Văn học đem đến cho con người không chỉ tri thức, văn học còn nuôi dưỡng tâm hồn, khiến chúng ta có cái nhìn sâu sắc và đúng đắn hơn về thế giới quanh mình và biết yêu thương, trân trọng những giá trị vật chất và tinh thần. Văn học là món ăn tinh thần và món ăn ấy sẽ trở thành cao sơn mỹ vị nếu được tạo ra bởi những nhà văn hào kiệt, chúng sẽ trường tồn vượt thời gian và sống mãi trong lòng người đọc. Cùng toplist điểm qua những kiệt tác đã và chọn cho mình một tác phẩm tuyệt vời nhất để đọc thôi nào.
Ba Gã Cùng Thuyền
Ba gã cùng thuyền (chưa kể con chó) là tập hợp những mẩu chuyện hài hước, những giai thoại, mà gã J kể lại trong suốt chuyến hành trình của bộ tứ bằng giọng văn nhẹ nhàng, thông minh, đôi khi đan xen những chi tiết thoát ly thực tế vô hại khiến độc giả sảng khoái theo dõi và bật cười. Những mẩu chuyện xuất phát từ những tình huống xảy ra trong chuyến du ngoạn, nhưng cũng có khi là những câu chuyện được kể lại đan cài với diễn biến thực tế. Những câu chuyện dí dỏm, duyên dáng và tinh tế đậm chất Ăng-lê chinh phục những độc giả ưa thích sự hóm hỉnh của người Anh. Tác phẩm cùng giọng văn đặc trưng của Jerome K. Jerome đã được chuyển thể thành kịch sân khấu, điện ảnh, truyền hình, thậm chí đi vào cả thơ ca.
Xuất bản lần đầu tiên tại Anh quốc vào năm 1889, Ba gã cùng thuyền (chưa kể con chó) là tác phẩm hài hước dựa trên những sự kiện có thật của nhà văn Jerome K. Jerome trong hành trình bằng thuyền trên sông Thames từ Kingston tới Oxford. Mức độ ảnh hưởng của tác phẩm vẫn còn nguyên vẹn đến ngày nay khi vào năm 2003, tạp chí Guardian xếp cuốn sách đứng vị trí 33 trong 100 tiểu thuyết của mọi thời đại.
Năm 2009, Ba gã cùng thuyền chiếm vị trí thứ hai trong số 50 tác phẩm hài hước nhất trong lịch sử do tạp chí Esquire bình chọn. Tuy phải đối mặt với những nguồn dư luận chỉ trích tác phẩm "khiếm nhã" và thiếu nghiêm túc, nhưng bằng sự dí dỏm “chân thực vô vọng và không thể cứu chữa” của mình. Vượt lên trên một cuốn cẩm nang về địa lý nước Anh, vượt lên trên một tác phẩm hài hước bình thường, Ba gã cùng thuyền (chưa kể con chó) của Jerome K. Jerome đã trở thành một tác phẩm văn học kinh điển trong nền văn học Anh nói riêng cũng như trong kho tàng văn chương nhân loại nói chung.
Chiến tranh và hòa bình
Chiến tranh và hòa bình là bộ tiểu thuyết sử thi của Lev Nikolayevich Tolstoy, được nhà xuất bản Russki Vestnik in lần đầu từ năm 1865 đến 1869. Đây là tác phẩm phản ánh một giai đoạn bi tráng của toàn xã hội Nga, từ giới quý tộc đến nông dân, trong thời đại Napoléon, và được coi là một trong hai kiệt tác chính của Lev Tolstoy. Chiến tranh và hòa bình cũng đồng thời được đánh giá là một trong những tiểu thuyết vĩ đại nhất của văn học thế giới.
Bộ tiểu thuyết "Chiến tranh và Hòa bình" được mệnh danh là con sư tử (Lev trong tiếng Nga là con sư tử) của nền văn học Nga. Cốt truyện được xây dựng dựa trên hai biến cố lịch sử cuối thế kỉ XIX là cuộc chiến tranh năm 1805 và 1812, đồng thời phản ánh cuộc sống hòa hòa bình ở nước Nga trong giai đoạn Nga vào các giai đoạn 1805 -1812, 1812 -1820. Tác phẩm sáng ngời khát vọng yêu chuộng hòa bình, bừng lên một củ nghĩa nhân văn sâu sắc, xứng đáng là một trong những tuyệt phẩm kiệt tác của nhân loại.
Một trong những đặc điểm nổi bật của Chiến tranh và hòa bình là nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật. Số phận nhân vật với những tâm trạng tinh tế đều gắn bó mật thiết với bước thăng trầm của lịch sử. Đây chính là điểm cách tân của Lev Tolstoy về thể loại anh hùng ca, từ đó tạo nên hình tượng anh hùng ca hiện đại trong lịch sử văn học Nga và văn học thế giới.
