Pháp về đêm, mặc dù ông đã vẽ bức tranh vào ban ngày qua trí nhớ. Đêm đầy sao nằm trong bộ sưu tập của Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại ở thành phố New York, một phần trong Di vật của Lillie P. Bliss, từ năm 1941. Bức tranh là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của van Gogh, đánh dấu bước ngoặt mang tính quyết định chuyển sang sự tự do sáng tạo to lớn hơn trong nghệ thuật của ông.
Tượng Aphrodite Of Milo (Thần Vệ Nữ Thành Milo)
Thần Vệ Nữ Thành Milo là tác phẩm điêu khắc Hy Lạp không rõ tác giả được tạc vào khoảng năm 130 đến 100 trước công nguyên. Bức tượng thể hiện hình ảnh nàng Aphrodite, nữ thần của tình yêu và sắc đẹp. Bức tượng được tìm thấy năm 1820 trên đảo Milo, Hy Lạp. Tuy nhiên, phần tay và một phần bệ tượng đã không còn. Tác phẩm được coi là tác phẩm điêu khắc cổ đại đẹp nhất còn tồn tại đến ngày nay và đang được trưng bày tại bảo tàng Louvre, Pháp.
Tượng có niên đại khoảng năm 130 TCN. Dù niên đại này khá muộn, nó tổng hợp các phong cách điêu khắc cổ điển Hy Lạp. Hiện vẫn chưa biết chính xác bức tượng này, theo nguyên bản, thể hiện khía cạnh nào của thần Vệ nữ. Thông thường mọi người cho rằng tượng khắc hoạ Venus Victrix đang giữ một quả táo vàng do Paris thành Troia đưa (xem thêm Sự phán xử của Paris). Đây cũng có thể là nguồn gốc cách đặt tên kiểu chơi chữ hòn đảo Milos, có nghĩa là "quả táo" trong tiếng Hy Lạp. Một mảnh của cánh tay với quả táo đã được tìm thấy gần bức tượng và được cho là cánh tay nguyên bản của tượng. Sau khi bức tượng được tìm thấy, nhiều người đã tìm cách khôi phục dáng bộ nguyên thuỷ, dù vậy vẫn chưa mang lại thành công. (Một bản vẽ của Adolf Furtwängler về đề xuất dáng vẻ nguyên thủy của bức tượng có trong một bài viết của Kousser.)
Bức tranh Mona Lisa – Leonardo da Vinci
Không có tác phẩm nào xứng đáng đứng ở vị trí thứ nhất hơn bức tranh nàng Mona Lisa của danh dọa Leonardo da Vinci. Bức tranh là chân dung được vẽ bằng sơn dầu của nàng Mona Lisa, vợ của một thương nhân buôn bán tơ lụa ở Florence, Ý. Tương truyền, bức tranh được Leona Da Vinci vẽ từ năm 1503.
Bức tranh là một bức chân dung nửa người và thể hiện một phụ nữ có những nét thể hiện trên khuôn mặt thường được miêu tả là bí ẩn. Sự mơ hồ trong nét thể hiện của người mẫu, sự lạ thường của thành phần nửa khuôn mặt, và sự huyền ảo của các kiểu mẫu hình thức và không khí hư ảo là những tính chất mới lạ góp phần vào sức mê hoặc của bức tranh. Có lẽ nó là bức tranh nổi tiếng nhất từng bị đánh cắp và được thu hồi về bảo tàng Louvre. Ít tác phẩm nghệ thuật khác từng là chủ đề của nhiều sự chăm sóc kỹ lưỡng, nghiên cứu, thần thoại hoá và bắt chước tới như vậy. Một sự nghiên cứu và vẽ thử bằng chì than và graphite về Mona Lisa được cho là của Leonardo có trong Bộ sưu tập Hyde, tại Glens Falls, NY.
