Bắc Kạn là một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Việt Nam, giáp Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên và Tuyên Quang. Nơi đây không những có nhiều cảnh sắc sơn thủy hữu tình, di tích lịch sử nổi tiếng mà còn có các món ăn độc đáo mang đậm màu sắc con người Bắc Kạn.
Rau sắng (rau ngót rừng)
Không giống như các loại rau khác chỉ cần trồng ngày một ngày hai là được hái lá, rau sắng từ khi trồng đến khi được hái lá lần đầu tiên phải sau ít nhất là 3-5 năm, và sau 10 năm mới được thu hoạch với số lượng lớn.
Lá rau sắng dùng để nấu canh với thịt hoặc cá. Mùi vị của loại rau này rất đậm đà, chỉ cần một vài cọng cũng đã đủ để có thể nấu bát canh thơm ngon cho 4 người ăn.Theo kinh nghiệm của người dân, phải ăn canh rau sắng nấu suông, nêm một chút muối, chậm rãi nhai kỹ từng chiếc lá nhỏ, thưởng thức thật sâu, thật kỹ vị ngọt, vị bùi khó tả của nó thì mới cảm nhận được hương vị đặc biệt của cây rau sắng. Những cây rau sắng đực cho những chùm rồng rồng. Loại này có thể nấu canh và ngon hơn nữa là xào với thịt bò.
Quả sắng hình bầu dục, to như quả nhót, khi chín có mầu vàng sẫm, ăn có vị ngọt đượm như mật ong. Hạt của quả sắng sau khi bóc vỏ đem ninh với xương rất thơm ngon, có vị ngọt, bùi.
Giảo cổ lam
Giảo cổ lam được nghiên cứu có chứa hơn 100 loại saponin, cấu trúc giống saponin trong nhân sâm và tam thất. Ngoài ra, Flavonoid có tác dụng chống lão hóa mạnh, giúp trẻ lâu, hơn nữa giảo cổ lam có vi lượng Zn, Fe, Se công dụng giảm mỡ máu, ổn định huyết áp, chống một số biến chứng tim mạch, tiểu đường... rất tốt cho sức khỏe mỗi người.
Người dân nơi đây thường dùng lá, cành cây này làm trà thảo dược, lá non còn được dùng làm rau. Nếu có dịp được đến nơi này thì đừng quên thưởng thức món canh giảo cổ lam mát ngọt, bổ dưỡng tại đây nhé!
Khâu nhục Bắc Kạn
Thịt ba chỉ ngon được luộc sơ qua, dùng tăm tre chọc bì thật kỹ để tẩm ướp gia vị đậm đà. Tiếp theo đem thịt quay đều, vừa quay vừa quết mật ong để bì có màu vàng hấp dẫn. Khoai rán vàng lên, xếp một miếng khoai, một miếng thịt, nhân được làm bằng thịt, nấm hương, mộc nhĩ,... hấp cách thủy khoảng 5 tiếng.
Món "mầm đá" này có vị thơm quyến rũ của thịt, bùi bùi của khoai... chỉ cần ăn một miếng thì bạn sẽ không thấy phí khoảng thời gian nấu nó chút nào. Người dân nơi đây rất tự hào được giới thiệu đặc sản này của quê hương mình với thực khách khi đến Bắc Kạn.
Lạp Xường
Nhân lạp xường được chọn từ thịt vai, vừa có nạc, vừa có mỡ, khi ăn sẽ thấy vừa miệng mà không bị ngấy. Sau khi nhồi thịt vào lòng non xong, người ta đem nó hong trên gác bếp, hơi ấm của bếp sẽ giúp lạp xường se lại và săn chắc. Để từ 5-6 ngày là lấy ra ăn được, lạp xưởng đem chiên cho chín, rưới thêm chút nước mắm, hành tươi thì mùi vị không ai có thể cưỡng lại được.
Lạp xường được chế biến qua tay người Bắc Kạn có mùi vị vô cùng đặc trưng, của rừng núi, khói bếp, mật thơm... khi ăn hòa quyện giữa lòng non dai giòn, ngọt của thịt nạc, béo của mỡ, vô cùng vừa miệng.
Bánh Khẩu Thụy
Người dân tộc Tày lấy bèo tây đun lấy nước, cây vông hoa đỏ đốt lấy tro. Thứ nước được hòa giữa hai thứ này để ngâm gạo nếp, khi gạo nở to thì đem lên đồ. Thứ nguyên liệu không thể bỏ qua chính là khoai sọ và rượu. Bèo tây, tro vông giúp bánh nở to, bánh lên màu nhờ khoai sọ, mùi thơm từ rượu vô cùng hấp dẫn.
Thực khách khi đến Bắc Kạn có thể dễ dàng mua loại bánh này về để làm quà cho người thân, món quà vừa ý nghĩa lại là đặc sản rất riêng tại đây.