Bắt trẻ đồng xanh
”Bắt trẻ đồng xanh” là câu chuyện về sự nổi loạn của tuổi trẻ, những khát khao thầm kín và cả cảm giác mất phương hướng trong cuộc sống ở tuổi thiếu niên. Hơn thế, đó là cái nhìn trong veo vừa hồn nhiên vừa chân thực trước những thói đạo đức giả trong xã hội. Xuất bản năm 1951, “Bắt trẻ đồng xanh” của J.D Salinger đã gây tiếng vang lớn (nói đúng hơn là tranh cãi), một thời gian cuốn sách đã bị kiểm duyệt cắt bỏ nhất trong hệ thống các trường trung học và thư viện của Hoa Kỳ. Nhưng sức hút và giá trị nhân văn, giáo dục của nó đã được đánh giá cao và đưa vào chương trình giảng dạy bậc trung học và được dịch ra nhiều ngôn ngữ trên thế giới.
Câu chuyện chỉ kể về Holden Caufield, 17 tuổi với những lần cậu ta bị đuổi khỏi trường với lý do không có gì mới hơn chuyện trượt môn hay bị kêu ca là lười học. Suốt hơn 300 trang sách cậu ta chỉ nói về mấy ngày sau đó, không có gì hơn nhưng vẫn khiến người đọc say mê tới mức cứ đọc hoài đọc mãi xem cậu ta đi đâu, nói gì, làm gì tiếp theo. Ở cái tuổi 17 vừa bước chân vào ngưỡng cửa cuộc đời, đáng ra phải phơi phới yêu đời và tràn đầy sức sống thì cậu ta đã nhìn mọi thứ bằng con mắt hết sức tiêu cực. Cậu chừng như ghét tất thảy. Một thằng quanh năm suốt tháng bị đuổi học, rít thuốc như ống bễ, làm loạn lên và bị đấm vỡ mũi chỉ vì một con nhỏ mà nó từng nắm tay không biết chán, thì có gì đáng kể chứ. Không quá cầu kì, một tác phẩm với ngôn từ hết sức giản đơn lại đi sâu vào tiềm thức con người, vực dậy những tiếng lòng nội tâm, những góc nhìn về cuộc sống. Nhà văn Salinger thể hiện sự thông minh và khéo léo trong cách kể chuyện của mình, tác phẩm kể về chàng trai với những suy nghĩ tuy giản đơn, thông minh, hài hước nhưng lại chất chứa cái nhìn sâu sắc về cuộc sống.
Giết con chim nhại
Cuốn tiểu thuyết Giết con chim nhại của Harper Lee mới đây đã được bình chọn là cuốn sách được yêu thích nhất nước Mỹ trong một khảo sát toàn quốc với sự tham gia của hàng triệu độc giả nước này. Giết con chim nhại từ trước đến nay vẫn là một trong những cuốn sách tiêu biểu nhất của nước Mỹ bàn về sự phân biệt chủng tộc và bất công ở các bang miền Nam. Lấy bối cảnh những năm 1930, tác phẩm xoay quanh luật sư Atticus Finch và hai người con của ông, Jem và Scout. Khi Atticus biện hộ cho một người da màu bị buộc tội cưỡng hiếp phụ nữ da trắng một cách sai trái, chính những tranh luận và lời chỉ bảo của ông đã giúp Scout "mở to mắt" để quan sát thực sự thế giới xung quanh mình. "Giết con chim nhại" - một cuốn sách dù viết dưới giọng kể của một cô bé, tuy nhiên những gì tác phẩm gửi gắm đến người đọc lại vô cùng sâu sắc.
Nhà văn Harrper Lee đã đưa người đọc cùng trải qua những cung bậc của cảm xúc, đề cập bất cứ một vấn đề sâu xa của xã hội bấy giờ. Hãy đến với tác phẩm khi bạn muốn biết về nạn phân biệt chủng tộc, cái định kiến khắt khe, muôn thuở trọng nam khinh nữ... Dưới góc nhìn và lăng kính của trẻ thơ, người lớn lại cảm thấy và rút ra thật nhiều những thông điệp cuộc sống. Tình yêu thương con người là chủ đề xuyên suốt tác phẩm, có lẽ cũng vì tính nhân văn như vậy mà tác phẩm được rất nhiều người yêu mến đón đọc.
Trăm Năm Cô Đơn
Cho đến nay Trăm năm cô đơn vẫn là cuốn tiểu thuyết lớn nhất của Gabriel Garcia Márquez, nhà văn Columbia, người được giải Nobel về văn học năm 1982. Trăm năm cô đơn ra đời (1967) đã gây dư luận sôi nổi trên văn đàn Mỹ Latinh và lập tức được cả thế giới hâm mộ. Sau gần hai mươi năm, Trăm năm cô đơn đã có mặt ở khắp nơi trên hành tinh chúng ta để đến với mọi người và mọi nhà.