Đằng sau kiệt tác này là hàng loạt những bí ẩn (ví như vì sao nàng không có lông mày, khuôn mặt nàng trong tranh đang cười hay không, những mật mã trong ánh mắt…). Vẻ bí ẩn, mơ hồ của nàng Mona Lisa trong bức tranh đã trở thành đề tài phân tích, tranh luận trong hàng trăm năm của các nhà khoa học, nghệ thuật đến nhà tâm lý học. Bức họa Mona Lisa đang được bảo tồn và trưng bày tại bảo tàng Louvre, Pháp. Ước tính mỗi năm có khoảng 6 triệu người chiêm ngưỡng kiệt tác này.
Bức tranh The Scream (Tiếng Thét) – Edvard Munch
Tiếng thét (tiếng Na Uy: Skrik) là tên của một trong bốn bản sáng tác, dưới dạng tranh vẽ và in trên đá theo trường phái biểu hiện của danh họa người Na Uy Edvard Munch vào khoảng năm 1893 và 1910. Tất cả các bức họa đều vẽ một nhân vật đầy âu lo tuyệt vọng tương phản với phong cảnh hòa cùng bầu trời đỏ. Họa sĩ không chú tâm mô tả cái mình nhìn thấy, ghét sự hời hợt của tình cảm. Chủ đích của ông là biểu hiện mạnh nhất, nhanh nhất tình cảm mạnh mẽ, tức thời của mình. Thế nên tranh nghiêng ngả, không cân bằng, nét vung mạnh mẽ, chói gắt. Phong cảnh nền trong bức tranh thuộc thành phố Oslofjord, nhìn từ Ekeberg, Oslo.
Edvard Munch tạo ra bốn bản của Tiếng thét trên các chất liệu khác nhau. Phòng trưng bày quốc gia Na Uy ở Oslo giữ một trong hai bức họa vẽ bằng thuốc màu (năm 1893, là bức tranh ở bên phải). Viện bảo tàng Munch giữ một bản khác (bản năm 1910) và một bản phấn màu. Bản thứ tư (phấn màu, năm 1895) được một người mua với trị giá 119.922.500 đôla tại cuộc bán đấu giá Mỹ thuật Ấn tượng và Hiện đại do tập đoàn Sotheby's tổ chức vào ngày 2 tháng 5 năm 2012, là bức tranh có mức giá danh định cao nhất từ trước đến nay trong một cuộc đấu giá. Bức tranh Những Người Chơi Bài của danh họa Paul Cézanne được bán bí mật vào năm 2011 với trị giá hơn 250 triệu đô la.
Tiếng thét từng là mục tiêu của các kẻ trộm tranh chuyên nghiệp. Vào năm 1994, bản đặt tại phòng trưng bày quốc gia ở Oslo đã từng bị đánh cắp nhưng nó đã được thu lại sau vài tháng kể từ khi bị đánh cắp. Vào năm 2004, hai bức tranh gồm Tiếng thét và Madonna đã bị trộm từ viện bảo tàng Munch và đã được thu hồi hai năm sau đó.
Tượng David - Michelangelo
Tượng David là một bức tượng do Michelangelo điêu khắc từ năm 1501 đến 1504, là một kiệt tác của nghệ thuật điêu khắc thời Phục Hưng và là một trong hai tác phẩm điêu khắc vĩ đại nhất của Michelangelo (cùng với Pietà). Riêng tượng David hầu như chắc chắn giữ danh hiệu bức tượng được công nhận nhất trong lịch sử nghệ thuật. Bức tượng này đã được xem như là một biểu tượng của vẻ đẹp con người trẻ trung và sức mạnh.
Thời Phục Hưng, những người có dương vật nhỏ thường được xem là đẹp, bởi họ cho rằng dương vật lớn chỉ có ở loài thú dữ. Vì thế dương vật của David được làm nhỏ để thể hiện sự hoàn mỹ của vẻ đẹp con người theo quan niệm của thời kỳ này. Tượng cẩm thạch cao 4.34 m miêu tả Vua David theo Kinh Thánh tại thời điểm ông quyết định chiến đấu với Goliath. Nó đã là biểu tượng của Cộng hòa Fiorentina, một quốc gia thành phố bị đe dọa tứ phía bởi các cường quốc đối thủ mạnh. Bức tượng hoàn chỉnh được làm lễ vén màn vào ngày 8 tháng 9 năm 1504. Thêm nữa, một câu hỏi tới giờ vẫn chưa có lời giải đáp của các nhà khoa học là tại sao tượng David lại không được … cắt bao quy đầu trong khi vua David là người Do Thái và 100% theo tục lệ Do Thái vào lúc đó là đàn ông sẽ phải cắt bao quy đầu? Theo các nhà khoa học, lời giải đáp cũng cùng lý do với câu hỏi phía trên: tác giả đã tạc tượng theo phong cách Hy Lạp cổ mà ở Hy Lạp cổ thì việc cắt bao quy đầu không được ủng hộ.