Lợn sữa quay
Lợn sau khi chọc tiết thì dùng nước nấu lá ổi để cạo sạch lông, mổ moi và làm sạch trong bụng rồi nhồi vào trọng bụng lợn các nguyên liệu như quả mắc mật, tai hồi, thảo quả, quế chỉ … rồi đem quay trên than hồng.
Khi quay thì thường xuyên lấy khăn nhúng nước lau chú lợn để phần da lợn ở ngoài không bị cháy, khi lợn gần chín thì dùng que xăm thủng lợn để nước và mỡ chảy ra. Sau đó, chúng ta sẽ bỏ lợn ra khoảng 1 tiếng cho bớt nóng và để khi chặt thịt miếng thịt bày ra đĩa không bị nát.
Đĩa thịt lợn quay vàng xộm thơm lừng ngon lành đến ứa nước miếng. Cắn miếng thịt quay có vị ngọt của thịt chín tới, vị thơm của lá mác mật, vị ngậy của thịt nướng, miếng thịt được tẩm ướp đậm đà, ăn một lần sẽ nhớ mãi.
Chè Shan Tuyết
Chợ Đồn, Bắc Kạn hiện có trên 1000 gốc chè cổ thụ trên 100 năm tuổi đang trong thời kỳ thu hoạch. Khác với các giống chè khác, búp chè shan tuyết to có phủ một lớp lông tơ trắng, trông như nhiều bông hoa tuyết kết thành. Sao khô búp chè lên ta sẽ được một loại có màu trắng bạc, pha nước sóng sánh vàng, vô cùng hấp dẫn, hương vị đậm đà.
Bánh Ngải
Bánh ngải cũng giống như món bánh dày của người xuôi ta, nhưng mùi vị và cách làm cũng đặc biệt hơn một chút. Lá ngải được rửa sạch, đun với nước tro bếp từ 2-3 tiếng. Sau khi đun nhừ lá, rửa nhiều lần cho sạch nước tro, bỏ qua sơ, vắt kiệt nước rồi nắm thành từng nắm. Phần lá này sẽ được giã với xôi đã được đồ chín để tạo hương vị và màu sắc cho vỏ bánh. Nhân bánh được làm từ đỗ, mỗi chiếc bánh nóng hổi được đặt trên khoanh lá chuối tròn.
Bánh ngải là thứ bánh dễ ăn, mát mà lại không ngấy. Đặc biệt là vị hăng hăng, thơm lạ của lá ngải vùng cao khiến thực khách đến đây đều thích mua bánh về làm quà biếu, vừa dân dã lại đậm màu sắc dân tộc Bắc Kạn.
Tôm chua Ba Bể
Tôm chua là món ăn ngon của Bắc Kạn, có mặt ở nhiều nơi và nhiều vùng chế biến nhưng tôm chua ở Khang Ninh- Ba Bể có một hương vị rất riêng biệt của vùng miền núi Việt bắc. Du khách đến Bắc Kạn mà không được thưởng thức tôm chua Ba Bể thì thật sự đáng tiếc.
Hiện nay cứ 5 ngày một phiên tôm chua được bày bán tại chợ Khang Ninh (trên đường du khách vào tham quan hồ Ba Bể) bởi lẽ nó không chỉ là món ăn quen thuộc của đồng bào miền núi nữa mà nó đã được nhiều du khách thập phương biết đến
Bánh Pẻng Phạ
Bề ngoài bánh không có gì nổi bật, viên bánh tròn tròn nhỉnh hơn quả nhãn lồng. Bánh có màu hơi nâu nâu thấp thoáng phủ dưới một lớp bột màu trắng. Tuy chiếc bánh nhỏ nhắn mà lại được chế biến bởi bàn tay công phu với kết hợp nhiều nguyên liệu, hương vị đặc trưng Bắc Kạn.
Công đoạn để làm ra chiếc bánh này cũng không quá cầu kỳ, gạo nếp là nguyên liệu chính, gạo ngon xay khô thật mịn làm bột nếp. Sau đó nhào bột với nước chè mạn pha đặc lấy màu, thêm chút rượu trắng. Nhào cho bột thật đều rồi nặn bánh đúng kích thước, chiên trong chảo mỡ. Đun đường rồi thả bánh đã chiên ngập đường, vớt ra thì lăn ngay vào bột để làm áo bánh. Pẻng phạ bên trong dẻo, thơm, bên ngoài thì giòn tan ăn rất thú vị.
Miến dong
Món miến dong Bắc Kạn được nhiều người ưa chuộng do kinh nghiệm sản xuất truyền thống của đồng bào dân tộc, sợi dai, hương thơm đặc trưng. Sợi miến sau khi nấu để nguội cũng không bị bở, nát.
Xôi Đăm Đeng
Xôi Đăm Đeng là món ăn đặc sắc của người dân miền núi phía Bắc từ bao đời nay. Xôi Đăm Đeng thường có trong những phiên chợ, ngày cưới hay dịp lễ, tết của người dân tộc miền núi phía Bắc, đặc biệt là vào dịp tết thanh minh (3/3 âm lịch).