Trăm năm cô đơn là câu chuyện về dòng họ Buênđya tồn tại bảy thế hệ, người đầu tiên bị trói vào gốc cây và người cuối cùng bị kiến ăn, một dòng họ tự lưu đày vào cõi cô đơn để trốn tội loạn luân. Trong cõi cô đơn ấy, những Accađiô, Aurêlianô, Rêmêđiôt và những Amaranta đã ra đời, sống với số phận bi đát như đã được định trước: lay lắt trong nỗi cô đơn và hoài nhớ, thấp thỏm lo phạm tội loạn luân. Nhưng rồi họ yêu nhau mãnh liệt và lấy nhau với hy vọng tình yêu sẽ cải tạo nòi giống mình. Nhưng họ vẫn đẻ ra những đứa con có đuôi lợn và chính nó đã kết liễu dòng họ Buênđya.
Trăm năm cô đơn là lời kêu gọi mọi người hãy sống đúng bản chất người – tổng hòa các mối quan hệ xã hội – của mình, hãy vượt qua mọi định kiến, thành kiến cá nhân, hãy lấp bằng mọi hố ngăn cách cá nhân để cá nhân mình tự hòa đồng với gia đình, với cộng đồng xã hội. Vì lẽ đó Garcia Márquez từng tuyên bố cuốn sách mà ông để cả đời sáng tác là cuốn sách về cái cô đơn và thông qua cái cô đơn ông kêu gọi mọi người đoàn kết, đoàn kết để đấu tranh, đoàn kết để chiến thắng tình trạng chậm phát triển của Mỹ Latinh, đoàn kết để sáng tạo ra một thiên huyền thoại khác hẳn. Một huyền thoại mới, hấp dẫn của cuộc sống, nơi không ai bị kẻ khác định đoạt số phận mình ngay cả cái cách thức chết, nơi tình yêu có lối thoát và hạnh phúc là cái có khả năng thực sự, và nơi những dòng họ bị kết án trăm năm cô đơn cuối cùng và mãi mãi sẽ có vận may lần thứ hai để tái sinh trên mặt đất này. Người đọc tìm đến với Trăm năm cô đơn bởi đó là cuốn sách văn học thực sự mang hơi thở đời sống hiện đại – cuốn sách của niềm tin và những số phận con người.
Tiếng chim hót trong bụi mận gai
"Tiếng chim hót trong bụi mận gai" là tuyệt phẩm của nữ nhà văn Úc Colleen McCulough, ngay sau khi ra đời và được xuất bản ra nhiều thứ tiếng tác phẩm đã có sức lan tỏa mạnh mẽ. Đây là tác phẩm được xếp ngang hàng với tác phẩm của nhà văn Margaret Mitchell "Cuốn theo chiều gió". Tác phẩm này khi vừa xuất hiện được xuất bản cùng lúc New York, San Francisco, London, Sydney.
Tác phẩm kể về câu chuyện tình yêu đôi lứa giữa Mecghi xinh đẹp và Cha xứ Ranfơ. Vì thân phận, địa vị của mình vị cha xứ đã phải chạy trốn cảm xúc suốt đời. Tình yêu của họ là những cảm xúc mãnh liệt, những yêu thương, những chia xa, những gần nhau rồi lại là những khổ đau và bi kịch. Hãy đến với "Tiếng chim hót trong bụi mận gai", bạn sẽ hòa mình trong nỗi niềm của từng nhân vật, một tác phẩm có sức lay động mãnh liệt lòng người.
Kết thúc câu chuyện và cũng là kết thúc của một tình yêu, tác phẩm lấy đi của người đọc biết bao nước mắt, tiếc thương thay những số phận bất hạnh, tiếc thay một tình yêu cao thượng, những hi sinh vì tình yêu đôi lứa. Tiểu thuyết Tiếng chim hót trong bụi mận gai xuất bản vào mùa xuân 1977 cùng một lúc ở New York, San Francisco, London, Sydney – Ít lâu sau đã được dịch ra bảy thứ tiếng, được bạn đọc nhiệt liệt hoan nghênh và giới phê bình đánh giá cao. Suốt mấy năm là tác phẩm ăn khách nhất ở phương Tây. Đây là tác phẩm đặc sắc, có giá trị trong văn học thế giới hiện đại.
Cuốn theo chiều gió
Được xuất bản vào năm 1936, tác phẩm "Cuốn theo chiều gió" là tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn Margaret Mitchell. Xuyên suốt tác phẩm là hình ảnh người con gái ở miền Nam Scarlett O’Hara xinh đẹp, thông minh và mạnh mẽ với lối sống phóng khoáng, dám nghĩ dám làm. Hình ảnh của cô tượng trưng cho những người phụ nữ hiện đại, mạnh mẽ, tự lập, khát khao thể hiện bản thân, khẳng định chính mình. Cô gái đã vượt qua thời kì khó khăn hậu chiến vươn lên và trở thành nữ nhân thành đạt.
Tác phẩm còn ca ngợi tình yêu đôi lứa, nếu đã từng đọc hẳn bạn sẽ không thể quên chuyện tình lãng mạn của Scarlett O’Hara và anh chàng Rhett Butler. Tác phẩm này sau đó đã được chuyển thể thành phim và khẳng định sức sống của một áng văn chương bất hủ trường tồn với thời gian. Cuốn theo chiều gió là tác phẩm kinh điển của nền văn học Mỹ được xuất bản lần đầu năm 1963.