Bức tranh The Creation Of Adam (Sự Sáng Tạo Ra Adam) – Michelangelo
Bức tranh The Creation Of Adam (Sự Sáng Tạo Ra Adam) lại là một kiệt tác nữa của danh họa Michelangelo vẽ trên trần của nhà nguyện Sistine, Vatican. Bức tranh được vẽ trong thời gian từ 1508 đến 1512, tái hiện một hình ảnh trong Kinh Thánh khi Đức Chúa tạo ra người đàn ông đầu tiên Adam.
Bức tranh là một phần trong nhiều tác phẩm được vẽ trên trần nhà nguyện, nơi tác giả khác họa một chủ đề phức tạp mang nhiều tính biểu trưng trong Kinh Thánh. Hình ảnh cái gần chạm tay của Đức Chúa và Adam được coi là biểu tượng của tính nhân văn.
‘‘Chúa tạo ra Adam’’ là một câu chuyện về việc tạo ra Adam, con người đầu tiên trên trái đất này, Chúa đã ban cho Adam một thân thể nhưng còn thiếu linh hồn và trí tuệ, trong tranh là một chiếc khăn có hình dạng giống như não bộ của con người, nó chứa hình ảnh một thiếu nữ và những đứa trẻ.Chúa ban tặng cho Adam, chính là trí tuệ và linh hồn, là sự yêu thương và duy trì giống nòi, là sự phù hợp với trạng thái xã hội. Giai đoạn này chính là câu chuyện con người khi còn nguyên sơ, vẫn mang đầy đủ tín tâm, thiện niệm, bản tính lương thiện thuần khiết ban đầu là vẻ đẹp của Chúa ban tặng.
Tượng The Thinker (Người Suy Tưởng) – Auguste Rodin
The Thinker (Người suy tưởng), tác phẩm điêu khắc nổi tiếng của nghệ sĩ Pháp thế kỷ 19 Auguste Rodin. Trong khuôn viên viện bảo tàng Rodin - Paris, gần ngay lối vào của viện bảo tàng, chễm chệ bức tượng điêu khắc vô cùng nổi tiếng của Rodin mang tựa đề Le Penseur (Người suy tưỏng). Nguyên gốc pho tượng nằm tại Paris, trong khi nhiều phiên bản khác được đặt tại các viện bảo tàng trên thế giới. Một bức tượng nữa được dựng trên mộ phần của Rodin, theo di chúc.
Cằm chống lên mu bàn tay phải, người đàn ông này gập người xuống trong nỗi dằn vặt khủng khiếp. Vóc dáng cuồn cuộn của nhân vật được Rodin lột tả tương xứng với những trằn trọc bên trong của con người này. Sức mạnh của bức tượng người đàn ông suy tưởng nằm trong cái khốc liệt của nỗi lo sợ trong tâm hồn được ghìm nén lại.