Món xôi này rất độc đáo vì được nấu từ gạo nếp nương và tất cả màu sắc của xôi không tạo ra bằng phẩm màu mà bằng hương sắc của cây cỏ. Người ta lấy lá của cây cẩm và vài loại lá khác đun lên, chắt nước ra, ngâm gạo nếp vào khoảng vài giờ rồi mang đồ trên chõ gỗ. Nước ngâm gạo phải nóng già thì khi chín xôi mới có độ dẻo.
Xôi Đăm Đeng có một mùi thơm đặc trưng của cây cỏ, không thể lẫn với bất cứ loại xôi nào khác. Hạt xôi bóng đẹp nhưng không ướt, khi nguội hạt xôi se lại nhưng vẫn mềm, dẻo và thơm. Xôi Đăm Đeng thường được ăn với muối vừng hoặc ruốc tùy theo khẩu vị từng người. Người dân Bắc Kạn quan niệm rằng ăn xôi này sẽ mang lại nhiều may mắn và tốt lành.
Bánh Coóc Mò
Coóc mò cũng là một loại bánh được bà con các dân tộc Bắc Kạn hay làm. Mới nhìn qua nhiều người nhầm là bánh gio vì hình thức bánh coóc mò cũng giống như vậy . Bánh cũng được gói theo hình chóp nhưng lá gói bánh lại là lá chuối.
Bánh coóc mò ăn có vị đậm và thơm bởi được làm từ gạo nếp nương và lạc nhân đỏ . Ăn không ngán, mùi vị hợp với nhiều người, bánh coóc mò rất hợp với những bữa điểm tâm buổi sáng.
Mèn mén
Mèn mén được chế biến qua nhiều công đoạn như bóc vỏ, tách hạt khỏi lõi ngô, xay hạt ngô thành bột. Sau khi có bột ngô vừa ý rồi, ta trộn bột ngô với nước rồi đảo cho bột tơi ra, tiếp tục đổ ngô vừa trộn vào chõ, cho nước vừa đủ để đồ. Để có được thành phẩm, người làm phải đồ bột ngô hai lần trên chõ gỗ.
Mèn mén khi chín có vị thơm, dẻo vô cùng đậm đà, dễ ăn, người dân nơi đây thường ăn kèm với một bát canh, đặc biệt là canh bí sẽ giúp món ăn thêm phần hấp dẫn.
Cá nướng Pác Ngòi
Cá trong hồ Ba Bể có rất nhiều, thường được người dân đánh bắt thủ công, số lượng cá không nhiều nhưng chất lượng thì thật tuyệt vì thịt cá trắng, chắc và có vị ngọt. Người ta chọn lấy loại cá chỉ nhỏ bằng ngón tay cái, loại cá này vừa giống như cá bống, vừa giống con cá nẹp ở xuôi để làm món cá nướng.
Để có được món cá nướng, người dân nơi đây đã phải trải qua một quá trình chế biến cá, dù không khó nhưng lại mất thời gian. Cá tươi sau khi được đánh bắt chọn những con đều nhau, mổ lấy ruột bỏ đi và rửa sạch, sau đó cho vào chõ đồ chín tới. Tiếp đến người ta dùng nẹp tre để tạo thành kẹp, mỗi kẹp chừng 8 – 10 con. Đem những kẹp cá phơi cho khô ngoài nắng. Phơi khoảng 3 – 4 nắng là được.
Khi ăn, ta chỉ việc gỡ cá ra khỏi nẹp tre và dùng cồn để nướng (giống như nướng mực), hoặc để cả kẹp cá mang nướng trên bếp than (nướng bằng than cá sẽ ngon hơn). Không cần nướng quá kỹ vì cá đã đồ một lần rồi. Ta chỉ nướng sơ cho cá vừa chín tới. Nướng kỹ quá cá sẽ bị đắng và khô ăn sẽ kém ngon.
Bánh trứng kiến
Việc vất vả nhất để làm được thứ bánh độc đáo nào là đi lấy trứng kiến cho nhân bánh ở trong rừng. Loại kiến này màu đen, thân nhỏ, đuôi nhọn thường làm tổ trên cây vầu. Những chiếc tổ kiến màu đen, hình tròn hoặc bầu dục kết chặt vào cành cây. Kiến không có độc, cắn không đau nên trứng của nó có thể chế biến để ăn.
Vỏ bánh được làm khá đơn giản, gạo nếp xay cho nhuyễn và cô thành bột dẻo. Người làm phi thơm hành rồi cho trứng kiến vào rang đúng điệu tạo mùi béo ngậy để tạo nhân bánh. Gói bánh cho nhân bên trong vỏ thật khéo tay để bánh được vuông vức. Cuối cùng là bọc bên ngoài lớp lá vả bánh tẻ, cho vào nồi đồ như xôi độ 30 phút là chín.
Bánh trứng kiến là một món ăn ẩm thực mang đậm nét văn hóa đồng bào dân tộc Tày. Món bánh lạ đủ hương vị núi rừng, đậm đà, béo ngậy này sẽ khiến du khách bốn phương nhớ mãi không quên.