Câu chuyện kể về cuộc đời Scarlett O’Hara, một nữ quý tộc miền Nam Hoa Kỳ đang vật lộn tìm cách sống sót qua cơn bão nội chiến và thời kỳ tái thiết đất nước. Nàng mạnh mẽ chiến đấu với cuộc đời để rồi sau cùng mới nhận ra bản thân đã bỏ lỡ rất nhiều cái gọi là…tình yêu, lí tưởng sống. Magaret Mitchell đã dùng ngòi bút lột tả chân thực những suy nghiệm sâu sắc về số phận con người nói chung, số phận của những con người miền Nam nước Mỹ trong thời kì bất ổn của đất nước. Trong đó có bài học về lí tưởng sống, tình yêu thương con người, sức mạnh vượt qua khổ đau, bất hạnh và tình yêu nam nữ. Tất cả đều vô cùng chân thực, sống động và đầy tính nhân văn.
Những người khốn khổ
"Những người khốn khổ" là tác phẩm nổi tiếng của đại văn hào Victor Hugo xuất bản năm 1962 và trở thành một trong những tác phẩm văn học nổi tiếng nhất thế giới. Những người khốn khổ là câu chuyện về xã hội nước Pháp trong khoảng hơn 20 năm đầu thế kỷ 19 kể từ thời điểm Napoléon I lên ngôi và vài thập niên sau đó. Nhân vật chính của tiểu thuyết là Jean Valjean, một cựu tù khổ sai tìm cách chuộc lại những lỗi lầm gây ra thời trai trẻ nhưng lại không thể thoát khỏi quá khứ của mình. Bản thân Những người khốn khổ có rất nhiều câu chuyện, nhân vật với những cuộc đời khác nhau, nhưng sợi dây nối những mảnh đời riêng biệt này lại chính là về Jean Valjean.
Những người khốn khổ là một tác phẩm rất ý nghĩa và mang nhiều giá trị thực tiễn. "Khi pháp luật và phong hoá còn đầy đoạ con người, còn dựng nên những địa ngục ở giữa xã hội văn minh và đem một thứ định mệnh nhân tạo chồng thêm lên thiên mệnh; khi ba vấn đề lớn của thời đại là sự tha hoá của đàn ông vì bán sức lao động, sự sa đoạ của đàn bà vì miếng cơm manh áo, sự cằn cỗi của trẻ nhỏ vì tối tăm thất học còn chưa được giải quyết; khi ở một số nơi đời sống còn ngạt thở; nói khác đi và trên quan điểm rộng hơn, khi trên mặt đất, dốt nát và đau khổ còn tồn tại thì những quyển sách như loại này còn có thể có ích.
"Những người khốn khổ là tiểu thuyết mang tính hiện thực, sử thi, có tầm bao quát xã hội và cũng là bài ca về tình yêu. Xét về hiện thực, tiểu thuyết của Victor Hugo miêu tả thế giới của những con người nghèo khổ một cách chân thực. Trên khía cạnh sử thi, tác phẩm đã miêu tả những sự kiện lịch sử quan trọng của nước Pháp, đã khắc họa những xung đột lớn lao bên trong tâm hồn con người, giữa cái Thiện và cái Ác, giữa sự tôn trọng luật pháp và tôn trọng đạo lý làm người...Tác phẩm khiến con người có cái nhìn về cuộc sống, biết yêu thương, sẻ chia và trân trọng những gì mình đang có. Nếu có thể, bạn hãy dành chút thời gian của mình để đọc cuốn kiệt tác này nhé.
Những cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn
"Những cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn" là một trong những tác phẩm gối đầu của đông đảo bạn đọc trên toàn thế giới. Dưới ngòi bút của danh hào Mark Twain, cốt truyện hiện lên là những cuộc phiêu lưu của nhân vật chính Huckleberry Finn trên dòng sông Mississippi cùng người bạn nô lệ tên Jim của mình. Cuốn tiểu thuyết thể hiện góc nhìn sâu sắc, cái cười châm biếm về xã hội ở miền Nam nước Mỹ thời bấy giờ, trong đó tác giả đặc biệt lên án nạn phân biệt chủng tộc. Hình ảnh Huckleberry Finn phiêu lưu trên sông với chiếc bè và người bạn của mình để đi tìm tự do là một hình ảnh bất hủ trong kho tàng văn học nhân loại.