Người suy tưỏng trầm tư về điều gì? Có lẽ chỉ có tác giả của nó mới có thể cho chúng ta biết được rõ bí mật nội tâm của một trong những bức tượng bí ấn nhất của nhà điêu khắc. Theo Le Figaro, thoạt tiên, bức tượng Người suy tưởng có tên gọi Nhà thơ, là một bức tượng được sản xuất theo đơn đặt hàng của Bảo tàng nghệ thuật trang trí Paris, để đặt trên một khung cửa lớn, được dựng lên để tái hiện lại tác phẩm Hài kịch thần thánh của thi sĩ Dante. Bức tượng mang tên Nhà thơ có mục đích dựng lại hình ảnh của Dante, trước Cánh cửa địa ngục, đang suy tư về số phận của những kẻ bị kết án đày vào địa ngục, được mô tả trong trường ca của ông. Tuy nhiên, rốt cuộc, Người suy tưởng đã không tới ngồi trên khung cửa địa ngục như dự kiến. Bản gốc bức tượng cỡ 71,5 cm, được hoàn thành vào khoảng năm 1880-1882, được trưng bày lần đầu tiên tại Copenhagen năm 1888. Năm 1906, một bức tượng Người suy tưởng khổ lớn được tặng cho tòa thị chính Paris để đưa ra khánh thành tại điện Pantheon. Sự xuất hiện của bức tượng Người suy tư từng gây ra nhiều phản ứng trái chiều trong công luận Pháp.
Sự nổi tiếng của tác phẩm này có thể giải thích vì sao khi đến thăm Paris, ngoài bức tranh La Joconde (Mona Lisa) trưng bày ở cung điện Louvres, du khách còn muốn xem tận mắt bức tượng Người suy tưởng. Tượng Người Suy Tưởng là bức tượng đồng của nhà điêu khắc người Pháp Auguste Rodin. Bức tượng có kích thước tương đương người thật, thể hiện hình ảnh một người đàn ông khỏa thân đang chống cằm suy nghĩ. Toàn thân Người Suy Tưởng bị vặn xoắn trong căng thẳng thể hiện cuộc đấu tranh tư tưởng đầy khó khăn. Hình ảnh Người Suy Tưởng thường được dùng để thể hiện hình ảnh mang tính triết học.
Bức tranh The Persistence Of Memory (Sự Dai Dẳng Của Ký Ức) – Salvador Dali
Sự dai dẳng của ký ức (tên gốc tiếng Catalunya: La persistència de la memòria, tiếng Anh: The Persistence of Memory) là tác phẩm tranh sơn dầu tiêu biểu của họa sĩ người Tây Ban Nha, Salvador Dalí. Bức tranh được Dalí sáng tác năm 1931 và được trưng bày lần đầu tiên trong phòng triển lãm của Julien Levy năm 1932; đến năm 1934, tranh được đưa vào bộ sưu tập của Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại (MoMA) tại thành phố New York.
Tác phẩm thuộc trường phái siêu thực khắc họa hình ảnh của những chiếc đồng hồ quả quýt đang tan chảy, thể hiện quan điểm của Dalí về sự "mềm mại" và "cứng rắn", những yếu tố mà nhà họa sĩ đương thời bận tâm. Sử gia nghệ thuật Dawn Adès viết, "những chiếc đồng hồ là biểu trưng không rõ ràng về thuyết tương đối không gian - thời gian, là quan điểm siêu thực về sự sụp đổ các khái niệm trong một trật tự vũ trụ cố định". Adès cho rằng Dalí đang quan sát thế giới bằng việc thấm nhuần thuyết tương đối hẹp của Albert Einstein. Tuy nhiên, khi giải đáp thắc mắc trong một buổi trao đổi với nhà hóa học Ilya Prigogine, Dalí cho biết chúng không phải lấy cảm hứng từ thuyết tương đối, mà chỉ là từ những nhận biết thực tế khi ông quan sát một miếng pho mát Camembert tan chảy dưới ánh nắng.
Tượng The Discobolus Of Myron (Lực Sĩ Ném Đĩa Của Myron)
Tượng lực sĩ ném đĩa là một bức tượng kinh điển của Hy Lạp cổ đại. Bức tượng khắc họa hình ảnh người vận động viên đang thực hiện tư thế ném đĩa với một dáng vẻ hoàn hảo. Tỉ lệ cân đối của cơ bắp và biều hiện tập trung của anh đã tạo ra ấn tượng như một mũi tên đang căng trên dây cung trước khi được thả ra.