Một nét độc đáo khác nữa của cuốn “The adventures of Huckleberry Finn” là lối hành văn của tác giả, trong đó Mark Twain đã vận dụng một cách nhuần nhuyễn các thổ ngữ địa phương để diễn tả những trạng huống tâm lý phức tạp, cũng như để mô tả một cách xuất sắc các cảnh vật thiên nhiên. Như chính Mark Twain đã giải thích trong lời nói đầu của cuốn sách này, ông đã sử dụng nhiều loại thổ ngữ của nhiều vùng và của các tầng lớp người khác nhau và việc lựa chọn các thổ ngữ này đã được thực hiện một cách cẩn thận, công phu. Đó là một khía cạnh đặc sắc của nghệ thuật hành văn trong Huckleberry Finn mà các độc giả chỉ có thể nhận thức được bằng cách đọc trực tiếp nguyên bản tiếng Anh, chứ không thể trông rõ qua bản dịch sang tiếng nước ngoài được.
Kẻ Trộm Sách
Kẻ trộm sách – tác phẩm của nhà văn Úc Markus Zusak xuất bản năm 2005 đã làm mưa làm gió trên bảng xếp hạng những cuốn sách bán chạy nhất của The New York Times hơn 100 tuần liên tiếp, trở thành một tác phẩm kinh điển, một sự lựa chọn của hệ thống các thư viện trường học của Anh và Mỹ. Kẻ trộm sách khi mới ra đời đã lập tức gây ngạc nhiên cho những cây bút phê bình văn học trên thế giới và làm hàng triệu cặp mắt phải nhòa lệ.
Người kể chuyện trong tác phẩm này là Thần Chết – một “gương mặt” quen thuộc của chiến tranh, gắn liền với cái chết, với sự bi thương, sự tăm tối. Nhưng câu chuyện mà Thần chết kể ra, về sự dữ dội của những gì con người gây ra đối với chính đồng loại của họ thì đến ngay cả Thần Chết cũng phải rùng mình. Lật giở những trang sách, người đọc như bước vào cuộc trò chuyện với Thần Chết, một nhân vật có khiếu hài hước, với một lời cảnh báo nho nhỏ đầy hóm hỉnh ngay khi mở đầu câu chuyện rằng “Bạn sẽ chết”.
Đây là một câu chuyện với quá nhiều cái chết nhưng cũng đầy ắp tình yêu thương và thấm đẫm tính nhân văn. Dù vậy, nội dung chính của câu chuyện không lột tả những cảnh chiến trường đẫm máu của thế chiến II, những cảnh giết chóc man rợ…mà đây là câu chuyện về Liesel, cô bé gái mồ côi được làm con nuôi tại phố Thiên Đàng thuộc thành phố Munich. Chính tại thị trấn nhỏ nghèo nàn với vẻ ngoài bình yên của những trận đá bóng của trẻ con, những phi vụ ăn trộm nho nhỏ của đám trẻ đói khát, tình bạn tuyệt đẹp của Liesel và cậu bé Rudy đầy cá tính… đã toát lên không khí của nước Đức căng thẳng đầy những xung đột, một nước Đức đang trải qua một trong những giai đoạn kinh hoàng nhất của lịch sử nhân loại.
Ông Già Và Biển Cả
Ông già và Biển cả (The Old Man and The Sea) là cuốn tiểu thuyết ngắn được tác giả nổi tiếng Ernest Hemingway viết vào năm 1952. Có thể nói, đây là một trong những tác phẩm nốt bật nhất trong sự nghiệp của nhà văn. Cũng nhờ cuốn tiểu thuyết này, Hemingway đã vinh dự được nhận giải thưởng Nobel Văn học năm 1954. Nhiều người nhận định, đây không chỉ là một trong những tác phẩm nổi bật nhất lịch sử Nobel Văn học mà còn là tác phẩm kinh điển nhất định phải đọc trong cuộc đời mỗi con người.
Đến với Ông già và biển cả, độc giả sẽ dõi theo hành trình ba ngày đánh bắt cá kiếm khổng lồ vô cùng khó khăn của ông lão đánh cá Santiago. Những tưởng vận may đã mỉm cười khi ông có thể thu phục con cá kiếm đẹp nhất trên đời, lũ cá mập lại lao tới rỉa sạch con cá kiếm duy nhất của ông lão. Và đáng buồn thay, khi cuộc hành trình kết thúc, thành quả duy nhất ông lão thu được chỉ còn là bộ xương vô dụng.
Nội dung câu chuyện đơn giản là thế, nhưng ẩn chứa trong đó lại là những tầng nghĩa sâu sắc, những thông điệp ý nghĩa gửi gắm tới độc giả. Đây chính là nguyên lý "tảng băng trôi" mà nhà văn đã sử dụng triệt để trong tác phẩm của mình, giúp câu chuyện không còn đơn thuần chỉ nói về ông già đánh cá. Không như những tác phẩm khác chỉ đi sâu khắc họa một thông điệp duy nhất, Ông già và biển cả là một chuỗi những ý nghĩa biểu tượng xuyên suốt cả tác phẩm. Đây cũng là tác phẩm nổi tiếng và là một trong những đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn. Tác phẩm này đoạt giải Pulitzer cho tác phẩm hư cấu năm 1953. Nó cũng góp phần quan trọng để nhà văn được nhận Giải Nobel văn học năm 1954.
Bác Sĩ Zhivago
Văn học Nga thế kỷ 20 luôn cuốn hút người đọc bởi những câu chuyện giàu ý nghĩa nhân văn và “Bác sĩ Zhivago” của Boris Pasternak là một tác phẩm như thế. Cuốn sách tái hiện lại lịch sử nước Nga những năm đầu thế kỷ 20 cho đến sau đại chiến thứ hai. Thông qua hình ảnh nhân vật Yury Zhivago cùng Lara Guishar, tác phẩm đã khắc họa số phận bi thảm của những con người trong giai đoạn lịch sử đau thương này. Họ là nạn nhân của chiến tranh nhưng vượt lên trên tất cả khắc nghiệt của cuộc sống, là câu chuyện tình yêu của họ - một mối tình lãng mạn, đẹp đẽ nhưng đầy nước mắt và khổ đau. Bác sĩ Zhivago được Pasternak viết xong vào năm 1956, nhưng do nội dung không thích hợp với đời sống văn học, chính trị Liên Xô lúc bấy giờ, nên cuốn sách đã bị Viện Văn học Moskva và Hội Nhà văn Liên Xô kịch liệt phản đối, các nhà xuất bản ở Liên Xô từ chối xuất bản, còn bản thân Pasternak bị Hội Nhà văn Liên Xô lên án, đả kích.
Dù không được xuất bản trong nước và bị lên án dữ dội, nhưng tiểu thuyết Bác sĩ Zhivago vẫn tìm được đường đến với độc giả các nước phương Tây. Năm 1957, bản thảo truyện được in thành sách tiếng Nga tại Ý. Một năm sau có ấn bản tiếng Ý và tiếng Anh. Pasternak nhờ đó mà được đề nghị nhận giải Nobel văn chương năm 1958, nhưng chính quyền Xô viết bấy giờ ép ông phải từ chối nhận giải thưởng này. Mãi đến 1988, tác phẩm mới được cho in và xuất bản tại Nga sau 30 năm ra đời. Cho đến tận ngày nay, Bác sĩ Zhivago vẫn được xem là cuốn tiểu thuyết gây sóng gió bậc nhất, là tác phẩm văn học điển hình nhất của cuộc chiến tư tưởng giữa hai siêu cường thời Chiến tranh lạnh.
Đồi gió hú
Cuốn tiểu thuyết dữ dội và bí ẩn về Catherine Earnshaw, cô con gái nổi loạn của gia đình Earnshaw, với gã đàn ông thô ráp và điên rồ mà cha cô mang về nhà rồi đặt tên là Heathcliff, được trình diễn trên cái nền những đồng truông, quả đồi nước Anh cô quạnh và ban sơ không kém gì chính tình yêu của họ. Từ nhỏ đến lớn, sự gắn bó của họ ngày càng trở nên ám ảnh. Gia đình, địa vị xã hội và cả số phận rắp tâm chống lại họ, bản tính dữ dội và ghen tuông tột độ cũng hủy diệt họ, vậy nên toàn bộ thời gian hai con người yêu nhau đó sống trong thù hận và tuyệt vọng, mà cái chết chỉ có ý nghĩa khởi đầu. Một khởi đầu mới để hai linh hồn mãnh liệt đó được tự do tái ngộ, khi những cơn gió hoang vắng và điên cuồng tràn về quanh các lâu đài trong Đồi Gó Hú.
Cuốn tiểu thuyết duy nhất của Emily Bronte là cuốn sách đã tới tay công chúng với nhiều lời bình trái ngược vào năm 1847. Thông qua mối tình giữa Cathy và Heathcliff, với bối cảnh đồng quê Yorkshire hoang vu trống trải, Đồi Gió Hú đã tạo nên cả một thế giới riêng với xu hướng bỏ qua lề thói, vươn tới thi ca cũng như tới những chiều sâu tăm tối của lòng người, giúp tác phẩm trở thành một trong những tiểu thuyết vĩ đại nhất, bi thương nhất mà con người từng viết ra về nỗi đam mê cháy bỏng. Xuất hiện trên văn đàn thế giới và khẳng định dấu ấn như một hiện tượng độc đáo của văn học cổ điển. Ngoài ra thì cho đến nay, cuốn tiểu thuyết kinh điển của văn học Anh đã được chuyển thể rất nhiều lần lên phim ảnh, truyền hình, nhạc kịch và opera.
Don Quixote
Đôn Kihôtê, Don Quixote, Don Kijote, Don Quijote hay Đông-Ki-Sốt (tiếng Tây Ban Nha: Don Quixote de la Mancha) là tiểu thuyết của nhà văn Tây Ban Nha Miguel de Cervantes Saavedra (1547-1616). Tác phẩm còn có tên đầy đủ là El Ingenioso hidalgo Don Quixote de la Mancha (Đôn Kihôtê, nhà hiệp sĩ quý tộc tài ba xứ Mancha). Phần đầu tiên được xuất bản năm 1605 và phần thứ 2 xuất bản năm 1615. Đây là một trong những tiểu thuyết viết sớm nhất bằng ngôn ngữ châu Âu hiện đại và có thể cho rằng là tác phẩm gây ảnh hưởng và điển hình nhất trong danh sách các tác phẩm của văn học Tây Ban Nha.