Cách đây khoảng 2.500 năm, một cuộc cách mạng trong lĩnh vực văn hóa đã xảy ra ở Hy Lạp cổ đại. Chế độ dân chủ chào đời ở Athens. Các kiệt tác bi kịch và hài kịch đầu tiên được viết nên ở đây và các bức tượng cũng được chạm khắc giống đời thực hơn trước đó.
Và điều lạ thường hơn là, hầu hết các bức tượng nói trên đều được khắc tạc trong trạng thái khỏa thân. Ngày nay, chúng ta coi các bức tượng Hy Lạp khỏa thân là điều tất yếu. Nhưng vào thời điểm ra đời các bức tượng này, người Athens đã phá vỡ một điều vô cùng cấm kỵ. Tượng lực sĩ ném đĩa là một trong những bàn sao đá cẩm thạch nổi tiếng nhất và có tỉ lệ chính xác nhất so với kiệt tác nguyên bản bằng đổng vào thế kỷ thứ 5 của nhà điêu khắc Myron. Tác phẩm điêu khắc này vô cùng nổi tiếng trong thế giới cổ đại. Các nhà phê bình La Mã thời bấy giờ đã đề cập đến Myron trong một tác phẩm có tên là Philopseudes. Trong một cuộc đối thoại giữa các nhân vật Tychiades và Pholocles, có dòng viết: “ Lực sĩ ném đĩa khắc họa hình ảnh một vận động viên nam trẻ tuổi, thể chất tuyệt đẹp bị đóng băng trong tư thế tung ra đĩa ném của mình. Mặc dù ở trong một tình cảnh khó khăn nhưng khuôn mặt và cơ thể của anh ta rất thoải mái và thư giãn một cách bất thường.”
Hiện nay tác phẩm được lưu giữ tại Palazzo Massimo của Bảo tàng quốc gia Rome, có niên đại từ thế kỷ thứ 2 và thay thế bức tượng gốc. Bên cạnh là một phiên bản khác bị thiếu đầu được tìm thấy trên đồi Esquiline vào năm 1781, được chuyển đến Đức trong nửa sau của những năm 1930 và mang về Rome vào năm 1948.
Bức tranh The Last Supper (Bữa Tiệc Cuối Cùng) – Leonardo da Vinci
Là một thiên tài toàn năng của Ý, đại danh họa Leonardo da Vinci (1452 - 1519) đã để lại cho hậu thế những họa phẩm tuyệt vời, ẩn chứa nhiều bí mật khiến mọi nhà khoa học, nghiên cứu phải điên đầu giải mã cho tới tận ngày nay. Bức họa "Bữa ăn tối cuối cùng" (The Last Supper, còn gọi là "Bữa tiệc ly") của ông ẩn chứa một câu chuyện kỳ lạ. Đó là người mẫu để vẽ chúa Jesus và Judas (một trong 12 tông đồ của chúa Jesus, về sau là kẻ phàn chúa) đến từ gương mặt của một người.
Tại sao lại có sự trùng hợp kỳ lạ này trong ý tứ diễn đạt khuôn mặt của một "thiên thần" và "ác quỷ" trong cùng một người của Leonardo da Vinci?
Chuyện là, tác phẩm này được Leonardo da Vinci bắt đầu vẽ từ năm 1495 đến năm 1498 mới hoàn thành nó. Sau khi vẽ xong gương mặt của đức chúa Jesus, người họa sĩ Leonardo da Vinci đã mất rất nhiều thời gian để tìm người mẫu hoàn hảo cho tông đồ Judas.
Ý muốn thể hiện vẻ gian ác, xảo quyệt của kẻ đã phản bội chúa, Da Vinci đã phải cất công khắp nơi đi tìm mẫu vẽ. Cuối cùng, ông cũng tìm được hình mẫu ưng ý. Điều ngạc nhiên là, hình mẫu vẽ Judas chính là hình mẫu ông từng vẽ chúa Jesus cách đó vài năm. Sự trùng hợp này ngụ ý rằng, bản chất con người là lương thiện, nhưng qua thời gian và hoàn cảnh cuộc sống, một số người vẫn có thể biến thành kẻ ác nếu không giữ gìn được bản thân.