Đôn Kihôtê được coi là một trong số ít tác phẩm có nhiều người đọc nhất trong văn học phương Tây. Một cuộc điều tra năm 2002 do Viện Nobel Na Uy tiến hành đã cho thấy đây là tiểu thuyết hay nhất trong mọi thời đại. Nhân vật của tác phẩm, qua hình tượng Đôn Kihôtê, phản ánh được tính đa diện của con người, bên cạnh tính cách gàn dở là sự tế nhị, thương yêu đồng loại, yêu quý tự do và ghét thói xa hoa ăn bám của bọn quý tộc đương thời và biết trọng đạo lý.
Tác phẩm cũng không hoàn toàn được sáng tác với ý nghĩa hài hước, qua tác phẩm, Cervantes chế giễu những tàn dư của lý tưởng hiệp sĩ phiêu lưu thời phong kiến, đả kích một thị hiếu tầm thường đang phổ biến trong công chúng, hiển lộ khát khao hướng đến một xã hội hậu phong kiến công bằng và nhân đạo hơn. Một tác phẩm văn chương bất hủ của nhân loại, trường tồn với thời gian, Don Quixote được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất trong lịch sử nhân loại chỉ sau "Kinh thánh". Tác phẩm đã đưa nhà văn hào kiệt Miguel De Cervantes Saavedra (1547-1616) đến ánh hào quang của sự nghiệp. Tác phẩm đã được bình chọn là tiểu thuyết hay nhất trong một cuộc điều tra của Viện nghiên cứu Nobel Nauy. Những ý nghĩa nhân văn trong tác phẩm còn sáng mãi một khao khát công bằng, bác ái trong xã hội.
Trên Đường
“Trên đường” được dựa trên câu chuyện có thật của Jack Kerouac cùng người bạn Neal Cassady, hai trong số những nhân vật quan trọng của thế hệ Beat (Beat Generation) của nước Mỹ những năm 50, là cánh chim đầu đàn khởi xướng ra phong trào Hippy và tạo cảm hứng cho những người theo chủ nghĩa Bohemian. Tiểu thuyết này được viết ra trong vòng chưa đến ba tuần lễ trong năm 1951, theo lối viết sáng tác bột phát trên một cuộn giấy teletype, thể hiện một phong cách tươi mới với câu văn dài lan man dựa trên kết cấu rời rạc của nhạc jazz mà theo J.Kerouac đã nhấn mạnh “Không có ‘sự chọn lọc’ trong diễn đạt mà cứ đi theo sự liên tưởng của tâm trí, chìm vào những biển suy tư vô bờ bến với chủ đề triền miên.”.
Tác phẩm đề cao sự tự do trong tâm hồn, hoài bão sống trần trụi, niềm đam mê với những chuyến đi phiêu bạt và coi “con đường đó chính là cuộc đời họ”. Khẩu hiệu nổi tiếng “Make love, not war” cũng được ra đời trong thời kỳ này. Và từ một nhóm nhỏ những người bạn say mê văn chương, thế hệ Beat đã bất tử trở thành một huyền thoại văn hóa của nước Mỹ. Hình ảnh nhân vật trong tiểu thuyết mang ba lô và vẫy tay xin quá giang dọc đường đã tạo cảm hứng cho rất nhiều thanh niên thời kỳ đó cũng như bây giờ bắt chước theo. Hãy lên xe cùng Sal và Dean, biết đâu bạn sẽ tìm thấy mình ở đâu đó trên con đường dài ấy. Bất chấp những tranh cãi dữ dội từ khi mới ra đời, Trên đường là bằng chứng sống động nhất cho một giai đoạn trong lịch sử nước Mỹ, một phong trào trí thức. Cuốn sách được công nhận như một trong những tiểu thuyết vĩ đại nhất thế kỷ hai mươi của nền văn học Mỹ và thế giới.
Nhà giả kim
Hãy đến với "Nhà giả kim" của đại văn hào Paulo Coelho nếu bạn còn đang mải mê đi kiếm ước mơ, ý nghĩa và hạnh phúc ở đời. Tác phẩm này sẽ chỉ cho bạn những giá trị dù đơn giản nhất của cuộc sống. Bạn sẽ được thấy chính mình, thấy cái tôi đôi lúc còn chần chừ lười biếng, thấy được những "dấu hiệu' mà cuộc sống luôn đem lại, bạn sẽ thấy sự giao thoa giữa con người và thế giới xung quanh, thấy bí quyết của niềm hạnh phúc đôi khi lại chỉ là việc chiêm ngưỡng những điều tuyệt mỹ trên thế gian mà không quên đi "hai giọt dầu trên muỗng".
Tiểu thuyết Nhà giả kim (The Alchemist) của nhà văn Paulo Coelho viết bằng tiếng Bồ Đào Nha xuất bản lần đầu năm 1988 tại Brazil. Theo Sparknotes, trước khi Nhà giả kim đưa tác giả của nó trở thành tên tuổi lẫy lừng trên văn đàn thế giới, nhà văn Paulo Coelho từng trải qua một sự nghiệp viết lách không mấy suôn sẻ. Ở tuổi niên thiếu, ông thừa nhận mình là người không dễ gần và thường sống tách biệt với mọi người. Với tính cách đó, khi ông nói với cha mẹ việc muốn trở thành nhà văn, cha mẹ đã gửi ông tới bệnh viện tâm thần và ở đó biệt lập trong suốt ba tháng.
Sau thời gian này, Paulo Coelho chiều theo ý cha mẹ, nộp đơn đăng ký học trường luật, tuy nhiên chỉ sau một năm ông bỏ học và trở thành một tín đồ hippie rong ruổi khắp nơi. Trong thời gian đó ông xuất bản cuốn sách Hell Archives (1982) không mấy thành công và gần như đắm chìm trong thuốc phiện. Ông viết lời ca khúc cho các ngôi sao nhạc pop của Brazil thời ấy như Elis Regina, Rita Lee và Raul Seixas. Mặc dù không thành công trong sự nghiệp viết lách, Paulo Coelho lại kiếm được rất nhiều tiền từ việc viết lời bài hát. Rất có thể ông đã tạo dựng được sự nghiệp với công việc này nhưng rồi chuyến đi tới Tây Ban Nha đã dẫn ông theo một lối rẽ khác của cuộc đời.
Thằng Gù Nhà Thờ Đức Bà
Victor Hugo (26/2/1802 – 22/5/1885) là một nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch thuộc chủ nghĩa lãng mạn nổi tiếng của Pháp. Ông cũng đồng thời là một nhà chính trị, một trí thức dấn thân tiêu biểu của thế kỷ XIX. Thằng Gù Nhà Thờ Đức Bà – dịch từ nguyên bản tiếng Pháp Notre Dame de Paris của nhà văn Hugo. Tác phẩm ra đời xuất phát từ việc tác giả muốn viết một cuốn tiểu thuyết về ngôi nhà thờ nổi tiếng ở thủ đô Paris. Ông đã nhiều lần đến nhà thờ Đức Bà Paris để ngắm kiến trúc cổ của ngôi nhà thờ này.
Cuốn tiểu thuyết có tính chất lịch sử lấy bối cảnh Paris thời Trung cổ. Ông muốn ngôi nhà thờ cổ kính tráng lệ vượt lên trên thời gian và tất cả những biến cố. Tác phẩm đã thể hiện được sự vươn lên đến một tầm cao triết lý, qua cách mô tả một định mệnh đã dẫn các nhân vật gắn liền với ngôi nhà thờ này cho đến chỗ chết, chỗ hủy diệt. Chính cảm hứng bi quan này đã đêm đến cho tác phẩm vẻ lớn lao và hoang dại. Tác phẩm được chia làm 11 quyển.
Tuổi Thơ Dữ Dội
Tuổi thơ dữ dội – Cuốn sách xoay quanh cuộc sống chiến đấu và hy sinh của những thiếu niên 13, 14 tuổi trong hàng ngũ Đội thiếu niên trinh sát của trung đoàn Trần Cao Vân. Những Lượm, Mừng, Quỳnh sơn ca, Hòa đen, Bồng da rắn, Vịnh sưa, Tư dát… mỗi người một hoàn cảnh song đều chung quyết tâm, nhiệt huyết và lòng yêu nước, đã tham gia chiến đấu hết mình và hy sinh khi tuổi đời còn rất trẻ. Đúng như tên truyện, độc giả sẽ bắt gặp ở đó những chi tiết thực sự dữ dội về cuộc đời thiếu niên bất hạnh, về cuộc chiến tranh chống giặc tàn khốc nhưng ẩn sâu bên trong ta vẫn thấy những tâm hồn trong sáng và vô tư, thấy sự can trường, dũng cảm phi thường của nhân vật.
Tất cả những ai đã từng đọc tác phẩm này hầu như đều không ngăn được xúc động và những giọt nước mắt cảm thương, cảm phục. Đây thực sự là một tác phẩm quý trong kho tàng văn học Việt Nam. Một câu chuyện khơi dậy trong mỗi người tình yêu đất nước và niềm trân trọng ký ức tuổi thơ…Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường từng nhận định "Có một viên ngọc quý thời gian dành riêng để ban tặng con người, đó là Tuổi thơ. Viên ngọc màu nhiệm, trong sáng nhưng quá mong manh, không thể tìm thấy lần thứ hai trong đời. Và có một thế hệ người Việt chưa bao giờ được cầm viên ngọc trên tay, Tuổi thơ dữ dội của Phùng Quán được viết cho thế hệ đó. Hãy đọc để nhớ lại, để tự hào và để cầu nguyện cho những Tuổi thơ sắp ra đời…"